Ngày 1-5-2011, tại Rôma, Đức Gioan-Phaolô II được Giáo Hội tôn phong tước hiệu Chân phước. Không riêng người Công giáo mà cả những người thuộc các tôn giáo khác cũng hòa chung niềm vui thánh thiện này. Ngài giản dị mà vĩ đại và thánh thiện, thể hiện tình yêu và thứ tha như Đức Giêsu: Rửa chân và hôn chân người được rửa, đích thân đến nhà tù để tha thứ cho người đã ám sát mình là Mehmet Ali Ağca, yêu thương trẻ em, hòa đồng với giới trẻ, siêng năng lần hạt, có tâm hồn văn nghệ,… Tên cúng cơm của ngài là Karol Wojtyła. Ngài được mệnh danh là Sứ giả Hòa bình. Chứng nhân thứ nhất là thánh nữ Faustina, chân phước Gioan-Phaolô II là nhân chứng thứ nhì của Lòng Thương Xót Chúa.
Đức Gioan-Phaolô II cai quản Giáo Hội Công giáo La Mã trên cương vị Giáo hoàng gần 27 năm. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên không là người Ý kể từ Giáo hoàng người Đức gốc Hà Lan Adrian VI qua đời năm 1523, triều đại của Đức Gioan-Phaolô II là triều đại dài thứ ba trong lịch sử các triều đại Giáo hoàng. Mặc dù triều đại của ngài được đánh dấu bằng sự suy yếu của Công giáo tại các nước phát triển Tây phương, đồng thời có sự mở rộng của vai trò Giáo Hội ở Thế giới thứ ba và cộng sản Đông Âu. Việc bầu chọn Đức Gioan-Phaolô II làm Giáo hoàng được nhiều người tin tưởng với sự thúc đẩy thay đổi ở Âu châu để cuối cùng dẫn đến sự suy sụp của các nước cộng sản (downfall of the communist states) và sự nổi dậy của các chế độ dân chủ (emergence of democratic regimes).
Thầy Karol Wojtyła thụ phong linh mục ngày 1-11-1946, lúc 26 tuổi, do Đức TGM Adam Stefan Sapieha giáo phận Kraków chủ phong. Sau đó, ngài dâng lễ tạ ơn tại nhà thờ chính tòa Kraków. Rồi ngài được đi Rôma học tiến sĩ ở Viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas (Pontifical Athenaeum of St. Thomas Aquinas), thường gọi làAngelicum. Ở đó ngài học thêm về thần học và chính trị. Ngài nghiên cứu các bài viết của ĐGH Grêgôriô II, các giáo huấn của thánh Gioan Thánh giá, hiện tượng học (phenomenology) của Max Scheler. Ngài còn nghiên cứu cả Yves Congar, một nhà lý luận quan trọng về đại kết (ecumenism). Ngài học 2 năm tại Đại học Bỉ ở Rôma. Đại học này chỉ có 22 sinh viên là linh mục và chủng sinh, trong đó có 5 người Mỹ. Trong môi trường đa ngữ này, LM Wojtyła trau dồi thêm tiếng Pháp và tiếng Đức, đồng thời bắt đầu học tiếng Ý và tiếng Anh. Trong luận án tiến sĩ Doctrina de fide apud S. Ioannem a Cruce (Học thuyết Đức tin theo Thánh Gioan Thánh giá), ngài nhấn mạnh bản chất gặp gỡ riêng với Thiên Chúa. Mặc dù luận án tiến sĩ của ngài được chấp thuận hồi tháng 6/1948, ngài vẫn không được nhận bằng tốt nghiệp vì ngài không có văn bản luận án (đó là luật của Angelicum). Ngày 16/12/1948, ban giảng huấn thần học tại ĐH Jagiellonian ở Kraków xem xét lại luận án của ngài, và LM Wojtyła được cấp bằng.
Ngài trở về Ba Lan vào mùa hè năm 1948, và ngài được bổ nhiệm mục vụ tại giáo xứ Niegowić, cách Kraków 15 dặm. Đến Niegowić vào mùa thu hoạch, việc đầu tiên của ngài là quỳ xuống và hôn đất - một “thói quen tốt” mà ngài vẫn làm khi làm Giáo hoàng. Động thái này trở thành “thương hiệu” của ngài, nhưng không phải của chính ngài, vì ngài nói rằng ngài bắt chước vị thánh người Pháp của thế kỷ 19 là LM Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars (Curé d'Ars).
Các tác phẩm văn chương của LM Karol Wojtyła nở rộ trong 12 năm đầu làm linh mục. Chiến tranh, sống dưới chế độ cộng sản, và trách nhiệm mục vụ của ngài xuất hiện trong các bài thơ và kịch bản của ngài. Các tác phẩm đó được ngài ký bằng bút danh (pseudonyms) Andrzej Jawień và Stanisław Andrzej Gruda. Ngài dùng các bút danh để phân biệt tác phẩm văn chương với tác phẩm tôn giáo (ngài ký tên thật), và cũng để tránh sự “dòm ngó” của người khác.
Ngài có bằng tiến sĩ thứ hai, đánh giá tính khả thi của đạo đức Công giáo (feasibility of a Catholic ethic) dựa trên hệ thống đạo đức của nhà hiện tượng học (phenomenologist) Max Scheler (An Evaluation of the Possibility of Constructing a Christian Ethics on the Basis of the System of Max Scheler – Đánh giá tính khả dĩ của việc xây dựng Đạo đức Kitô giáo theo Hệ thống của Max Scheler, năm 1954). Cũng như với bằng tiến sĩ thứ nhất, ngài cũng không được cấp bằng ngay, vì chính quyền cộng sản cấm ban giảng huấn của ĐH Jagiellonian cấp bằng. Cùng với việc chuẩn bị tại ĐH Công giáo Lublin, cuối cùng ngài cũng nhận được bằng tiến sĩ triết năm 1957, và ngài được bầu làm trưởng khoa đạo đức học (Chair of Ethics) năm 1956.
Ngày 5/8/1958, trong chuyến đi chèo thuyền 2 tuần với nhóm Środowisko ở sông Lyne, thuộc Đông Bắc Ba Lan, LM Karol Wojtyła nhận được một lá thư cho biết phải đến gặp TGM Hồng y Wyszynski, giáo phận Warsaw. Khi ngài đến văn phòng tòa TGM, ĐHY cho ngài biết ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá (auxiliary bishop) của TGM Eugeniusz Baziak, tổng giáo phận Kraków, vì tổng giáo phận bị trống ngôi (sede vacante) do ĐHY Sapieha qua đời. LM Wojtyła vâng lời và đến thẳng tu viện Ursuline và xin được vào nhà nguyện để cầu nguyện. Ngài ngạc nhiên thấy các nữ tu đang phủ phục trước Nhà Tạm (tabernacle).
Ngài kể trong cuốn Rise, Let us be on our Way (Hãy đứng dậy, chúng ta cùng lên đường) rằng khi ngài vào một căn phòng đầy các linh mục, với tin tức về việc ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá, TGM Baziak đã nói lớn: “Habemus papam” (Chúng ta đã có Giáo hoàng). Ngài cho rằng những từ này có thể là lời tiên tri trong ánh sáng của các sự kiện xảy ra tiếp theo. Thế là Karol Wojtyła đã tìm được chính mình, là vị giám mục trẻ nhất Ba Lan lúc mới 38 tuổi. Ngài được TGM Baziak tấn phong giám mục vào ngày lễ thánh Wenceslaus, 28/9/1958, tại nhà thờ chính tòa Wawel ở Kraków.
Năm 1959, ĐGM Wojtyła bắt đầu thói quen hằng năm là cử hành thánh lễ vọng Giáng sinh ở một khu đất trống tại Nowa Huta, một thành phố công nghiệp do cộng sản xây dựng không xa Kraków, và là thành phố đầu tiên ở Ba Lan không có nhà thờ nào. Nhưng do áp lực của người Công giáo, một nhà thờ được xây dựng tại Nowa Huta năm 1977.
TGM Eugeniusz Baziak qua đời tháng 6/1962, và ngày 16/7/1962, GM Karol Wojtyła được bổ nhiệm làm giám quản (Vicar Capitular) của tổng giáo phận cho đến khi bổ nhiệm TGM. Ngày 5/10/1962, ĐGM Karol Wojtyła đi Rôma tham dự Công đồng Vatican II. Là một giám mục trẻ và có chức vụ tương đối thấp trong hàng giáo phẩm, ĐGM Wojtyła ngồi ở cạnh cửa Đền thờ Thánh Phêrô. Trước khi tới Công đồng, ĐGM Wojtyła đã gởi một tiểu luận cho các ủy viên (commissioners) để chuẩn bị Công đồng, ngài đề nghị rằng thế giới muốn biết Giáo Hội phải nói gì về con người và tình trạng con người. Câu trả lời của Giáo Hội là gì đối với việc phổ biến tính hiện đại gây thất vọng và sự hiện hữu của con người?
Ngài góp 2 tài liệu ảnh hưởng nhất và mang tính lịch sử nhất của Công đồng là Decree on Religious Freedom (Sắc lệnh về Tự do Tôn giáo – bản Latin là Dignitatis Humanae) và Pastoral Constitution on the Church in the Modern World (Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong Thế giới Hiện đại – bản Latin là Gaudium et Spes).
Ngày 30/12/1963, ĐGH Phaolô VI bổ nhiệm ngài làm TGM Kraków. Năm 1960, TGM Wojtyła xuất bản cuốn Tình yêu và Trách nhiệm (Love and Responsibility), đó là lời biện hộ các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội về giới tính và hôn nhân quan điểm thần học mới (new philosophical standpoint). Năm 1967, ngài có công trong việc công thức hóa Tông thư Humanae Vitae (Sự sống Con người) – Tông thư này giải quyết các vấn đề tương tự, đồng thời cấm phá thai và kế hoạch hóa gia đình theo cách nhân tạo. Năm 1967, ĐGH Phaolô VI bổ nhiệm TGM Wojtyła làm Hồng y.
Tháng 8/1978, sau khi ĐGH Phaolô VI qua đời, ĐHY Wojtyła được vào Mật viện Giáo hoàng (Papal Conclave). Khi đó, các Hồng y bầu chọn ĐHY Albino Luciani, TGM Venice, với niên hiệu Gioan-Phaolô I. Lúc 65 tuổi, ĐHY Luciani là người trẻ nhất theo tiêu chuẩn Giáo hoàng. ĐHY Wojtyła, lúc đó 58 tuổi, còn hy vọng được vào Mật viện lần nữa trước khi 80 tuổi (hạn tuổi đối với các Hồng y được bầu làm Giáo hoàng). Tuy nhiên, triều đại Giáo hoàng của Đức Gioan-Phaolô I chỉ kéo dài 33 ngày vì qua đời ngày 28/9/1978. Tháng 10/1978, ĐHY Wojtyła trở lại Vatican để bầu Giáo hoàng. Có hai nhóm ứng viên “mạnh”: ĐHY Giuseppe Siri, TGM Genoa, và ĐHY Giovanni Benelli, TGM Florence với một vị phụ tá thân cận của ĐGH Gioan-Phaolô I. Trong những lần bỏ phiếu đầu tiên, ĐHY Benelli chênh lệch 9 phiếu. Tuy nhiên, ĐHY Wojtyła an toàn là một ứng viên thỏa hiệp (compromise candidate), một phần nhờ sự ủng hộ của ĐHY Franz König, Tổng giáo phận Vienna, và các vị khác mới đầu ủng hộ ĐHY Giuseppe Siri.
Ngày hôm sau, với cương vị Giáo hoàng, ngài dâng thánh lễ với Hồng y đoàn (College of Cardinals) tại Nguyện đường Sistine (Sistine Chapel). Sau thánh lễ, ngài ban phép lành đầu tiên, gọi là Urbi et Orbi(phép lành truyền thống), đài phát thanh phát sóng toàn thế giới.
Cũng như vị tiền nhiệm, ĐGH Gioan-Phaolô II miễn lễ đăng quang truyền thống (traditional Papal coronation) và chỉ mặc tu phục giản dị để nhậm chức vào ngày 22/10/1978. Khi nhậm chức Giáo hoàng, các Hồng y quỳ gối trước ngài để tuyên hứa và hôn nhẫn, ngài đứng dậy khi ĐHY Stefan Wyszyński (người Ba Lan) quỳ gối, ngăn Hồng y này hôn nhẫn và ôm Hồng y này.
Ngài được bầu làm Giáo hoàng ngày 12/11/1978. Việc bầu chọn một giám mục ở một đất nước cộng sản giống như cốt truyện một cuốn sách (1963) và bộ phim The Shoes of the Fisherman (Đôi giày của Ngư ông, 1968).
Ngày 13/5/1981, ĐGH Gioan-Phaolô II vào Quảng trường Thánh Phêrô, ngài bị Mehmet Ali Ağca bắn bị thương nặng, hắn là tay súng chuyên nghiệp thuộc nhóm Sói Xám (Grey Wolves). Hắn dùng súng lục 9 ly bán tự động bắn ngài vào bụng, xuyên qua đại tràng và ruột non vài phát. Ngài được đưa ngay vào bệnh viện Gemelli. Ngài bất tỉnh trên đường đến bệnh viện. Dù không bị đứt động mạch nhưng ngài bị mất 3/4 lượng máu và gần hết máu. Cuộc phẩu thuật kéo dài 5 giờ. Khi tỉnh lại, trước khi phẫu thuật tiếp, ngài nói các bác sĩ đừng gỡ bỏ Dây Quàng Vai (Brown Scapular, dây các phép) khi phẫu thuật. Ngài nói rằng Đức Mẹ Fatima đã cứu ngài.
“Tôi có thể quên vụ [Ali Ağca ám sát ngài] ở Quảng trường Thánh Phêrô xảy ra vào hôm đó và vào lúc Mẹ của Đức Kitô lần đầu hiện ra với những dân nghèo hơn 60 năm trước tại Fatima thuộc Bồ Đào Nha hay không? Vì mọi thứ xảy ra với tôi trong ngày đó, tôi cảm thấy sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt của Đức Mẹ, đã trở nên mạnh hơn viên đạn” (Đức Gioan-Phaolô II – Ký ức & Đồng nhất, NXB Weidenfeld & Nicolson, năm 2005, tr. 184).
Ağca bị một nữ tu và những người đứng gần đó bắt giữ, sau đó cảnh sát đến điệu hắn đi. Hắn bị án tù chung thân. Hai ngày sau lễ Giáng sinh năm 1983, Đức Gioan-Phaolô II đích thân đến nhà tù thăm hắn. Ngài và hắn nói chuyện riêng khoảng 20 phút. Ngài cho biết: “Những gì chúng tôi nói chuyện vẫn được giữ bí mật, chỉ anh ta và tôi biết. Tôi nói với anh ấy như một người anh em mà tôi đã tha thứ và là người tôi hoàn toàn tin tưởng”.
Ngày 2/3/2006, Ủy ban Mitrokhin của Ý, do Silvio Berlusconi thành lập và dẫn đầu là thượng nghị sĩ Paolo Guzzanti, kết luận rằng Liên bang Soviet (Soviet UNI0N) đã đứng sau vụ ám sát Đức Gioan-Phaolô II, nhằm trả đũa việc ngài ủng hộ tình đoàn kết (solidarity), giới Công giáo, phong trào công nhân Ba Lan ủng hộ dân chủ (pro-democratic Polish workers' movement), một chủ thuyết đã được Michael Ledeen và Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (United States Central Intelligence Agency) ủng hộ lúc đó. Tường trình của Ý cho biết rằng các bộ an ninh cộng sản Bulgaria (Communist Bulgarian security departments) đã được dùng để không lộ vai trò của Liên bang Soviet (Soviet UNI0N). Báo chí tường trình cho biết rằng Tình báo quân đội Soviet (Soviet military intelligence, tiếng Nga là Glavnoje Razvedyvatel'noje Upravlenije) – không phải là KGB – chịu trách nhiệm. Phát ngôn viên Boris Labusov, thuộc Cơ quan Tình báo Ngoại quốc của Nga (Russian Foreign Intelligence Service) gọi sự kết tội đó là “lố bịch” (absurd). Trong chuyến tông du của Đức Gioan-Phaolô II tới Bulgaria hồi tháng 5/2002, thư ký của ngài là TGM Stanisław Dziwisz, đã viết trong cuốn A Life with Karol (Sống với Đức Karol) rằng ĐGH tin rằng liên bang Soviet cũ đã đứng phía sau vụ ám sát ngài nhưng họ không thừa nhận. Bulgaria và Nga đã tranh cãi về kết luận của Ý, nói rằng ĐGH từ chối liên kết với Bulgaria.
Vụ ám sát thứ hai xảy ra vào ngày 12/5/1982, một ngày trước ngày “kỷ niệm” ám sát lần một, ở Fatima (Bồ Đào Nha), một người đàn ông đã đâm ngài bằng lưỡi lê. Anh ta bị bảo vệ bắt, dù TGM Stanisław Dziwisz sau đó cho biết rằng Đức Gioan-Phaolô II đã bị thương nhưng không tiết lộ về vết thương nguy hiểm tới tính mạng ngài. Kẻ ám sát ngài là linh mục Juan María Fernández y Krohn, thuộc phe hữu của Tây Ban Nha, được TGM Marcel Lefebvre (thuộc Hội Thánh Piô X) phong chức linh mục và chống lại những thay đổi do Công đồng Vatican II, gọi ĐGH là đặc vụ của Cộng sản Moscow (Mát-cơ-va) và Khối Mác-xít Đông Âu. Sau đó Fernández y Krohn rời bỏ Công giáo La Mã và bị tù 6 năm. Cựu linh mục này được điều trị bệnh tâm thần (mental illness) và bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha, rồi làm cố vấn pháp luật (solicitor) ở Bỉ. Tháng 7/2000, ông ta lại bị bắt sau khi leo qua tường rào an ninh (security barricade) ở Dinh Hoàng gia Brussels (Royal Palace of Brussels), kết tội vua Tây Ban Nha Juan Carlos đã giết anh của ông ta là Alfonso năm 1956.
Đức Gioan-Phaolô II cũng là một trong các “đích nhắm” của tổ chức Bojinka được Al-Qaeda tài trợ khi ngài đến Philippines năm 1995. Kế hoạch đầu tiên của họ là giết Đức Gioan-Phaolô II khi ngài thăm Philippines dịp Đại hội Giới trẻ (World Youth Day) năm 1995. Ngày 15/1/1995, một kẻ đánh bom tự sát (suicide bomber) mặc tu phục linh mục, khi Đức Gioan-Phaolô II đi qua hắn để đến chủng viện San Carlos ở TP Makati. Hắn đến gần ngài và cho nổ bom. Vụ ám sát ngài có tổ chức để nhằm đánh lạc hướng. Tuy nhiên, lửa hóa chất đã báo động cho cảnh sát ở gần đó, và những kẻ ám sát ngài đã bị tóm gọn trước khi Đức Gioan-Phaolô II đến.
Ngài là vị Giáo hoàng trẻ tuổi nhất kể từ ĐGH Piô IX được bầu vào năm 1846. Đức Gioan-Phaolô II làm Giáo hoàng khi còn khỏe mạnh và tương đối trẻ, vẫn đi xe đạp, đi bơi và trượt tuyết. Tuy nhiên, sau 25 năm trên cương vị Giáo hoàng, vụ ám sát năm 1981 và chứng ung thư đã khiến sức khỏe ngài giảm sút. Ngài phải cắt một khối u ở đại tràng năm 1992, bị trật khớp vai năm 1993, gãy xương đùi năm 1994, và cắt ruột thừa năm 1996.
Năm 2001, một bác sĩ chỉnh hình nói rằng Đức Gioan-Phaolô II bị bệnh Parkinson, như đã được nghi ngờ một thời gian, Vatican biết điều này vào năm 2003. Ngài khó nói vài câu một lượt, tai cũng khó nghe hơn. Ngài còn bị viêm khớp nặng ở đầu gối chân phải, do đó ngài ít đi bộ trước công chúng. Tuy nhiên, ngài vẫn tiếp tục đi khắp thế giới. Những ai đã gặp ngài đều nói rằng dù sức khỏe yếu kém nhưng ngài vẫn hoàn toàn tỉnh táo.
Về cuối triều đại Giáo hoàng của ngài, có những người ngoài và trong Giáo Hội nghĩ rằng ngài nên từ chức hoặc về hưu. Thậm chí người ta còn đề nghị nhiệm kỳ Giáo hoàng. Tuy nhiên, khi Đức Gioan-Phaolô II nói rằng ngài chấp nhận Ý Chúa muốn ngài làm Giáo hoàng, ngài sẽ hoàn thành nhiệm vụ đến khi chết, dù tư liệu của ngài cho thấy ngài đã viết đơn xin từ chức năm 2002.
Ngày 1/2/2005, ngài được đưa vào Bệnh viện Đa khoa Agostino Gemelli ở Rôma vì bị nhiễm trùng thanh quản cấp tính và ho, do cảm cúm. Tòa thánh Vatican cho biết là ngày hôm sau tình trạng sức khỏe ngài đã ổn định, nhưng ngài vẫn ở trong bệnh viện đến khi khỏe hẳn. Ngày 6/2, ngài xuất hiện trước công chúng để đọc kinh Truyền tin (Angelus) ở cửa phòng bệnh viện bằng giọng khàn. Ngài không thể cử hành lễ Tro tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 9/2, và trở về Vatican ngày 10/2.
Ngày 24/2/2005, ngài bắt đầu khó thở và bị sốt, ngài được đưa ngay vào bệnh viện Gemelli để được phẫu thuật mở khí quản (tracheotomy). Một sĩ quan cận vệ của thủ tường Ý Silvio Berlusconi nói rằng Đức Gioan-Phaolô II là một người trầm lặng (serene) sau khi được phẫu thuật. Ngài đưa tay lên và muốn nói điều gì đó, nhưng các bác sĩ khuyên ngài không nên nói. Ngài ban phép lành từ cửa sổ bệnh viện vào thứ Bảy 27/2 và Chúa nhật 6/3, ngài nói bằng tiếng Đức và tiếng Ý khi gặp ĐHY Ratzinger (nay là ĐGH Bênêđictô XVI) trên tầng 10 của bệnh viện Gemelli vào ngày thứ Ba 1/3. ĐHY Ratzinger nói với báo giới quốc tế: “ĐGH nói với tôi bằng tiếng Đức và tiếng Ý. Ngài hoàn toàn minh mẫn. Tôi vui mừng thấy ngài sáng suốt để có thể nói về các vấn đề chính bằng giọng nói của ngài. Chúng tôi thường trao đổi bằng tiếng Đức. Chi tiết không quan trọng – ngài nói về các vấn đề chính”.
Khi đọc kinh Truyền tin ngày Chúa nhật 13/3, lần đầu tiên ngài có thể nói với khách hành hương từ khi nhập viện lần nữa. Chiều hôm đó, ngài trở về Vatican sau gần 1 tháng nằm viện. Chúa nhật lễ Lá (ngày 20/3), ngài xuất hiện một lúc tại cửa sổ để gặp khách hành hương. Ngài được hàng ngàn người hoan hô khi ngài lặng lẽ cầm nhánh ô-liu vẫy chào. Đây là lần đầu tiên ngài không thể cử hành Lễ Lá. Ngài xem lễ qua ti-vi quay cảnh thánh lễ ở Quảng trường Thánh Phêrô.
Ngày 24/3, ĐHY Alfonso Lopez Trujillo của giáo phận Colombia cử hành nghi thức rửa chân tại Đền thờ Thánh Phêrô. ĐHY đại diện Đức Gioan-Phaolô II trong nghi thức thứ Năm Tuần Thánh ở Vatican và nói rằng ĐGH muốn vâng theo Ý Chúa. Ngày 27/3, đại lễ Phục sinh, ngài cũng xuất hiện một lúc tại cửa sổ. Ngài muốn nói mà không nói được. Cuối tháng đó, ngài đến gần cái chết.
Ngày 31/3/2005, ngài bị sốt cao vì nhiễm trùng niệu đạo, nhưng ngài không được đưa vào bệnh viện vì ngài muốn được chết tại Vatican. Cuối ngày hôm đó, Vatican thông báo rằng Đức Gioan-Phaolô II đã lãnh nhận Bí tích Xức dầu, nghi thức cuối cùng của Giáo Hội Công giáo La Mã, lần đầu ngài lãnh nhận bí tích này từ vụ ám sát năm 1981.
Ngày 1/4, tình trạng sức khỏe ngài rất yếu, suy tim và suy thận nhanh. Ngài phải tiếp thực phẩm qua đường mũi. Sáng hôm đó ngài đã lên cơn đau tim, nhưng vẫn tỉnh táo. Joaquin Navarro Valls, phát ngôn viên của Vatican, không nói về cơn đau tim của ngài, nhưng nói ngài bị suy tim và trong tình trạng nguy kịch.
Vài báo Ý nói ngài qua đời lúc 20:20 CEST (18:20 UTC), nhưng ngay sau đó, Tòa Thánh nói ngài chưa chết, và mọi chuyện đã thay đổi. Đài truyền hình Sky Italia nói rằng tim và não của ngài vẫn hoạt động.
Khoảng 00:37 CEST ngày 2/4 (22:37 UTC ngày 1/4), phát ngôn viên Tòa Thánh đưa tin ngắn về sức khỏe của ngài và xác nhận ngài đã lãnh nhận các Bí tích cuối cùng, không nói về việc đưa ngài tới bệnh viện, và gặp những người thân cận nhất, trong số đó có ĐHY Ratzinger. ĐHY Ratzinger nói: “Ngài biết mình sắp chết và đã chào biệt tôi lần cuối”. Ngài cũng muốn được đọc những lời suy niệm về 14 chặng đàng Thánh giá đã suy niệm vài ngày trước.
Rất nhiều người trẻ đến canh thức. Trong sứ điệp cuối cùng của ngài, đặc biệt dành cho giới trẻ trên thế giới, ngài nói: “Cha tìm kiếm các con. Bây giờ các con đã đến với cha. Cha cảm ơn các con”.
Chiếu tối, Tòa Thánh thông báo tình trạng sức khỏe của ngài vẫn nguy kịch. Đến sáng, ngài lại bị sốt cao. Khoảng 19:00 CEST (17:00 UTC), báo đài Ý đưa tin Đức Gioan-Phaolô II đã bất tỉnh. Hầu như hết hy vọng.
Theo LM Jarek Cielecki, lời cuối của ngài trước khi qua đời là tiếng “Amen”, rồi ngài nhắm mắt lại. Tại phòng riêng của ngài, lúc 21:37 CEST (19:37 UTC) ngày 2/4, ngài trút hơi thở cuối cùng, 46 ngày sau sinh nhật thứ 85 của ngài. Giấy chứng tử ghi nhiễm trùng và suy tim là những nguyên nhân gây tử vong.
Khi ngài qua đời, có sự hiện diện của 2 thư ký riêng của ngài là TGM Stanisław Dziwisz và Mieczysław Mokrzycki, Marian Jaworski, TGM Stanisław Ryłko và LM Tadeusz Styczeń. Ngài được giúp đỡ nhờ bác sĩ riêng là Renato Buzzonetti, với 2 bác sĩ khác là Alessandro Barelli và Ciro D'Allo, với các y tá khi cần thiết. Cũng có 3 nữ tu dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu giúp đỡ ngài trong giờ phút cuối cùng.
Ngay sau đó, ĐHY Quốc vụ khanh (Secretary of State) Angelo Sodano đến, có cả Sứ thần Tòa thánh Eduardo Martínez Somalo, TGM Leonardo Sandri, thư ký văn phòng, và TGM Paolo Sardi, nguyên Sứ thần Tòa thánh. Sau đó, ĐHY Ratzinger, trưởng Hồng y đoàn (College of Cardinals), và ĐHY Jozef Tomko cũng hiện diện.
Hơn 2 triệu công dân Vatican với 1 tỷ người Công giáo hoàn cầu và nhiều người không Công giáo đã thương tiếc Đức Gioan-Phaolô II. Ngài luôn nói rằng khi ngài qua đời nên coi như giai đoạn chuyển qua cuộc sống vĩnh hằng. Đám đông ở Vatican đã vỗ tay khi được thông báo ngài qua đời, theo thói quen truyền thống Ý biểu hiện lòng kính trọng.
Tại Ba Lan, người Công giáo tụ họp tại nhà thờ ở Wadowice, nơi sinh của ngài. Đài truyền hình quốc gia hoãn lại các chương trình khác từ ngày 1/4/2005 để chiếu thánh lễ. Dân Ba Lan rất kính trọng ngài và coi ngài là “cha”, họ đã rất buồn khi ngài qua đời. Chính phủ Ba Lan tuyên bố 6 ngày đại tang ngài.
Nhiều vị lãnh đạo thế giới đã bày tỏ thương tiếc ngài và cho treo cờ tang tại quốc gia của họ:
• Tại Argentina, các sinh viên giữ thinh lặng một lúc trước khi vào lớp sau khi nghe tin Đức Gioan-Phaolô II qua đời. Tổng thống Néstor Kirchner của Argentina nói: “Hàng triệu người chúng ta đang khóc thương Đức Gioan-Phaolô II, các giáo huấn của ngài tiếp tục theo chúng ta đến hết đời, mãi mãi”.
• Thủ tướng Úc John Howard nói rằng Đức Gioan-Phaolô II nên được nhớ đến là một người đấu tranh cho tự do để chống lại cộng sản, và là một vị lãnh đạo Kitô giáo vĩ đại.
• Tại Brazil, nước có số người Công giáo đông nhất thế giới, Tổng thống Luiz Inácio Lula da Silva bày tỏ niềm tiếc thương của dân Brazil đối với ngài. Chính phủ tuyên bố 7 ngày quốc tang dành cho ngài. Đêm trước khi ngài qua đời, thượng nghị viện Brazil đã ngưng họp và các nghị sĩ đã cùng đọc kinh Lạy Cha (Lord's prayer) để cầu nguyện cho ngài hồi phục. Sau khi ngài qua đời, thượng nghị viện đã dành một phút mặc niệm ngài.
• Thủ tướng Paul Martin của Canada nói: “Phần tư thế kỷ qua, Đức Gioan-Phaolô II đã là biểu tượng của tình thương và niềm tin, hòa bình và lòng trắc ẩn… Hôm nay, nỗi đau của chúng ta là nỗi đau chung của thế giới”. Ngày 4/4, thủ tướng Martin và các vị lãnh đạo của Canada đã tưởng niệm Đức Gioan-Phaolô II tại Hạ viện (House of Commons). Cờ rũ treo khắp nước và tại một số tòa nhà ngoại giao; cờ tang treo cho đến ngày an táng ngài. Tỉnh Manitoba để sách phân ưu cho người ta ghi vào.
• Tại Chilê, chính phủ tuyên bố 3 ngày quốc tang. Tổng thống Ricardo Lagos cho biết: “Đức Gioan-Phaolô II không ở xa chúng ta. Tên ngài đã trở thành một phần của lịch sử, tư tưởng của ngài sẽ luôn truyền cảm hứng cho chúng ta để xây dựng một quốc gia công bình hơn và một thế giới hòa bình hơn”.
• Tổng thống Álvaro Uribe Vélez của Colombia cho treo cờ tang trên các tòa nhà chính phủ và các tòa đại sứ treo cờ rũ 2 ngày. Tổng thống nhấn mạnh đến sự chiến đấu vì hòa bình thế giới của Đức Gioan-Phaolô II.
• Chính quyền Cuba cho phép ĐHY Jaime Lucas Ortega y Alamino phát biểu trên đài truyền hình: “Đây là một con người đã gánh chịu sức nặng luân lý của thế giới trong suốt 26 năm... biến ngài thành biểu tượng luân lý duy nhất đối với lòng nhân đạo trong những năm qua đầy khó khăn và chiến tranh”. Chính quyền Cuba tuyên bố 3 ngày quốc tang.
• Thủ tướng Ấn độ Manmohan Singh cũng đã ghi lời phân ưu tại tòa đại sứ Vatican ở New Delhi. Chính phủ Ấn độ tuyên bố 3 ngày quốc tang.
• Tại Anh quốc, nữ hoàng Elizabeth II diễn tả niềm tiếc thương sâu sắc trước cái chết củ Đức Gioan-Phaolô II và ghi nhớ những nỗ lực của ngài trong việc thúc đẩy hòa bình khắp thế giới. Thủ tướng Tony Blair nói: “Thế giới đã mất một vị lãnh đạo tôn giáo đáng kính đối với người có đạo hay không có đạo”.
• Tại Tòa Bạch Ốc (White House) và các tòa nhà công tại Hoa Kỳ đều treo cờ rũ trong ngày an táng Đức Gioan-Phaolô II. Tổng thống George W. Bush bày tỏ lòng thương tiếc ngài và gọi ngài là “nhà vô địch của tự do nhân quyền” (champion of human freedom), là “nguồn cảm hứng cho hàng triệu người Mỹ” (inspiration to millions of Americans) và là “anh hùng của mọi thời đại” (hero for the ages). Tổng thống Bush là tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ tham dự đám tang một vị Giáo hoàng. Cựu tổng thống Bush cha và cựu tổng thống Bill Clinton cũng hiện diện tại đám tang ngài.
Nhiều nước có số người Công giáo đông đã tuyên bố quốc tang dành cho ngài. Chính phủ Philippines tuyên bố để tang đến khi an táng ngài. Gabon và Paraguay tuyên bố 5 ngày quốc tang, Costa Rica 4 ngày quốc tang, Ý 3 ngày quốc tang, Bồ Đào Nha cho treo cờ rũ trên các tòa nhà công từ sau khi biết tin ngài qua đời, Bolivia, Cape Verde, Croatia, Đông Timor, Haiti, Malawi và Seychelles cũng có hoạt động tương tự. Peru và Tây Ban Nha tuyên bố 1 ngày quốc tang.
Ai Cập và Lebanon cũng có số dân Công giáo đông, họ tuyên bố 3 ngày quốc tang. Kosovo tuyên bố 2 ngày quốc tang. Còn Albania, Bosnia và Herzegovina tuyên bố 1 ngày quốc tang. Tại Công hòa Macedonia, các hoạt động văn hóa được hoãn lại trong ngày Đức Gioan-Phaolô II qua đời. Pháp và Đức cũng cho treo cờ rũ.
Nhiều lãnh tụ không Công giáo ở khắp thế giới đều bày tỏ niềm thương tiếc ngài.
Từ khi Đức Gioan-Phaolô II qua đời, nhiều giáo sĩ tại Vatican, kể cả ĐHY Angelo Sodano giảng trong thánh lễ an táng, đều nhắc đến ngài là vị Giáo hoàng vĩ đại. Báo Corriere della Sera của Ý gọi ngài là “người vĩ đại nhất” (The Greatest). Danh xưng “vĩ đại nhất” đã dành cho 2 vị Giáo hoàng hồi thế kỷ I là Đức Lêô Cả và Grêgôriô Cả. Các học giả về Thánh luật (Canon law) đều nói rằng không có quy trình chính thức nào để tuyên bố một vị Giáo hoàng là “vĩ đại”, danh xưng này được hình thành qua công chúng, và vẫn được áp dụng.
Lễ kính viếng (Rite of Visitation) từ 4/4 tới 7/4 tại Đền thờ Thánh Phêrô. Di chúc của ngài được công bố ngày 7/4 cho thấy ngài muốn được an táng tại quê hương Ba Lan nhưng quyết định cuối cùng thuộc Hồng y đoàn, muốn an táng ngài dưới Đền thờ Thánh Phêrô, tôn trọng ý muốn của ngài nên an táng ngài ở “đất trống” (in bare earth).
Thánh lễ cầu hồn ngày 8/4 là kỷ lục thế giới về số người tham dự và số vị lãnh đạo quốc gia hiện diện. Số các vị lãnh đạo quốc gia tham dự lễ an táng còn đông hơn đám tang của Winston Churchill (1965) và Josip Broz Tito (1980). Bốn vị vua, 5 nữ hoàng, 70 tổng thống và thủ tướng, hơn 14 vị lãnh đạo các tôn giáo và rất nhiều tín hữu. Khoảng 4 triệu người quy tụ về Rôma, chưa từng thấy trong lịch sử Kitô giáo. Khoảng 250.000 – 300.000 người trong khuôn viên Vatican. Trưởng Hồng y đoàn là ĐHY Joseph Ratzinger lúc đó đã chủ tế. Đức Gioan-Phaolô II được an táng trong hầm mộ dưới Đền thờ Thánh Phêrô, khu mộ của các vị Giáo hoàng, nơi mà trước đó là thi hài Đức Gioan XXIII. Nơi đây trống vì hài cốt Đức Gioan XXIII được dời vào trong Đền thờ sau khi được phong chân phước.
Lạy Chân phước Gioan-Phaolô II, xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con biết tích cực tìm kiếm và xây dựng hòa bình, luôn sống giản dị, nhưng can đảm trong mọi nghịch cảnh để chứng tỏ là con cái Thiên Chúa. Amen.
TRẦM THIÊN THU