Photobucket

Chúa nhật 33 Thường niên (A) & Lễ Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam: 20 BÀI SUY NIỆM

Chết vì Đạo là một cách làm chứng. Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá. Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13). Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.

Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian...




Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Cn 31,10-13.19-20.30-31; 1Tx 5,1-6; Mt 25,14-30
LỄ CÁC THÁNH TỬ VÌ ĐẠO VIỆT NAM
Lời Chúa: Kn 3,1-9; 2Cr 4,7-15; Mt 10,17-22


MỤC LỤC



CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN

1. Việc nhỏ

Booker Washington là một người Mỹ da đen vĩ đại nhất. Ông là một nhà giáo dục, một nhân vật cải cách và một văn sĩ nổi tiếng. Năm 16 tuổi, ông đã phải đi bộ gần 800 cây số để xin học. Thế nhưng, vì các lớp đã đông đủ nên ông bị từ chối. Ông nhận chân quét phòng tại trường. Ông đã làm những việc hèn hạ này một cách hết sức chu đáo, thành thử ông dành được cảm tình của ban giám đốc nhà trường. Người ta dành cho ông một căn phòng nhỏ của sinh viên. Chính tại căn phòng nhỏ này, ông đã chăm chỉ làm việc cho đến khi trở thành một giáo sư nổi tiếng, và sau này trở thành người sáng lập học viện Tuskegee. Từ một kẻ nô lệ, ông đã trở nên người lãnh đạo chủng tộc da đen. Ông qua đời vào năm 1915.
Phải chăng cuộc đời ông là sự thực hiện trọn vẹn lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Ai trung tín trong việc nhỏ, thì sẽ được trao phó cho những công việc lớn. Nói cách khác, chúng ta hãy làm những công việc nhỏ một cách cẩn thận và chu đáo, rồi thì những dịp thuận lợi hơn, to tát hơn sẽ đến với chúng ta. Kinh nghiệm trên, sự thật trên quả là điều quan trọng trong đời sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng.
Trước hết là trong đời sống thường ngày: Xiết chặt một chiếc đinh ốc nơi bánh xe có thể cứu được nhiều người trên chuyến xe tốc hành. Thu lượm rác là điều cần thiết cho sức khoẻ của một cộng đoàn. Rửa sạch chén đĩa sẽ giết được nhiều vi trùng. Hãy làm những công việc này và hàng trăm công việc nhỏ bé khác nữa của cuộc sống thường ngày một cách tốt đẹp và chúng ta sẽ làm được những việc lớn lao hơn, khi thời cơ mỉm cười với chúng ta.
Tiếp đến, trong lãnh vực thiêng liêng cũng vậy. Chúng ta hãy làm tất cả những gì mình có thể để giúp đỡ gia đình Chúa là Giáo Hội nơi trần gian. Chẳng hạn như là những người thợ, chúng ta có thể dành dụm tiền bạc hay công sức để giúp ích cho giáo xứ trong những công việc chung. Chúng ta có thể trồng những luống bông nhỏ để chưng trên bàn thờ. Chúng ta có thể dâng hiến tài năng và thời giờ, góp phần vào việc giáo dục đạo đức cho các em nhỏ. Chúng ta có thể thăm viếng những người đau yếu bệnh tật để an ủi họ. Chúng ta có thểm tham dự những sinh hoạt của ca đoàn để dâng tiếng hát ca tụng Thiên Chúa, cũng như làm cho bầu khí phụng vụ thêm phần sống động.
Trong tất cả những công việc nhỏ bé và tầm thường ấy, nếu chúng ta thi hành một cách cần cù và trọn vẹn, thì chúng ta cũng sẽ được Chúa ân thưởng như lời Ngài phán: Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, bởi vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, thì Ta sẽ trao phó cho ngươi những công việc lớn. Hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chu toàn vì lòng yêu mến Chúa, thì những công việc nhỏ bé và tầm thường ấy sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên cuộc đời chúng ta và làm cho cuộc đời chúng ta có một giá trị to lớn trước mặt Chúa.


2. Tôi tớ trung thành

Tất cả chúng ta đều là những người tôi tớ của Thiên Chúa, cùng với những nén bạc Ngài đã trao gửi. Những nén bạc ấy chính là thân xác và linh hồn, thời gian và tài năng. Nói tóm lại, là tất cả những gì chúng ta đang có và đang quản lý.
Đúng thế, tất cả không phải là của riêng chúng ta, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài trao gửi và cho chúng ta vay mượn trong một thời gian nào đó, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Những sự anh em có, há chẳng phải là đã nhận lãnh hay sao? Và nếu đã nhận lãnh, thì tại sao anh em lại tự phụ, như không cần nhận lãnh.
Chính vì thế, chúng ta không được toàn quyền sử dụng đã đành, mà còn phải chịu trách nhiệm vễ những nén bạc ấy. Chẳng hạn với thân xác, chúng ta không được ăn uống quá độ, chè chén say sưa có hại cho sức khỏe, cũng như không được hủy hoại thân xác mình, hay tự ý đi tìm cái chết.
Với linh hồn, chúng ta phải cương quyết chiến đấu, đừng để cho sự sống ơn sủng mỗi ngày một tàn lụi. Chúng ta phải dứt khoát khử trừ tội lỗi và làm cho linh hồn mình được hoàn thiện, nhờ Lời Chúa, nhờ các bí tích và nhờ những tâm tình cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa.
Tuy nhiên, điều quan trọng, đó là một ngày kia chúng ta sẽ phải tính sồ cuộc đời trước tôn nhan Chúa. Chúng ta không biết sự việc này sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ kết thúc cuộc đời, để rồi chúng ta sẽ phải đối diện với lương tâm và với chính Thiên Chúa.
Thế nhưng, đó lại là một sự kện chắc chắn, như một câu danh ngôn đã diễn tả: Sự chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Hay như chúng ta cũng thường nói: Đã là người thì ai cũng phải chết.
Đó là qui luật chung của muôn đời. Và sau cái chết sẽ là cuộc phán xét. Đây là một cuộc phán xét thật công bằng và chính xác. Cuốn sổ cuộc đời chúng ta được mở rộng, trong đó mọi sự đều được ghi chép. Khi vị thẩm phán ngự tòa, thì mọi bí ẩn sẽ bị lộ ra, không tài nào che dấu nổi.
Chính vì thế, chúng ta phải quyết tâm làm phát triển và sinh lời cho những nén bạc Chúa đã trao gửi, bằng cách thực hiện những hành động bác ái yêu thương, bởi vì đó chính là những vị trạng sư âm thầm và không tên, nhưng sẽ bào chữa cho chúng ta trước tòa án tối cao của Thiên Chúa.
Đồng thời, bằng cách trung thành với những công việc bổn phận của mình, tùy theo vai trò, tùy theo đấng bậc, tùy theo chức vụ mình nắm giữ trong cuộc sống.
Và sau cùng, bằng cách sử dụng thời giờ một cách đúng đắn, vì thời giờ của chúng ta đã được cân đo đong đếm. Hãy sử dụng thế nào để đem lại lợi ích cho bản thân và cho người khác. Nếu chúng ta quản lý tốt, chắc chắn chúng ta sẽ không phải run sợ vào giây phút tính sổ cuộc đời. Trong giây phút trọng đại này, giây phút có tính cách ấn định số phận đời đời của chúng ta, mọi bạn hữu, dù thân tình đến đâu chăng nữa, cũng sẽ lìa bỏ chúng ta, chỉ những việc lành phúc đứ mới đi theo chúng ta mà thôi.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể lại rằng: Người kia phải ra trước tòa Thiên Chúa trong ngày sau hết. Anh bạn thứ nhất thấy vậy vội vã bỏ chia tay với người ấy. Anh bạn thứ hai bước theo người ấy, nhưng đã khựng lại khi đứng trước khung cửa hẹp của cái chết. Trong khi đó anh bạn thứ đã cùng đi với người ấy đến trước tôn nhan Chúa, trình bày những lý chứng và cứu thoát người ấy khỏi án phạt đời đời.
Người bạn thứ nhất là tiền bạc vật chất. Người bạn thứ hai là cha mẹ và họ hàng thân thích. Còn người bạn thứ ba, luôn trung thành và bào chữa cho chúng ta, đó chính là những hành động bác ái yêu thương.
Hãy làm cho những nén bạc Chúa đã trao gửi được sinh lời, nhờ đó giây phút chúng ta tính sổ cuộc đời với Chúa sẽ không phải là giây phút bẽ bàng và cay đắng, nhưng sẽ là giây phút mừng vui và hạnh phúc.


3. Bạn có sợ Thiên Chúa không?

Phải sợ Thiên Chúa nếu không phải là Thiên Chúa. Nhưng có sự sợ hãi tốt và có sự sợ hãi không tốt. Dụ ngôn ngày hôm nay là một bài học nói về hai nỗi sự hãi này. Điều cốt yếu nằm ở trong cuộc đối thoại giữa người chủ với người đầy tớ thứ ba, tức người tỏ ra sợ hãi.
- Thưa ông chủ, tôi biết ông chủ và tôi sợ ông. Tôi đã đem đi giấu dưới đất cái mà ông đã giao cho tôi.
- A! Ngươi biết ta sao?
Điều bi đát chính là việc người đầy tớ biết sai về ông chủ của mình. Cho nên một số tín hữu nghĩ rằng Thiên Chúa là vị quan toà tỉ mỉ và khó tính mà nhất thiết người ta đừng gây sự với Ngài. Người đầy tớ xấu nghĩ tốt hơn cả là sinh sự với Ngài càng ít càng tốt và làm hết cách để tránh những phiền toái.
Đó là sự sợ hãi xấu. Nó vô hiệu hoá, nó làm cho mình sống một cách tiêu cực: nếu tôi nói điều này, nếu tôi nói điều kia, điều gì sẽ xẩy đến cho tôi? Chúng ta ẩn mình trong những điều chắc chắn: điều gì có tính cách bó buộc?
Nhưng chúng ta đã chẳng nhận lãnh đức tin để sống tối đa hay sao? Sống hết sức tích cực. Chúng ta chẳng có Tin Mừng để thấm nhiễm Tin Mừng vào trong các tư tưởng, các hành vi của chúng ta và biết điều gì làm Thiên Chúa vui lòng hay sao? Chúng ta chẳng có các bí tích để mạnh mẽ đương đầu với cuộc sống hay sao? Tất cả những điều đó đôi khi im lìm như một kho tàng bị che giấu. Chúng ta không dám mạo hiểm, sự thực hiện các sáng kiến, những dấn thân có đôi chút tàn bạo. Nếu tôi mất đức tin vào đó thì sao? Nếu tôi để cho nhà của tôi bị xâm nhập thì sao? Nếu tôi không còn tìm ra thì giờ để cầu nguyện thì sao? Nếu tôi không có trong tay đủ tiền bạc thì sao? Và nếu ông chủ xét đoán tôi thì sao?
Còn biết bao nhiêu chữ nếu nữa... Cẩn trọng là tốt, nhưng không thoải mái. Càng đưa ra những giả thiết như thế, điều mà chúng ta gọi là cẩn trọng chỉ còn là sự sợ hãi mà thôi. Như thế thì cuộc sống Kitô hữu không nói gì về Chúa Kitô cả! Những người Kitô hữu ở trong một toà nhà, đi làm việc, đức tin của họ không lan truyền, không gây ngạc nhiên, không thu hút, thì đức tin đó đóng kén trong sự chờ đợi đầy sợ hãi và tầm thường. Văn hào Soljenitsyne nói “Tất cả chúng ta bị mê hoặc chờ đợi điều gì đó đến riêng rẽ; không, không có gì đén riêng rẽ cả”.
Các thánh không chờ đợi, các ngài nhận biết Thiên Chúa, cá ngài biết yêu thương nhau, và cái nhìn vào Chúa biến các ngài thành những nhà hoạt động và táo bạo. Các thánh cũng sợ, nhưng đó là sự sợ hãi đáng ca ngợi! Sợ được yêu thương đến độ đó và không yêu thương cho đủ. Nỗi sợ của thánh Vincentê Phaolô: “Ngài có thể làm gì hơn nữa? Người ta hỏi Ngài. –Nhiều hơn thế nữa”.
Nhiều hơn thế nữa. Đó là điều mà ông chủ chờ đợi nơi người đầy tớ sợ hãi, chứ không phải là điều tối thiểu! Chúng ta được trao ban một cuộc sống chứ không phải hai để sống Tin Mừng thực sự, để chứng tỏ rằng Thiên Chúa hiện hữu, rằng Ngài muốn chúng ta tin tưởng, hoạt động.
Ông chủ nói: “Khi trở về, tôi muốn thu lại tiền của tôi cùng với số tiền lời”. Vào cuối cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa sẽ nhìn xem điều gì đã phát sinh từ sự sáng tạo và tình yêu trong cuộc sống mà Ngài đã giao phó cho chúng ta. Nỗi sợ duy nhất của người Kitô hữu chính là không làm cho vốn liếng năm tháng của chúng ta sinh hoa kết quả cho đủ.


4. Nén bạc và những cố gắng

Hẳn rằng chúng ta đã hiểu được ý nghĩa dụ ngôn về những nén bạc: Ông chủ là Thiên Chúa, nén bạc là những tài năng Ngài đã trao ban. Lúc ông chủ trở về và tính sổ là lúc Thiên Chúa phán xét và chúng ta phải trả lẽ về những khả năng đã sử dụng. Trước tôn nhan Chúa, thì giàu sang hay nghèo hèn, già cả hay trẻ thơ, tất cả đều không mấy quan trọng. Điều cần thiết đó chính là sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa, chính là sự cố gắng của chúng ta để sử dụng và sinh lời từ những nén bạc Chúa đã trao gửi. Vậy sự cố gắng sẽ đem lại những hậu quả nào cho chúng ta?
Trước hết, sự cố gắng sẽ đem lại những thành công về phương diện vật chất. Thực vậy, như chúng ta thường nói:
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
- Năng nhặt thì chặt bị.
- Nước chảy đá mòn.
- Có công mài sắt có ngày nên kim.
Những thành công trên đường đời chỉ dành cho những người biết cố gắng mà thôi. Một con chuột nhắt cứ cắn mãi cắn hòai cũng có ngày làm đứt sợi dây thừng. Từng nhát búa bổ dần cũng có ngày đốn gẫy cây cổ thụ. Từng giọt nước nhỏ dần cũng có ngày chọc thủng phiến đá. Chính vì thế, tương lai được hứa hẹn không phải cho những kẻ thông minh tài trí, nhưng cho những người biết hành động hơn, biết chăm chỉ hơn, biết cố gắng hơn, như tục ngữ đã nói:
- Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Tiếp đến, sự cố gắng sẽ đem lại những thành công về phương diện tinh thần. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy muốn trở nên một người tài giỏi thì phải chăm chỉ học hành. Khi tìm hiểu về những thiên tài trong lịch sử, người ta đã ghi nhận chỉ có 5% là do khả năng trời ban cho, còn lại 95% là do sức cố gắng. Chính vì thế, người Trung Hoa đã nói: Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý. Viên ngọc mà không dũa không mài thì không thể trở thành đồ trang sức quí giá. Con người cũng vậy, nếu không chịu khó học hành thì không thể nào biết được lý lẽ mà cư xử. Thực vậy:
- Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: thay đổi được một thói hư, xóa bỏ được một tật xấu là điều rất khó và đòi hỏi nhiều cố gắng.
Một ông bố quyết định từ bỏ rượu chè bằng cách mỗi lần ngồi vào bàn cơm, ông ta đều nhỏ một giọt nến vào chiếc ly uống rượu. Cứ thế, cứ thế cho tới khi chiếc ly đầy nến và ông ta chừa bỏ được tật nghiện rượu của mình.
Đời sống là một cuộc giao tranh khiến chúng ta phải cố gắng và chiến đấu không ngừng. Sống trong cuộc đời, chúng ta như người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi. Đứng trước những thói hư tật xấu, nếu chúng ta không cố gắng chống trả, thì rồi chúng ta sẽ bị nhận chìm trong tội lỗi lúc nào cũng chẳng hay.
Sau cùng, trong phạm vi thiêng liêng, mặc dù Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, nhưng không phải là đã xong xuôi, trái lại chúng ta còn phải tiếp tục cộng tác với Ngài và ra sức chiến đấu không ngừng. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta. Tuy nhiên, để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài, bởi vì chính Ngài cũng không thể cứu chuộc chúng ta, nếu như chúng ta không muốn.
Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu. Lời nói này có nghĩa là trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải cố gắng và cố gắng không ngừng. Trong ngày sau hết, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã làm được những gì, trái lại Ngài muốn biết chúng ta đã chiến đấu như thế nào, có sinh lời cho Chúa từ những nén bạc Ngài đã trao gửi hay không?


5. Thiên Chúa chúng ta chịu trách nhiệm

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Câu chuyện do Chúa Giêsu đặt ra về việc sử dụng các nén bạc là một dụ ngôn tiêu biểu chứ không phải là một ẩn dụ. Dụ ngôn là một so sánh toàn thể, cụ thể và đầy hình ảnh, cố ý giúp người ta hiểu một điều giảng dạy. Không nên xét quá kỹ về mỗi chi tiết, nhưng phải tìm bài học toát ra từ toàn thể, ẩn dụ là một số hình ảnh (sắp đặt thành một câu chuyện hy có khi không sắp đặt) nối tiếp nhau, mỗi một yếu tố đều tương ứng với các chi tiết của ý tưởng muốn diễn tả. Dụ ngôn các nén bạc đòi hỏi một cách hiểu toàn thể để rút ra một bài học lớn. Không nên cắt nghĩa chi tiết để rút ra các kết luận nhỏ; bài học lớn mà Chúa Giêsu muốn trình bày như sau: người môn đệ phải bày tỏ lòng trung thành tích cực phục vụ Thiên Chúa, ngược với sự thụ động lười biếng đồng nghĩa với bất trung, Người Kitô hữu chân chính sống cả đời trong sự trông đợi tích cực và có trách nhiệm. Việc so sánh ông chủ hà khắc đối với người làm có thể làm cho cảm xúc Kitô giáo của chúng ta thấy khó chịu. Chỉ cần nhớ lại Chúa Giêsu dùng các điều thấy trong lối sống thời Ngài mà so sánh; Ngài không nói nó xấu hay tốt, Ngài chỉ dùng như những sự kiện thấy được để rút ra những bài học. Trong trường hợp này, Ngài đặt ra một câu chuyện có thể tin được theo lối sống và tập tục thời ấy và qua đó Ngài rút ra một giáo huấn. Chúa nhấn mạnh ở điểm nào?
1) Ở sự nhanh nhẹn của các tôi tớ tốt. Họ ra đi ngay làm lợi số vốn được trao phó. Không những số tiền trao cho họ khiến nảy sinh ý thức trách nhiệm, nhưng tức thì gây nên ý muốn hành động. Hơn nữa họ không sợ phiền hà. Người tôi tớ thứ nhất và thứ hai ra đi và làm số vốn lợi gấp đôi. Việc phục vụ Thiên Chúa đòi hỏi người ta không được an thân trong sự bảo đảm của cái đã có. Không có gì là thực sự nắm chắc. Người ta chỉ duy trì được cái đang có bằng cách gia tăng nó lên. Cuộc sống siêu nhiên ở tron thế động. Không ngơi nghỉ, không khép mình ở một mức tưởng đã đạt tới. Vì là một cuộc sống, nó đòi hỏi phải tăng trưởng mà không mất đi những gì nuôi dưỡng nó. Nhanh nhẹn là ở chỗ không mất thì giờ trong những điều khởi sự và không thối chí cố gắng liên tục.
2) Chúa nhấn mạnh về nguy hiểm của sự lười biếng tinh thần. Nó bị kết án thực sự: Người tôi tớ lười biếng không làm mất nén bạc được trao phó, anh ta trả lại cho ông chủ nhưng anh ta phạm lỗi lười biếng không chịu hoạt động. Có một thái độ lười biếng tinh thần cứ nghĩ Thiên Chúa không khó tính và chúng ta ra sao Người sẽ chấp nhận như vậy, miễn là chúng ta làm cho Người một vài điều tối thiểu. Như thế là xét sai vấn đề. Thiên Chúa để cho chúng ta chịu trách nhiệm về những gì cuộc sống chúng ta đã làm hay không làm được. Không tiến bộ trong đức tin- đức mến, trong hoạt động (nếu ơn gọi chúng ta hoạt động) bị xét xử như một tội bất trung. Điều chính không phải làm ra được nhiều. Thiên Chúa ban cho mỗi người tùy theo khả năng khác nhau, Ngài cũng chờ đợi những thành quả khác nhau. Người đã nhận nhiều, sẽ phải trả nhiều hơn kẻ nhận ít. Nhưng cả hai phải tích cực phát triển những ân huệ Chúa đã giao phó.
Một câu hỏi cuối. Tại sao Thiên Chúa là Đấng có tình thương cứu độ vô biên và nhưng không lại đòi hỏi con người đáp ứng tích cực? Vì Ngài không muốn cứu con người mà không có phần đóng góp của con người. Ngài đã tạo con người có tự do, Ngài muốn con người có trách nhiệm. Đó chẳng phải là yêu sách tiên quyết của một tương quan yêu thương sao?


6. Hãy làm những gì Chúa muốn

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Chỉ còn vài giây trong một trận bóng đá, trọng tài đã chạy theo banh vào giữa vùng sân nơi có đội banh cuối cùng sẽ bị loại, họ đã đá một trận ra trò để tới gôn bên kia. Người tiền vệ đã thay đổi lối chơi đá một quả vào vùng cuối sân nhưng bóng bị chận lại, họ đã mất một cơ hội để chiến thắng. Một vị giáo sư trong lớp lịch sử đã buộc học sinh phải làm một bài với một trang giấy không quá năm ngàn từ. Một sinh viên đã quyết định viết một ngàn từ thế là mất điểm và anh ta bị điểm kém.
Điều tốt hơn là làm những gì đúng hơn là làm những gì chúng ta muốn. Từ bài Phúc âm ngày hôm nay chúng ta có thể học được rằng, sẽ muốn làm những gì là công chính trong mắt của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không muốn làm những điều lớn lao vì Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ muốn làm bất cứ điều gì mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm. Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta sẽ trở thành một người lớn lao trong Giáo hội, được phong thánh trong một thời gian ngắn, sau khi chúng ta chết, được tôn kính bởi toàn thể những người công giáo trên khắp thế giới, đó là giống như người mà Phúc Âm nói đến, người đã được trao cho năm nén bạc.
Mặt khác, có lẽ đời sống chúng ta không có gì đặc biệt. Đó là những dáng vẻ xuất hiện bên ngoài, chúng ta cũng nhỏ bé chẳng khác gì dân chúng sống chung quanh chúng ta, chúng ta làm việc với những người khác, chúng ta cũng xếp hàng tại các siêu thị. Điều quan trọng là chúng ta đã cố gắng sống theo ý muốn của Thiên Chúa, để tôn kính và hoàn tất ơn gọi của chúng ta trong từng chi tiết của đời sống, muốn trung thành sốt sắng trong tôn giáo của mình. Chúng ta giống như những người trong Phúc âm đã được trao cho không phải là năm nén, nhưng chỉ là hai nén.
Một người phụ nữ mà đời sống của bà không có gì đặc biệt, bà giống như nhân vật trong bài đọc I của ngày hôm nay, một người vợ giá trị sẽ không bao giờ được xuất hiện trên TV trong sô diễn “60 phút”. Người đàn ông có thể là một người chồng trung thành, tin tưởng trao phó trái tim của anh cho vợ mình, nhưng sẽ không bao giờ xuất hiện trong tạp chí “Dân chúng”. Có phải điều đó sẽ không thành vấn đề, bao lâu những người này biết họ được Thiên Chúa yêu mến và thân mật với họ? Theo Phúc âm, Thiên Chúa hài lòng với người tôi tớ có hai nén, vì anh ta đã là lợi được hai nén khác giống như người có năm nén đã làm lợi năm nén khác.
Điểm sai lạc là sống giống như một người trong Phúc âm, người nhận được một nén và đã chôn nó vào đất. Anh ta biện minh rằng anh ta sợ chủ của mình. Sợ hãi đã ngăn chặn anh ta làm bất cứ điều gì, hoặc không làm bất cứ điều gì, mặc dù anh ta là một người khó khăn. Chúng ta có thể phỏng đoán ông chủ là một người khoan dung cho những người thất bại, nhưng ông không thể nào kiên nhẫn với sự kiện là người tôi tớ không nỗ lực làm việc.
Người chủ hiển nhiên là không cần những nén bạc. Cuối cùng ông cũng cho họ, những người làm lợi năm nén hay người làm lợi hai nén. Sự thật là Thiên Chúa không cần chúng ta. Ngài có thể thực hiện ý muốn của Ngài trong tích tắc, nếu Ngài muốn điều ấy. Vì Thiên Chúa chọn và muốn cho chúng ta ân sủng của Ngài. Chúng ta phải hiểu rằng mọi thứ là ân sủng đến từ Thiên Chúa: đời sống của chúng ta, gia đình, đức tin, tài năng, ngay cả những khao khát và yêu mến phục vụ Thiên Chúa của chúng ta nữa. Mọi sự là đặc ân, nhưng chúng là một đặc ân được nhìn theo ý muốn của Thiên Chúa, vì vinh quang của Ngài, vì sự lợi ích cho dân của Người.
Thật sự trong một ý nghĩa chúng ta được gọi để làm một điều lớn lao cho Thiên Chúa bởi vì bất cứ khi nào chúng ta làm bất cứ điều gì theo ý muốn của Thiên Chúa thì không có vấn đề nào là nhỏ hoặc là tầm thường, nếu nó xuất hiện trước mặt con người là như thế, nhưng thật ra đó là một điều rất lớn lao.


7. Nén bạc

Báo Văn Học số 196 tháng 8 năm 2002, trong mục Tin Văn của Thế Quân, ca ngợi ông Gene Smith 65 tuổi, “Một người mê sách: kẻ cứu tinh của một nền văn học”. Nhờ mê sách mà ông cứu vớt nền văn học của Tây Tạng. Ký giả Barbara Stewart của báo New York Times đã gọi ông già Smith là người cứu tinh của nền văn học Tây Tạng. Ông Smith đang sở hữu một kho tàng văn chương Tây Tạng mà ông sưu tập được từ 37 năm nay. Theo ước tính, ông hiện có khoảng 12 ngàn tác phẩm văn chương Phật giáo và văn chương chịu ảnh hưởng Phật giáo của Tây Tạng. Những học giả Mỹ đánh giá công trình sưu tập văn chương của ông là công trình to lớn nhất ở phương Tây và có thể lớn nhất thế giới.
Thế nhưng sự nghiệp này đã được bắt đầu rất đơn giản. Lý do đưa ông đến việc nghiên cứu văn chương Tây Tạng là hồi chiến tranh Việt Nam xảy ra, ông xoay sở để được hoãn dịch bằng cách học một trong những ngôn ngữ khó học là tiếng Tây Tạng. Sau đó, ông đã học triết lý và quan điểm về thế giới của Phật giáo Tây Tạng với lạt ma Deshung. Lạt ma Deshung là một người mê sách. Và nỗi đam mê ấy truyền sang Smith khiến ông trở thành một người mê sách luôn. Sau 5 năm học tiếng Tây Tạng, ông du hành qua An Độ để sưu tầm sách.
Mặc dù văn chương Tây Tạng đã có lịch sử cả 1000 năm với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm văn chương, nhưng vẫn là một nền văn minh ẩn giấu, không mấy ai biết đến nền văn minh này. Trên thế giới không đâu có tác phẩm của Tây Tạng kể cả những thư viện lớn nhất thế giới. Lý do là vì người Tây Tạng không biết in sách. Sách được hoàn thành bằng cách chép tay hoặc khắc trên những bản gỗ, và lưu giữ trong các tu viện hoặc nhà riêng. Đã thế mỗi một trong 4 tông phái Phật giáo Tây Tạng lại có một nền văn chương riêng biệt. Chẳng ai phân loại hay có một danh sách đầy đủ. Sau khi Trung Quốc xâm lăng, sách bị phân tán khắp nơi, cuốn còn, cuốn mất. Hơn nữa sách được mang ra ngoại quốc thường do những người tỵ nạn Tây Tạng vượt ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn mang sang An Độ. Tìm hỏi cho ra người mang sách đã là việc khó, lại còn phải biết sách nào quan trọng trong các tông phái chính đòi hỏi phải có kiến thức và sự nghiên cứu kỹ lưỡng.
Để khắc phục những khó khăn trên, ông Smith phải dốc toàn tâm lực làm việc liên tục, tra cứu, tham khảo với các vị lạt ma, gửi các chuyên viên đến các nơi xa xăm ở An Độ cũng như Nepal để săn lùng sách. Trong quá trình làm việc như thế kiến thức của ông Smith trở nên phong phú phi thường. Ông trở thành giám đốc lưu động của văn phòng thư viện đặt tại New Delhi, Indonesia và Cairo. Hiện nay ông đang dự định chuyển chỗ ở về New York với cơ quan văn hoá “Rubin Cultural Trust” hứa sẽ cung cấp đủ chỗ để chứa thêm một số sách hiện đang tồn trữ và hàng trăm cuốn sách mới khác vừa được tìm thấy gần đây mà người ta tưởng rằng đã bị phá hủy. Nói rằng Gene Smith là người cứu tinh của cả một nền văn học, quả không có gì quá đáng!
Sự tiêu cực và bi quan đã bóp méo hình ảnh của Thiên Chúa trở nên một ông chủ hung ác. Đây là thái độ của người đầy tớ thứ ba.
Một người cha sắp sửa lên đường đi làm ăn xa, trao cho hai người con tiền bạc để xây cho ông hai căn nhà. Người con đầu tiên đã dùng tất cả số tiền được trao phó xây cho cha một ngôi nhà tuyệt đẹp, sang trọng. Còn người con thứ hai nhìn thấy đây là một cơ hội để kiếm tiền riêng cho mình, hắn dùng những vật liệu xây cất rẻ tiền, và xây cho cha một ngôi nhà rất tầm thường. Khi người cha trở về, để làm quà thưởng cho các con, ông nói “Để trả công cho các con, cha cho mỗi con chính căn nhà mà các con đã xây cho cha, hãy đưa gia đình các con vào ở trong căn nhà đó”.
Sự ích kỷ và lười biếng của người đầy tớ thứ ba đã làm cho anh có cái nhìn tiêu cực và bi quan về thiện ý của chủ rồi dẫn tới hành động chôn giấu nén bạc dưới đất.
Thiên Chúa chúng ta tờ phượng là một Thiên Chúa của sự sống, đầy yêu thương. Nói đến sự sống là nói đến sự sinh trưởng, phát sinh hoa trái. Vì chính Ngài là Đấng Tạo Hoá đã dựng nên vũ trụ và phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái tuỳ theo loại:, Ngài cũng phán ngay với con người rằng: “Hãy sinh sôi nẩy nở…” Do đó không tăng trưởng là dấu hiệu của sự hủy diệt, sự chết. Không phát sinh hoa trái là đi ngược lại thánh ý của Thiên Chúa và gây tai hại cho chính bản thân mình.
Chú giải về đoạn Tin Mừng hôm nay, William Barclay đã viết: “Thiên Chúa không muốn những con người phi thường làm những việc phi thường, nhưng Ngài rất muốn những con người bình thường làm những việc bình thường một cách phi thường”.
Chúa Giêsu sẽ trở lại để hỏi chúng ta về những nén bạc, tài năng, ơn lành đã được Thiên Chúa trao ban. Chúng ta sẽ bị xếp vào loại người đầy tớ nào?


8. Nhận nhiều thì bị đòi hỏi nhiều

(JKN)

Câu hỏi gợi ý:
1. Trên đời, kẻ được Thiên Chúa ban cho rất nhiều thuận lợi, kẻ lại bị Ngài cho gặp rất nhiều nghịch cảnh. Vậy Ngài có phải là một Thiên Chúa bất công không? Nếu không bất công thì phải giải thích sự bất bình đẳng này ra sao?
2. Người được nhiều thuận lợi có trách nhiệm gì về những thuận lợi của mình không? Trách nhiệm thế nào?
3. Thiên Chúa phán xét con người dựa trên những thành quả, mức độ hoàn hảo mà con người đạt được, hay dựa trên mức độ nỗ lực mà con người đã làm để trở nên hoàn hảo hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, sự phân phối những điều tốt đẹp không đồng đều
Không ai có thể chối cãi điều này: trên đời, người ta khác nhau về đủ mọi phương diện: tính tình, khuynh hướng, khả năng, quan niệm, tư tưởng, đạo đức, sức khỏe, v.v... Đúng như cổ nhân nói: “Bá nhân bá tánh”, “chín người mười ý”... Và ngay trong từng phương diện, người ta cũng khác nhau về mức độ, chẳng ai tuyệt đối bằng ai, y hệt như: “Bàn tay ngón thấp ngón cao”. Điều đó tạo nên sự phong phú đa dạng trong thế giới con người. Trong những lãnh vực khác của thiên nhiên vạn vật cũng có sự đa dạng y như thế. Như vậy, phải chăng Thiên Chúa bất công? Phải chăng những người có tài đức hơn người, có nhiều điều kiện phát triển hơn người, giàu có hơn người… thì được lợi hơn những người khác?
2. Ai nhận được nhiều thì bị đòi hỏi nhiều
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Thiên Chúa cho ai nhiều, thì Ngài đòi hỏi người ấy nhiều. Ngược lại Ngài cho ai ít, thì lại đòi hỏi người ấy ít. Đức Giê-su đã từng nói: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12,48). Người được Thiên Chúa ban nhiều ân huệ mà không làm những ân huệ sinh lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, cho tha nhân, thì ân huệ ấy trở thành án phạt cho mình. Cho nên ân huệ nhiều thì trách nhiệm cũng nhiều. Vậy ai nhận được nhiều thì cũng nên lo lắng về trách nhiệm của mình. Còn ai được ít thì cũng nên tự an ủi vì trách nhiệm của mình ít. Như vậy kẻ được nhiều không hẳn đã hay, và kẻ được ít không hẳn đã dở. Mới nghĩ thì thấy Thiên Chúa không công bằng, nhưng nghĩ cho kỹ thì thấy Ngài tuy chủ trương đa dạng nhưng lại rất công bằng.
Những ân huệ ta nhận được cũng như món tiền ta vay của ngân hàng, phải trả tiền lời theo định kỳ, mỗi tháng hoặc mỗi năm. Do đó, vay càng nhiều tiền thì càng phải sinh lợi ra nhiều để có thể trả số lời tương ứng với số tiền mình vay. Giả như lãi suất là 10% một năm (tức 0,83% một tháng), thì trong 10 năm, tiền lời sẽ lên cao bằng tiền vay ban đầu. Nếu vay trong 20 năm, tiền lời thành gấp đôi tiền vay ban đầu. Nếu vay nhiều mà không đủ khả năng sinh lợi ra nhiều, thì sẽ không có tiền để trả lãi, và vay càng lâu thì tiền lời càng cao, nếu không sinh lợi thì càng nguy hiểm. Vì tới kỳ hạn cuối cùng, phải thanh toán cả vốn lẫn lời, nếu không có khả năng trả hết thì có nguy hiểm phải ngồi tù. Do đó, nếu không có khả năng làm ăn sinh lợi, thì vay được nhiều không phải là điều tốt đẹp mà trái lại có thể là nguyên nhân gây ra tai họa. Vay càng nhiều, họa càng lớn. Tương tự, được Thiên Chúa ban nhiều thuận lợi chớ vội mừng hay tự hào, vì nếu không làm cho chúng sinh lợi thì rất có thể những thuận lợi ấy lại trở thành tai họa.
3. Hãy ý thức trách nhiệm về những thuận lợi mình đang hưởng
Vậy chúng ta hãy tự xét xem chúng ta được Thiên Chúa ban cho những thuận lợi nào: khỏe mạnh, thông minh, được giáo dục tử tế, có văn hóa, nhà giàu có, nhiều tài năng, v.v... Chúng ta thường hãnh diện, tự hào với mọi người về những thuận lợi đó, mà rất ít khi nghĩ đến trách nhiệm vì được những thuận lợi hơn người đó. Thiết tưởng, khi được những thuận lợi hơn người, người Ki-tô hữu phải nghĩ đến trách nhiệm hơn là tự hào về chúng.
Những thuận lợi đó phải được đem ra làm ích lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, và cho tha nhân. Nếu thuận lợi ta được quá nhiều, mà ích lợi ta làm ra được từ những thuận lợi đó lại quá ít, ắt nhiên ta không thể tránh được hình phạt của Thiên Chúa. Được quá nhiều thuận lợi mà không sinh lợi cho ai, điều ấy chứng tỏ ta không có tình yêu, và như thế là ta không có Thiên Chúa trong chúng ta: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được” (1Ga 3,17). Thật vậy, nếu về mặt vật chất mà Thiên Chúa còn đòi buộc chúng ta “ai có hai áo, hãy chia cho người không có; ai có gì ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,11), thì về mặt tinh thần, Ngài còn đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ hơn vậy rất nhiều. Vì sự chia sẻ vật chất thì rất giới hạn, còn chia sẻ tinh thần thì ít bị giới hạn hơn rất nhiều.
4. Đừng vội tự hào hay kiêu hãnh về những thuận lợi của mình
Vậy khi xét xử, Thiên Chúa không xét theo mức độ đạo đức, những thành quả tâm linh mà chúng ta đang có hay đã đạt được, mà xét theo mức độ cố gắng của chúng ta để nên hoàn thiện hơn. Nếu Thiên Chúa ban cho ta 5 yến bạc, mà ta chẳng làm lợi ra được yến nào, nghĩa là ta không phát huy được những thuận lợi của ta, không dùng những thuận lợi ấy để làm ích cho ai, thì ta sẽ không được Ngài kể là công chính bằng một người chỉ được Ngài ban một yến, nhưng đã làm lợi ra được gấp 3, thành 3 yến. Tuy người ấy chỉ có 3 yến, nghĩa là kém ta tới 2 yến, nhưng người ấy được Thiên Chúa coi là công chính hơn ta rất nhiều. Có như thế, Ngài mới là một Thiên Chúa công bằng thật sự.
Vì thế, đừng tưởng ta đạo đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người mà nghĩ rằng ta công chính hơn người. Coi chừng kẻo lầm to: “ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Vì không thể so sánh thấy kết quả của mình hơn người khác mà kết luận mình công chính hơn họ. Phải so sánh những thành quả mình làm được với những thuận lợi ban đầu Thiên Chúa ban cho, xem đã tương xứng chưa: “Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình (...) chứ đừng so sánh với người khác” (Gl 6,4).
Đi vào cụ thể, ta thử so sánh hai người sau đây: Một người sinh ra từ một cha mẹ trộm cướp hay đĩ điếm, không được giáo dục đầy đủ, nhưng anh đã cố gắng hết sức mình ra vượt ra khỏi vòng tội lỗi do cha mẹ mình để lại. Anh nỗ lực vươn lên sự thiện suốt cả cuộc đời, và anh đã trở thành một người khá lương thiện. Còn người kia được sinh ra từ một cha mẹ đức hạnh, được giáo dục đầy đủ, vì thế, dù anh chẳng cố gắng hay nỗ lực nhiều, anh vẫn được mọi người coi là rất tốt, và nhờ đó có một địa vị khá cao trong xã hội hay Giáo Hội. Như vậy, trước mặt người đời, người thứ hai chắc chắn được đánh giá là công chính hơn người thứ nhất. Nhưng rất có thể trước mặt Thiên Chúa, Ngài thấy nỗ lực vươn lên của người thứ nhất lớn hơn gấp nhiều lần nỗ lực của người thứ hai. Như thế chắc chắn phần thưởng Thiên Chúa dành cho người thứ nhất sẽ phải lớn hơn phần thưởng cho người thứ hai.
Quả thật cách phán xét của Thiên Chúa khác hẳn với cách phán đoán của người đời. Ngài đã từng nói với các các thượng tế và kỳ mục trong dân, là những người được dân chúng tôn trọng và cho là đạo đức: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Tại sao? Có thể vì những người tội lỗi ấy đã cố gắng vươn lên sự thiện nhiều hơn cả những bậc được coi là đạo đức kia! Nên khi Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su đến, những người bị coi là tội lỗi ấy đã sám hối và tin theo ngay!
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con vui mừng vì được Cha ban cho rất nhiều thuận lợi trong đời sống. Và con đã hãnh diện và tự hào với những người kém may mắn hơn con. Qua bài Tin Mừng này, con thấy mình thật dại dột, vì nếu con không dùng những thuận lợi ấy để bù đắp lại cho những người kém may mắn hơn con, thì vào ngày Cha phán xét, chính những thuận lợi ấy lại trở thành những gì gây bất lợi cho con. Xin cho con ý thức được trách nhiệm của con đối với họ.


LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

1. Thập giá

Nhân ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thập giá trong cuộc sống của các ngài.
Hơn ai hết, các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta đã sống mầu nhiệm thập giá một cách sâu xa nhất. Đúng thế, chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh thiện quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác, các ngài còn thực sự uống chén đắng và trải qua cuộc thanh tẩy bằng máu mà Chúa Giêsu đã trải qua trong cuộc khổ nạn.
Các ngài chịu đau khổ và chết trong thân xác như Đức Kitô trên thập giá. Cuộc đời các ngài lặp lại từng bước những chặng được thập giá của Chúa Giêsu và kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng đời sống và bằng cái chết các ngài nói lên niềm xác tín của mình: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Tình yêu của các ngài còn mạnh hơn cả sự chết và là yếu tố tạo nên chiến thắng. Các ngài sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, đối với tình yêu thì giá nào cũng vẫn còn là thấp, kể cả sự chết.
Các ngài đã làm chứng và loan truyền mầu nhiệm thập giá. Cái chết của các ngài không còn là một việc riêng tư, nhưng đã trở nên một biểu hiện cho niềm tin chung của Giáo Hội vào giá trị tuyệt đối của Nước Trời, vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Sự chết đó còn là một tiếng gọi, một lời thúc giục toàn thể dân Chúa hãy sống trọn vẹn niềm tin của mình và chiếu sáng niềm hy vọng giữa lòng cuộc đời. Nếu sống được như vậy, thì dẫu không trải qua cái chết tử đạo, chúng ta cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm thập giá. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân. Các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng cả sự sống lẫn sự chết.
Thập giá đã đưa Đức Kitô đến phục sinh. Sau khi đã tự hạ vâng lời cho đến chết, Đức Kitô đã được suy tôn cùng với uy quyền và vinh quang. Còn các thánh tử đạo thì sao? Dù các ngài chưa thể sống lại trong thân xác như Đức Kitô, nhưng cũng đã đạt tới sự sống vinh quang của Ngài, bởi vì ngay lúc chết, các ngài đã được tham dự vào sự sống vinh quang của Đức Kitô phục sinh chỉ còn phải chờ đợi ngày được tỏ hiện mà thôi. Sự liên đới với Đức Kitô trong cái chết chắc chắn sẽ tạo nên sự liên đới trong sự sống.
Dù trong cảnh ngộ nào, Đức Kitô và các môn đệ Ngài cũng vẫn chung một số phận: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị. Vẫn là một quy luật muôn thuở của Nước Trời: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Trong mùa gặt phong phú của Giáo Hội Việt Nam thời sơ khởi, các thánh tử đạo đã loan truyền mầu nhiệm thập giá một cách kiên trì trên mảnh đất thân yêu. Xin các ngài giúp chúng ta, là những người công giáo Việt Nam hôm nay luôn sống trọn vẹn niềm tin, và làm chứng cho tình thương Chúa bằng đời sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.


2. Các Vị Tử Đạo Mới Của Thời Đại

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mỗi lần nói đến các thánh tử đạo, là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh đầu rơi, máu đổ, gông cùm, gươm giáo… Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần tới Thế kỷ 21, những cảnh hành trình tàn bạo, cổ điển ngày xưa và sự bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo được hiểu rộng rãi hơn. Vì tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức, nói chung là chết vì chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Maximilianô Kolbê, ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình, trong trại tập trung của Đức Quốc xã. Vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi Cha là vị tử đạo, chỉ coi Cha là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (Confessor). Nhưng khi phong thánh cho cha vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi cha là một vị tử đạo. Trong bài giảng phong thánh cho Cha Kolbê, Đức Thánh Cha nói: “Cái chết được cha hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm cho cha Kolbê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?”
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba” (TMA), Đức Thánh Cha kêu gọi các Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh”vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thày về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những Giám mục, Linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (TMA. 37).
Anh chị em thân mến,
Các Thánh Tử đạo là những người sống, làm chứng, loan truyền mầu nhiệm Thánh giá. Mỗi Kitô hữu, dầu không phải trải qua cái chết tử đạo thì đời sống vì đạo, sống vì Chúa, cho Chúa, cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm Thập giá cho thế giới. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân.
Không hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt Nam ngày xưa đã dùng Thập giá làm phương tiện để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là “Quá Khóa”để dùng Thập giá vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết: bước qua hay không bước qua Thập giá. Bước qua là được tiếp tục sống ở đời này, được trả lại tất cả những gì đã mất, được tặng thêm bao phú quý vinh hoa. Không bước qua là chấp nhận tù đày, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân…
Đã có người bước qua và đã có nhiều người không bước qua, không quá khóa. Đã có người được khiêng qua Thập giá, nhưng đã co chân lên, như Thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua Thập giá, nhưng sau lại hối hận, đó là trường hợp của ba vị thánh Augustino Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể và Đaminh Đinh Đạt. Vua Quan đã bày ra trước mặt các ông 10 cây vàng, một tượng Chúa Chịu Nạn và một thanh gươm, rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển”. Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của tôi. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Thánh Stêphanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập giá, nay tôi lại đạp lên Thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua Thánh giá, để quan có cớ mà tha cho, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước Thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hòa hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu qua mọi thời đại.
Không bước qua Thánh giá là làm chứng về niềm tin vào Đức Kitô. Dù chỉ là cây gỗ xếp chéo nhau, nhưng đó vẫn là một biểu tượng cho Thầy Chí Thánh, Đấng đã chịu chết trên Thánh giá. Các vị tử đạo đã không bước qua Thánh giá, vì họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng các ngài không phải chỉ là những chứng nhân đức tin mà còn là những chứng nhân đức mến. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng các ngài tin, mà còn là Đấng các ngài yêu mến bằng một tình yêu lớn nhất: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Cuối cùng, các vị Tử đạo còn là những chứng nhân cho một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết khủng khiếp đang chờ họ, nhưng họ như nhìn thấy thế giới ở đàng sau cái chết tạm thời. Họ thấy Thiên đàng, thấy sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường tồn. Chính vì thế, cái chết tử đạo không bao giờ mang nét bi đát của sự tuyệt vọng. Trái lại, nó ẩn chứa một sự bình an, vui tươi của người được hạnh phúc gặp Đấng mình mới tin mà chưa giáp mặt.
Anh chị em thân mến,
Các vị tử đạo là những chứng nhân dám chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Có thể chúng ta không được ơn tử đạo, nhưng chắc chắn chúng ta phải trở nên chứng nhân cho Chúa. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi, bị coi rẻ. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin. Mỗi thời đại nhạy cảm với một lối làm chứng. Lối làm chứng của cha Kolbê, của Mẹ Têrêsa Calcutta, của các tu sĩ bị ám sát ở Algêri, rất hấp dẫn con người hôm nay. Cần tìm được những lối sống Tin Mừng phù hợp khiến người ta dễ tin có Chúa, có linh hồn, có đời sau. Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi vật chất và không cần đến Thiên Chúa, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi sống một đời sống đơn sơ, chia sẻ và phụ vụ trong vui tươi? Khi con người hôm nay như bị cuốn hút vào cơn lốc của hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng thái độ thanh thoát, trong sáng và vô vụ lợi? Làm chứng bao giờ cũng là lội ngược dòng thế gian. Các Thánh Tử đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong thời đất nước chuyển mình theo kịp thế giới. Thời nào, người Kitô hữu cũng được đặt trước Thánh giá, dấu hiệu của một tình yêu hiến thân, một sự từ bỏ tận căn, một sự khiêm hạ đến tận cùng. Hãy đặt Chúa lên trên mạng sống của mình, yêu Chúa trên hết mọi sự.


3. Can đảm nói không với tội lỗi

(Lm. Trần Ngà)

Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giê-su, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.


4. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng"

(Lm. Tạ Duy Tuyền)

Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: "Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.


5. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Chúng ta có thể coi đạo Công Giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16, còn trước đó thì rất mơ hồ. Một vài tác giả cho rằng: các môn đệ của Thánh Tôma từ Ấn Độ theo các tàu buôn đã đến truyền giáo cho người Việt Nam.
Theo Đại Việt Sử Ký thì Sĩ Nhiếp là người thờ kính Chúa Trời, có xây một đền tại dinh của ông. Trong đền này có hình Gia tô thập tự. Ông chết năm 226, thọ 90 tuổi. Tuy nhiên đó mới chỉ là ức đoán mà thôi. Việc truyền giáo chỉ thực sự khởi sắc vào thời hậu Lê thuộc thế kỷ 16, khi các cha dòng Tên theo các tàu đã đến và giảng đạo tại Việt Nam.
Thời hậu Lê, tuy cấm đạo nhưng chưa khắc nghiệt lắm vì hoàn cảnh loạn lạc. Sau đó Tây Sơn đánh đổ nhà hậu Lê, đã ban cho tự do tôn giáo, nhưng không được bao lâu, nhà Tây Sơn cũng ra lệnh cấm đạo. Từ thời hậu Lê cho tới nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian 162 năm, đã có 11 lần cấm đạo, những chưa gắt gao cho lắm.
Nhờ giám mục Bá Đa Lộc giúp đỡ, Nguyễn Phúc Ánh đánh thắng nhà Tây Sơn, lên làm vua và khởi đầu cho triều đại nhà Nguyễn. Vì thế, vua Gia Long không cấm đạo mà còn bênh vực và nâng đỡ. Có người nói rằng khi gần chết nhà vua đã trở lại, nhưng không có bằng chứng chắc chắn nào cả.
Sang thời Minh Mạng, lúc đầu nhà vua không cấm đạo, nhưng chung quanh nhà vua, toàn những vị quan thù ghét đạo, luôn tìm cách vu khống cho người có đạo, thành thử nhà vua đã ngả theo và ra sắc chỉ cấm đạo trong cả nước.
Thời Thiệu Trị cũng vậy, lúc đầu nhà vua cũng không cấm đạo, nhưng kể từ ngày tàu Pháp tấn công cửa Hàn Tứ tại Đà Nẵng, nhà vua tức giận và đã cấm đạo một cách gắt gao. Nhà vua treo thưởng cho ai bắt được một linh mục Pháp là 30 nén bạc. Công việc chua đi đến đâu, thì nhà vua lâm bệnh và qua đời.
Thời Tự Đức, khi mới lên ngôi, nhà vua tỏ ra rất khoan hồng, mở cửa ngục tù cho giáo dân ra về, hy vọng những ngày đen tối sẽ chấm dứt. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, hoàng hậu và các quan không đồng ý. Vì sợ có chia rẽ, nên nhà vua lại ban hành lện cấm đạo một cách gắt gao, không kém gì các bạo vương Rôma ngày xưa.
Trải qua hơn ba thế kỷ, hằng trăm ngàn người đã phải lìa xa quê hương, sống lén lút nơi rừng thiêng nước độc, để trốn tránh sự truy lùng như những giáo dân vùng La Vang Quảng Trị. Còn những người bị bắt, thì đã phải chịu những cực hình dã man, không kém gì các thánh tử đạo của Giáo Hội trong thời buổi sơ khai. Vậy đâu là những lý do khiến cho vua quan ra lệnh cấm đạo.
Lý do thứ nhất đó là vì óc thủ cựu và hẹp hòi. Họ luôn cho rằng chỉ mình mới tốt và đúng, còn người khác thì xấu và sai. Hơn nữa do ảnh hưởng của Nho giáo, phàm những gì thánh hiền đã nói hay đã viết, đều là khuôn vàng thước ngọc cần phải tuân theo.
Lý do thứ hai đó là vì thái độ giận cá chém thớt. Thuở ban đầu các vua Minh Mạng, thiệu Trị và Tự Đức đều không cấm đạo, nhưng sau đó, vì không ngăn chặn được sự tấn công của người Pháp, nên vua quan quay ra thù ghét những người mà họ cho rằng đã theo đạo của Tây và khép vào tội phản động, nối giáo cho giặc.
Lý do thứ ba, đó là vì cho rằng những người theo đạo không còn tôn trọng truyền thống cha ông để lại, chẳng hạn trong việc thờ cúng ông bà tổ tiên, hiếu kính đối với cha mẹ…Đây cũng chỉ vì óc thiển cận, không tìm hiểu cho thấu đáo, nên đã gây ra những ngộ nhận, những hiểu lầm đáng tiếc.
Tuy nhiên lý do căn bản nhất vẫn là sự đối kháng giữa tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian. Đối kháng như lửa và nước, như ánh sáng và boqng tối. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: Người ta đã bắt bớ Thầy, thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con…Nhưng ai xưng tụng Thầy trước mặt người đời thì Thầy cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự ở trên trời.
Sự bắt bớ, hay nói đúng hơn, sự đối kháng này không phải chỉ xảy ra bên ngoài trên bình diện xã hội, như chúng ta đã thấy, mà còn xảy ra bên trong, trên bình diện nội tâm. Thực vậy, chúng ta luôn cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, để rồi như thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Bởi đó, hãy trung thành với Chúa trong những bắt bớ bên trong bằng cách thự hiên điều thiện điều tốt, nhờ đó chúng ta sẽ trung thành với Chúa trong những bắt bớ bên ngoài. Vì ai bền đỗ đến cùng, thì sẽ được cứu thoát.


6. Bách hại

Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những viên thuốc đắng, người ta phải bọc đường để cho dễ uống. Thế nhưng qua Tin mừng, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Trái lại, Ngài đã nói rõ cho các môn đệ biết những khó khăn đang chờ đón các ông. Ngài bảo: - Thầy sai các con đi như chiên con ở giữa sói rừng. Người ta đã ghét bỏ Thầy, thì rồi họ cũng sẽ ghét bỏ các con. Đầy tớ không trọng hơn chủ. Họ sẽ xua đuổi các con ra khỏi hội đường, sẽ bắt bớ và hãm hại các con. Đã đến giờ những kẻ giết các con tưởng rằng làm như thế là phụng sự Thiên Chúa…
Quả thật là rõ ràng và minh bạch, không dấu diếm, không úp mở và chúng ta cũng chẳng cần phải cắt nghĩa hay thêm bớt điều gì nữa. Kể từ nay, các ông sẽ phải mạnh dạn tiến lên với dấu ấn của người môn đệ Đức Kitô. Thế gian sẽ nhìn các ông như những kẻ xa lạ và thù địch, không có cùng một mẫu số chung, không đồng hội đồng thuyền với họ.
Nếu Đức Kitô đã bị đóng đanh vào thập giá như một tên tội phạm về phương diện chính trị, thì các ông cũng vì Ngài mà bị điệu tới vua chúa và chính quyền, bị hành hạ và ngược đãi, để rồi sau cùng đã chết đi cho ánh sáng Tin mừng được chiếu tỏa. Và sự thật đã xảy ra như thế. Tất cả các ông, ngoại trừ thánh Gioan tông đồ, đều đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô.
Theo mẫu gương kiên hùng của các ông, Giáo hội sơ khai cũng đã bị nhuộm thắm bởi dòng máu của hàng ngàn, hàng vạn các tín hữu bị bách hại duới thời các bạo vưong La Mã, đúng như lời Chúa đã báo trước:
- Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con.
Tại Hollywood, kinh đô điện ảnh của thế giới, người ta đã dàn dựng những cuốn phim vĩ đại nói về những cuộc bách hại các tín hữu trong những thế kỷ đầu. Hàng ngàn tín hữu đã bị làm mồi cho sư tử tại các hý trường. Với màn ảnh rộng và với màu sắc huy hoàng, người ta đã thực hiện được những cảnh hùng vĩ ấy một các dễ dàng và đã gây được một sự xúc động mạnh mẽ nơi khán giả.
Dầu vậy, đó vẫn chỉ là những cảnh giả tạo. Ống kính không thể thu được cái thực tại sống động và cay đắng mà các môn đệ cũng như các tín hưu sơ khai đã phải trải qua:
- Thầy sai các con đi như chiên con ởi giữa sói rừng.
Kinh nghiệm đau thương ấy vẫn luôn xảy ra ơ mọi nơi và trong mọi lúc. Ngay như Giáo hội Việt Nam cũng vậy. Với hơn ba trăm năm cấm cách, trải dài từ thời Hậu Lê cho đến thời nhà Nguyễn, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, hàng trăm ngàn người đã phải rời bỏ nơi quê cha đất tổ, sống lẩn trốn nơi rừng thiêng nước độc như các tín hữu vùng La Vang Quảng Trị. Hàng ngàn tín hữu đã ngã gục duới những cực hình dã man để trở thành những chứng nhân bất khuất cho Tin Mừng, trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 tại Rôma.
Từ những sự kiện trên, chúng ta thấy tinh thần Kitô giáo luôn là một cái gì trái ngược với tinh thần thế gian. Chẳng hạn khi Đức Thánh Cha lên tiếng trình bày quan điểm của Giáo hội trước những vấn đề thời sự nóng bỏng trên thế giới, thì người ta lập tức mổ xẻ, phê bình và không ngần ngại chỉ trích và phản đối. Họ muốn giới hạn tôn giáo vào những hoạt động mang tính cách riêng tư, chứ không để cho tôn giáo ảnh hưởng đến đời sống của xã hội cũng nhu đến những sinh hoạt trong lãnh vực kinh tế, chính trị…
Làm như vậy là đi ngược lại với sứ mạng của Kitô giáo. Đúng thế, Kitô giáo không phải là một hòn đảo biệt lập, hay là một pháo đài cho chúng ta ẩn náu an tòan, cũng không phải là một cái vỏ ốc cho chúng ta thu mình vào đó. Trái lại, Kitô giáo phải là một con đường dẫn chúng ta đến với người khác để rồi cùng với họ chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa.
Vì thế mỗi người Kitô hữu đều có bổn phậnph trở nên như muối ướp cho trần gian khỏi ươn thối, phải trở nên như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.
Chúng ta không phép được che dấu tinh thần của Đức Kitô, trái lại phải làm cho nó thấm sâu vào môi trường chúng ta đang sống.
Chúng ta không được phép để mặc cho thế gian chìm vào bóng đêm, dù có gặp phải những gian nan và thử thách.
Như các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta phải lấy làm vinh dự vì đã bị thế gian ghét bỏ, chúng ta phải lấy làm hãnh diện vì được trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô.


7. Chứng nhân tình yêu

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh tử đạo Việt nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hi sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8:35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hi sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hi vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh tử đạo Việt nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo hội Việt nam. Amen.


8. Sống vì đạo

(TGM Giuse Ngô quang Kiệt)

Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?


9. Sống chứng nhân Tin Mừng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.
Qủa thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúa Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.


10. Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi

Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, trước tiên chúng ta hãy hợp cùng các ngài để tạ ơn Chúa. Các ngài là cha ông của chúng ta đã từng sống trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, và từng dấu chân của các ngài đã đặt trên các con đường chúng ta đang đi. Nói chung, các ngài là những con người như chúng ta, cùng một phong tục, một văn hoá như chúng ta. Và xét về mặt con người, các ngài cũng có những mặt tình cảm, mặt giới hạn, những yếu đuối như chúng ta. Nhưng các ngài đã trung thành với ơn Chúa cho đến cùng, bất chấp mọi gian nan thử thách, bất chấp những dã man và các ngài đã dùng cái chết thảm thương của mình để nói với tất cả con cháu và toàn thể thế giới rằng: "Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đáng được tôn thờ và yêu mến mà thôi".
Nhờ đâu mà các ngài được can đảm và mạnh mẽ như thế? Chính là nhờ ơn Chúa, vậy chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Chúa. Ngày hôm nay mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta hãy cùng chia vui với các ngài, vì những đau khổ chóng qua của đời này đã hết, số phận đời đời của các ngài đã được định đoạt. Các ngài hưởng nhan thánh Chúa đến muôn thuở muôn đời và không còn lo âu sợ hãi gì nữa, nhất là sợ mất Thiên Chúa. Vì từ nay Chúa chính là phần gia nghiệp của các ngài. Chúng ta hãy chia vui với cha ông của chúng ta và cùng vui mừng với Giáo Hội Việt Nam yêu quí của chúng ta, vì đã có những người con ưu tú đang sống trọn vẹn niềm vui, sự an bình và sung mãn của Nước Trời.
Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay chúng ta cũng đừng quên cầu xin Chúa cho Giáo Hội, nhất là cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta. Bởi vì hầu như bất cứ ở đâu và thời nào, Giáo Hội cũng luôn luôn bị bắt bớ và thách hại và những người con trung thành của Giáo Hội vẫn luôn chịu tử đạo. Nhất là ngày nay, sự tử đạo dần mòn vì bị trị áp đảo tinh thần. Lý do là vì những đường lối hướng dẫn của Giáo Hội trong mọi lãnh vực của đời sống con người luôn là ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa, luôn bênh vực cho những quyền căn bản của con người, để giúp tất cả mọi người không phân biệt màu da ngôn ngữ, văn hoá, chủng tộc... luôn sống đúng nhân phẩm của mình trong vũ trụ này, hầu chu toàn bổn phận làm con cái của Chúa.
Nhưng một thực tại không chối cãi được nơi trần gian này mà thánh Gioan đã ghi ngay trong những câu đầu Phúc âm của ngài, ngài viết: "Ánh Sáng chiếu trong bóng tối, nhưng bóng tối không chịu tiếp nhận ánh Sáng". Và chính Chúa Giêsu, Ngài cũng đã quả quyết: "Ai thích làm những điều ám muội trong bóng tối thì ghét ánh Sáng". Cho nên hầu như lúc nào lực lượng của bóng tối cũng tìm đủ mọi lý do để phủ nhận ánh sáng bằng cách nhân danh một nền văn hoá, nhân danh một cá nhân, một bè đảng trần thế, nhân danh một ý thức hệ để loại trừ Giáo Hội.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội luôn vững tin vào Thiên Chúa và luôn nhớ rằng, chính Chúa Giêsu, Đấng Sáng Tập Giáo Hội đã nói với Simon con ông Giona, tức là Phêrô rằng: "Này con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng nổi. Chúng ta hãy cầu xin cho những người con của Giáo Hội biết trung thành bền vững đi trong ánh sáng và hướng dẫn người khác luôn tiến bước trong ánh sáng của Giáo Hội. Đừng bao giờ hùa theo sức mạnh của bóng tối, đừng chạy theo cặn bã phù vân để bách hại Giáo Hội là Mẹ của mình.
Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, có một điều làm chúng ta an ủi là Giáo Hội vẫn trường tồn và phát triển qua bao nhiêu bách hại. Mặc dù các đế quốc quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội, nhưng họ đã bị sụp đổ, các cá nhân vì những quyền lợi riêng tư đã thù ghét đàn áp Giáo Hội, nay đã nằm yên trong lòng đất lạnh và không còn ai nhắc đến nữa. Gần đây, các thế lực vô thần độc tài bài trừ Giáo Hội một cách khoa học và tinh vi cũng đã tan tành bể vụn ra từng mảnh trước mắt chúng ta.
Nhiều nơi sau thời bách hại đã qua, các tín hữu đã cùng hát lên với nhau Thánh Vịnh 125:
"Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,
Chúng con thuở ấy dường như đang mơ.
Miệng cười thú vị làm sao,
Lưỡi dân rối rít xôn xao nỗi mừng.
Ai gieo trong lệ sầu,
Sẽ gặt trong hân hoan.
Ai vừa khóc vừa đi,
Đem hạt giống ra vãi,
Ắt se trở về vui vẻ, mang theo bó lúa bên mình".
Vì thế, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội Việt Nam đem hạt giống chôn vùi trong lòng đất, nhưng không phải để mục nát thối rữa, mà là để nảy mầm tươi tốt trong mùa xuân của dân tộc đang như con nhộng nằm trong kén, nhưng không phải để ngủ mê mà để âm thầm chuyển mình chờ ngày cánh kén tung bay thành con bướm nhởn nhơ với muôn màu muôn sắc trên cánh đồng đầy hoa tươi rực rỡ trên bầu trời trong mát.
Sau cùng, mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho chính bản thân và cho gia đình của mình, nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho mỗi người, mỗi gia đình biết noi gương các thánh luôn trung thành yêu mến Chúa, sống đời đạo đức gương mẫu, để ngày kia chúng ta được sum vầy trong Nước Chúa, bên Các Thánh Tử Đạo cha ông của chúng ta.
Thật là đau khổ biết bao nhiêu khi chúng ta tường tượng thấy người thân yêu sẽ không cùng với chúng ta để hưởng hạnh phúc đời đời trong Nước Thiên Chúa, mà phải trầm luân muôn kiếp trong chốn tối tăm. Cho nên, yêu thương nhau thật sự chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và luôn luôn khuyến khích, hướng dẫn nhau giữ đạo cho tử tế, thờ kính yêu mến Chúa hết lòng, để một ngày kia tất cả chúng ta cùng với các thánh ca khen danh Chúa mãi mãi muôn đời. Amen.


11. Để làm chứng cho vua quan

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.


12. Các thánh Tử Đạo Việt Nam

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
"Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên Trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng liêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ".
Qua ngày lễ Kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công Giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước Ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm ba mươi bảy linh mục, mười sáu thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em công giáo khắp năm châu Mừng Kính Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Amen.

0 nhận xét

Leave a Reply

Cảm ơn bạn đã đọc và cho ý kiến về bài viết.
>>> Để nhận xét:
1. Ở phần "Nhận xét với tư cách" bạn chọn phần "Tên/URL".
2. Bạn nhập tên của mình vào và ở mục URL bạn nhập tên và ".com" (Ví dụ: Tên: Vidu, URL:vidu.com) Và click "Tiếp Tục"
3. Và sau đó bạn chỉ cần nhận xét bài viết của mình và click "Đăng nhận xét"...

>>>Hân hạnh được đón tiếp bạn tại trang web "Con Yêu Mến Chúa!" . Hy vọng đây sẽ là nơi bổ ích và thú vị cho bạn. Rất mong nhận được sự đóng góp của bạn để cùng nhau xây dựng "Con Yêu Mến Chúa!" ngày 1 lớn mạnh.

Thân ái,
Cảm ơn bạn!