Đức Kitô có phải là Vua
không? Chắc chắn Đức Kitô không phải là một thủ lãnh của một đảng phái
đối lập, cũng chẳng phải là một vị vua chúa như người đời vẫn quan niệm.
Suốt cuộc sống công khai, Ngài không bao giờ chấp nhận tước hiệu
Messia, tước hiệu là vua theo mơ ước của dân chúng. Vì mơ ước của họ pha
trộn quá nhiều những yếu tố trần tục, quá nhiều những tham vọng chính
trị. Thực vậy, sứ mệnh của Ngài không như sứ mệnh của quận vương Hêrôđê,
quyền bính của Ngài không như quyền bính của hoàng đế Lamã hay như bất
kỳ một vị vua chúa nào trên trần gian...
CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN - A
LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
Lời
Chúa: Ed 34,11-12.15-17; 1Cr 15,20-26.28; Mt 25,31-46
MỤC LỤC
1. Đức Kitô Vua
Đức Kitô có phải là
Vua không? Chắc chắn Đức Kitô không phải là một thủ lãnh của một đảng phái đối
lập, cũng chẳng phải là một vị vua chúa như người đời vẫn quan niệm. Suốt cuộc
sống công khai, Ngài không bao giờ chấp nhận tước hiệu Messia, tước hiệu là vua
theo mơ ước của dân chúng. Vì mơ ước của họ pha trộn quá nhiều những yếu tố
trần tục, quá nhiều những tham vọng chính trị. Thực vậy, sứ mệnh của Ngài không
như sứ mệnh của quận vương Hêrôđê, quyền bính của Ngài không như quyền bính của
hoàng đế Lamã hay như bất kỳ một vị vua chúa nào trên trần gian.
Sứ mệnh của Ngài
thuộc một lãnh vực khác. Chính vì thế mà chúng ta thấy nhiều lần Ngài đã từ
chối cái cách tôn phong Ngài lên làm vua của dân chúng. Sau phép lạ bánh hoá
nhiều dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trốn. Nhưng cũng
có lần Ngài sẵn sàng biểu dương trước công chúng, khi Ngài hiên ngang tiến vào
Giêrusalem, xuất hiện với những phương tiện khiêm tốn, phù hợp với lời tiên báo
của Giacaria. Ngài để cho dân chúng tung hô như là vua Israel. Trong
phiên toà dân sự tại dinh Philatô, đề tài xét xử chính là vương quyền của Ngài.
Khi Philatô hỏi: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu không phủ
nhận tước hiệu ấy, nhưng Ngài đã minh xác rằng: Vương quốc của Ngài không thuộc
về thế gian này.
Chúa Giêsu là Vua vũ
trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Ngài lại là một vị Vua
bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Đức Kitô đã
lên ngôi bằng con đường của thập giá, của tình yêu. Kẻ thù duy nhất của Ngài là
vương quốc của Satan, của thù hận, của chia rẽ và của tội lỗi.
Các ngai vàng, các
vương miện, các triều thiên và áo cẩm bào chỉ là những đồ trang sức tạm bợ
chóng qua, chúng ta không được phép hiểu vương quyền của Đức Kitô qua những
hình ảnh đó. Chính Ngài cũng đã tự tách mình ra khỏi các thủ lãnh của trần gian
như lời Ngài đã phán: Vua chúa các nước thì cai trị ân, và những kẻ làm lớn thì
lấy quyền mà áp chế dân. Đức Kitô không phải là một thủ lãnh áp chế, trái lại
cai trị theo Ngài có nghĩa là lột sạch mọi tự cao, hào nhoáng và vênh vang, cai
trị đối với Ngài chính là phục vụ.
Đức Kitô phục vụ
chúng ta và Ngài phục vụ một cách khiêm tốn, thận trọng và kín đáo. Ngài đã
phục vụ đến độ hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Sự tự hạ
của Ngài đi đến chỗ đồng hoá với những kẻ bé mọn và thấp kém nhất. Còn chúng ta
thì sao? Chúng ta đã thực sự dấn thân để phục vụ và giúp đỡ những kẻ bé mọn
thấp kém chung quanh chúng ta hay chưa?
2. Vương quốc tình yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng hôm nay
cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.
Sự thật thứ nhất là: thế giới
này sẽ chấm dứt. Không
có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu
dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành
hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải
đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.
Sự thật thứ hai là: mọi người
sẽ bị xét xử. Tất cả mọi
người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm
trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ
được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta
phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt
đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.
Sự thật thứ ba: sẽ có một vương
quốc mới. Tuy nhiên kết
thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ
để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới
vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ
thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc
tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ
những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật
duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất:
tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.
Sự thật thứ bốn: đời này là cơ
hội duy nhất. Thế giới
mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời
này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những
ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được
tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết
đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng
mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.
Với dụ ngôn ngày
phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng
thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu
thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho
người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những
việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để
làm.
Lạy Chúa Giêsu Vua
Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa.
Amen.
Gợi ý chia sẻ
1- Dụ ngôn ngày phán
xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?
2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?
3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?
4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?
2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?
3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?
4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?
3. Vì xưa Ta đói
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
TÊRÊSA Calcutta là
người mê và sống đoạn Tin Mừng này. Bà bị cuốn hút bởi những người đau khổ.
Dưới mắt bà, đó không chỉ là những người đáng thương, mà còn là hiện thân của
chính Chúa Giêsu đau khổ.
Tình yêu con người
và tình yêu Chúa Giêsu quyện vào nhau.
Vì yêu Ngài, nên bà
yêu con người mãnh liệt hơn.
"Tập nhìn ra
chính Chúa Giêsu trong mỗi con người, dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi
nữa."
Đoạn Tin Mừng này
được chọn đọc vào Chúa Nhật hôm nay, vì ở đây Chúa Giêsu được mô tả như một vị
Vua, có thiên sứ theo hầu, ngồi trên ngai vinh hiển. Ngài là Thẩm phán xét xử
muôn dân, tách biệt kẻ lành người dữ, thưởng phạt công minh. Nhưng phán quyết
của Ngài làm ai nấy kinh ngạc.
Người ta được chúc
phúc hay bị nguyền rủa dựa trên những việc họ đã làm hay không làm cho Ngài, mà
họ không hề hay biết.
Vua Giêsu chẳng ở
đâu xa, chẳng ở cung vàng điện ngọc. Ngài ở trong những người cùng khốn.
Vua Giêsu đồng hoá
mình với những người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù mà chúng
ta vẫn gặp mỗi ngày.
Ngài ẩn mình hay
đúng hơn Ngài tỏ mình qua con người, qua những người hèn kém đáng thương nhất.
Chúa vinh quang không ngại nhận họ là anh em.
Ngài không khoác tấm
áo lộng lẫy kiêu sa để dễ gần gũi với nỗi đau của người yếu thế.
Như thế chúng ta
không phải tìm Chúa ở nơi xa xôi.
Ngài không chỉ ở
trong nhà thờ, trong bí tích.
Ngài còn ở nơi những
người đang cần chúng ta.
Mỗi người khốn cùng
đều là một bí tích, nơi chúng ta có thể thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu.
Có những lần Chúa đi
ngang qua đời ta như vị vua giả trang làm người hành khất.
Ngày phán xét, chúng
ta không được giả vờ ngạc nhiên khi nghe biết mình đã để Ngài đi qua tay trắng.
"Chúng ta sẽ bị
xét xử dựa trên tình yêu."
Tội lớn nhất là tội
thiếu sót: không làm điều phải làm.
Hôm nay Vua Giêsu
vẫn ngửa tay xin ta giúp các anh em bé mọn nhất của Ngài. Những người mù chữ,
những trẻ em đường phố, những người bị suy sụp tinh thần, cần được yêu thương,
những người không tìm được cho đời mình một chỗ trọ, những người tự nhốt mình
trong tù ngục đam mê, những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác.
Phải làm một việc gì
đó cụ thể để Nước Chúa lớn lên trong thế giới này.
Phải xây dựng một
điều tốt đẹp nào đó để Vua Giêsu thật sự là Vua Vũ Trụ, vũ trụ bên ngoài và vũ
trụ trong lòng con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay còn
nhiều bất công và đau khổ do con người gây ra cho nhau. Bạn thử nghĩ, với khả
năng của mình, bạn làm được điều gì để người chung quanh hạnh phúc?
Thấy Chúa Giêsu nơi
những người đói nghèo, rách rưới, vô gia cư nghề nghiệp, thậm chí đã có lần
phạm pháp, bạn nghĩ điều đó có khó không? Làm sao tôi có thể đối xử với họ như
với Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua
vũ trụ, nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn
tám trăn ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới
này sẽ đổi khác, Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải
là một lượng men nhỏ.
Nếu khối bột chẳng
được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu
trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu: có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu
cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần
gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua
vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong
nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ hơn
2000 năm.
Chúng con sợ Chúa
đến làm phiền lòng chúng con, và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người
công giáo chịu để Chúa chi phối đởi mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa
hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
4. Chúa sẽ luận xét chúng ta về điểm nào?
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Chúa Giêsu dựng nên
một cảnh đầy hình ảnh để nói cho biết nguyên tắc phân xử khi đến ngày cuối
cùng. Qua đó Ngài muốn dạy chúng ta ngày nay phải sống theo nguyên tắc nào. Các
yếu tố Ngài dùng để dựng cảnh để minh giải cho giáo huấn đều quen thuộc với
người nghe Ngài nói. Nhiều truyện ký Do thái thuộc loại văn gọi là khải huyền
trước Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh ít nhiều kinh khủng về ngày tận cùng
lịch sử. Chúa Giêsu lấy lại một số không quá đáng và Ngài nhấn mạnh đến điểm
Ngài cho là tối quan trọng: các cử chỉ yêu thương đối với người nghèo và người
hèn mọn là những kẻ Ngài tự đồng hóa. Cá nhân Ngài không cần ai giúp của ăn,
nơi ở, áo mặc, nhưng Ngài muốn được chúng ta phục vụ trong con người những kẻ
Ngài tuyên bố là anh em ưu ái của Ngài. Nên lưu ý khi mô tả hình ảnh vị vua ngự
trên ngai tòa vinh hiển, Chúa gợi ra quyền hành quân vương và thẩm phán của
Ngài nghĩa là quyền quản lãnh toàn thể nhân loại. Một vài điểm để suy gẫm rút
ra từ bài học này:
1) Các người lành trả lời: Lạy
Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Như thế các người lành có hành động yêu
thương đối với người nghèo túng cũng không biết rõ tất cả tầm mức các việc mình
làm. Có khi nào người ta thấu suốt ý nghĩa một hành vi yêu thương chân chính?
Thiên Chúa ẩn mình giữa người ta có thể khiến chúng ta kinh ngạc, nhưng phải
chăng chính việc ấy giúp Ngài đến rất gần với chúng ta? Chúng ta không thể nào
chịu nổi nếu Ngài tỏ mình trong thực tại quyền năng của Ngài. Ngài để cho chúng
ta giao thiệp được nơi đặc điểm thâm sâu nhất mà cũng phù hợp với chúng ta;
Ngài là tình yêu hiến tặng cho khả năng yêu thương của chúng ta. Để chúng ta có
thể yêu thương Ngài cách rất thiết thực và luôn vừa tầm chúng ta. Ngài tự đồng
hóa với người sống bên cạnh mà chúng ta gặp gỡ và có thể đón tiếp vào trong
lòng; Ngài tự đồng hóa các đặc biệt với người khốn khổ mà chúng ta có thể và
phải giúp đỡ về mặt thể xác lẫn tinh thần. Người Kitô hữu hãy nhờ lại hai lời
Chúa dạy. Lời thứ nhất: sẽ luôn còn có người nghèo ở giữa các người. Lời thứ
hai: Ta ở với các ngươi cho đến tận thế. Có thể nói Chúa ở voới các môn đệ cho
đến tận thế trong con người những kẻ nghèo khổ. Ngày nay chúng ta có thực sự
xác tín có những người túng thiếu, trong họ, Chúa chờ đợi tình yêu thương của
chúng ta hay không? Đặt mình ở mức độ bản thể thần linh Chúa Giêsu đã phán: Cha
với Ta là một. Chúa Cha lại là tình yêu. Tình yêu ấy, khi xuống mức độ nhân
tính đã khiến Chúa Giêsu nói: người nghèo với Ta là một. Điều này đo lường tầm
quan trọng các hành vị chúng ta đối với người nghèo.
2) Các kẻ bị chúc dữ sẽ nói như
người lành: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Các kẻ bị loại bỏ, các kẻ cứng lòng, các kẻ
buông tuồng, ích kỷ cũng không nhận rõ tất cả tầm mức thái độ của mình. Có
những trường hợp bỏ qua không hành động cho người nghèo khổ tương đương với
việc ấn họ sâu thêm vào cảnh khốn cùng. Hình phạt đáng sợ của thái độ ấy ở chỗ
tương đương với việc hất hủi Thiên Chúa. Thế mà nếu Thiên Chúa là tình yêu trọn
vẹn, Ngài cũng là công lý hoàn toàn. Công lý ấy tỏ ra ở chỗ Ngài không ép buộc
những ai khước từ Ngài. Sự cùng khổ và cô đơn của người đã khước từ Thiên Chúa
là một đau đớn vô cùng khổ sở hơn mọi đau đớn trần gian này. Người Kitô hữu
được mời gọi phải coi trọng hết sức trách nhiệm của mình đối với những người
nhỏ bé, yếu đuối, khốn khổ, để khỏi bị tách biệt xa Thiên Chúa. Để kết thúc nên
lưu ý một chi tiết: Chúa phán: mỗi một lần các người làm điều ấy… Trong ngôn
ngữ Chúa Giêsu dùng (tiếng aram)
động từ “làm” ở đây bao gồm ý nghĩa “phục vụ”. Người ta liên tưởng đến lời Chúa
Giêsu: Ta đến để phục vụ. Trước mặt Thiên Chúa có ai nghèo hèn và cực khổ hơn
những người tội lỗi là chúng ta tất cả? Chúa Giêsu đã đặt mình phục vụ chúng
ta, mưu cầu ơn cứu độ, hạnh phúc và hân hoan cho chúng ta. phúc cho chúng ta
nếu bắt tay làm, nghĩa là hành động phục vụ cho sự cứu rỗi và hạnh phúc của
những người nghèo nhất trong anh em chúng ta.
5. Vương quốc của tình yêu
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
Trong tác phẩm mang tựa đề: “Thị kiến của
người Kitô hữu” (The Christian Vision) nhà văn John Powell có kể một câu chuyện
thần thoại của người Ái Nhĩ Lan. Câu chuyện đưa chúng ta trở lại thời các vua
cai trị đất nước này:
Một hôm nhà vua thấy mình không có con để kế
vị, ông bèn sai các sứ giả thông báo cho các thành phố và làng mạc biết: nhà
vua mời các thanh niên nào có đức tính tốt đến triều đình để được phỏng vấn.
Như thế nhà vua hy vọng có thể chọn được một người xứng đáng lên ngôi vị mình
trước khi băng hà. Hai đức tính được nhà vua đặc biệt lưu ý, đó là người thanh
niên ấy phải có lòng mến Chúa và yêu người.
Chàng thanh niên trong câu chuyện nghe như có
tiếng thầm kín bên trong thúc đẩy chàng lên đường đến triều đình để được nhà
vua phỏng vấn, vì chàng quả thật là một người có lòng mến Chúa và yêu người.
Nhưng chàng lại nghèo khó đến nỗi không có được một bộ quần áo chỉnh tề để đến
triều đình. Chàng cũng chẳng có tiền để mua lương thực dự trữ cho cuộc hành
trình dài đến lâu đài nhà vua. Cuối cùng, chàng quyết định đi xin quần áo và
lương thực cần thiết.
Khi mọi sự đã sẵn sàng, chàng lên đường. Sau
một tháng hành trình, chàng đã nhìn thấy lâu đài của nhà vua hiện ra trên đỉnh
đồi ở đàng xa. Cũng vào lúc ấy, chàng gặp thấy một ông già nghèo đói ngồi bên
vệ đường. Người ăn xin ngửa tay van xin chàng giúp đỡ: “Anh ơi, tôi đói, tôi
rét, anh làm ơn cho tôi áo mặc, cho tôi bánh ăn”. Chàng thanh niên cảm động
nhìn người ăn xin. Chàng cởi áo khoác của chàng và đổi lấy chiếc áo rách tả tơi
của người ăn xin. Chàng cũng chia sẻ lương thực dự trữ của chàng. Rồi chàng đến
lâu đài nhà vua trong bộ áo rách tả tơi và không đủ lương thực cho cuộc hành
trình trở về. Đến trước lâu đài, lính gác chận chàng lại ở cổng, bắt chàng vào
khu khách tham quan. Sau một thời gian dài chờ đợi, chàng mới được cho vào gặp
nhà vua. Trước ngai vàng, chàng cúi mình thật sâu bái lạy, đến lúc đứng thẳng
lên, chàng hết sức bỡ ngỡ, vì chàng thấy ông già ăn xin bên vệ đường mà chàng
đã gặp giờ đây lại ngồi trên ngai vàng. Chàng lên tiếng hỏi:
- Tâu Đức vua, có phải Đức Vua là người ăn
xin bên đường mà tôi đã gặp chăng?
- Đúng thế, Đức Vua đáp.
Chàng lại hỏi:
- Vậy tại sao Đức Vua lại làm như thế đối với
tôi?
Đức vua đáp:
- Ta phải cải trang làm người ăn xin để thử
xem ngươi có thật lòng mến Chúa và yêu người không.
Anh chị em thân mến,
Đây là câu chuyện
thần thoại, nhưng điểm chủ yếu rất xác thực. Vương quốc của Chúa Kitô Vua là
vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng
yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự. Tin Mừng hôm nay cho thấy: chúng ta
sẽ bị xét vào cuối đời về cách chúng ta yêu mến và phục vụ Chúa Kitô Vua như
thế nào trong những người anh em nghèo khó bé nhỏ nhất của chúng ta.
Chúng ta hãy nghe
lại Lời Chúa: “Lúc ấy, Đức Vua sẽ phán: Ta đói, các ngươi đã cho ta ăn. Ta
khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau
yếu, các ngươi đã chăm sóc… Bấy giờ, những người công chính –đứng bên phải– hỏi
lại Chúa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói hay khát đâu mà cho
ăn cho uống…? Đức Vua sẽ đáp lại: Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm
như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm
cho chính Ta vậy”.
Đức Vua đã làm cho
những người lành đức bên phải, cũng như những kẻ dữ đứng bên trái, đều phải
chưng hửng. Người bên phải rất sửng sốt khi thấy Đức Vua kể những việc tốt họ
đã làm cho những người bất hạnh trong cảnh đói khát, rách rưới, tù đày, như là
những việc giúp đỡ họ dành cho chính bản thân Đức Vua. Còn người bên trái cũng
hết sức ngỡ ngàng khi thấy Đức Vua đồng hóa bản thân Ngài với những người mà họ
đã coi thường, nên đã không cho họ cơm ăn, áo mặc, nhà ở… Lời giải thích của
Chúa đã làm cho cả hai bên- bên người lành và kẻ dữ- đều sáng mắt kinh ngạc: Họ
không ngờ rằng mỗi lần họ tiếp đón hay hất hủi những người cần đến họ giúp đỡ
là họ đã tiếp đón hay hất hủi chính Chúa Giêsu!
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa đã âm
thầm len lỏi vào giữa đám đông nhân loại mà không ai biết. Chúng ta thường nhận
diện được Chúa lúc chúng ta không ngờ. Vì thực khó mà nhận diện được Chúa, nếu
chúng ta vẫn quan niệm Thiên Chúa như một Đế Vương phong kiến, chễm chệ trên
ngai vàng. Nhưng nếu chúng ta nhận được rằng Thiên Chúa không phải là Vua thống
trị nhưng là Vua phục vụ, thì chúng ta không thể không nhận ra Ngài nơi những
người bé mọn nhất. Chúng ta sẽ không còn thắc mắc như người lành hay kẻ dữ
trong ngày phán xét cuối cùng: “Thưa Ngài, có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói,
Ngài khát, Ngài rách rưới… đâu?” Bởi vì thiên Chúa đã ẩn dấu bộ mặt thần linh
của Ngài trong bộ mặt nhân loại: Người láng giềng, bạn đồng nghiệp, nhưng cũng
có thể là khuôn mặt của hàng triệu con người trên thế giới đang ê chề trong
cảnh thiếu ăn, nghèo đói, thất nghiệp hay những công việc nô lệ, vô nhân đạo,
đang bị kẻ mạnh áp bức hay người quyền thế bóc lột. Chúa Giêsu khẳng định với
chúng ta rằng Thiên Chúa tự đồng hóa với khuôn mặt của hàng triệu con người đó,
vì họ là anh em bé nhỏ của Ngài.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô là Vua.
Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì
thuộc về Chúa Kitô và là công dân của Nước Thiên Chúa. Tình yêu, nói được là
như “chứng minh nhân dân”, như “thẻ căn cước”của Nước Thiên Chúa. Tình yêu
không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực, sống động. Cụ
thể là chia sẻ chính những lo lắng, khó khăn, khốn khổ, cùng cực của đồng bào
trong hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống. chúa Giêsu đã khẳng định: chúng ta
sẽ bị phán xét trong ngày sau hết về cách chúng ta đã phục vụ Đức Kitô Vua như
thế nào trong những người anh em đói, khát, rách rưới, bệnh tật, tù tội… Hãy
phục vụ những Đức Kitô Vua ấy thế nào để vào ngày cuối cùng, Chúa Kitô Vua sẽ
mời gọi chúng ta: “Hãy đến, hỡi những người Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa
hưởng vương quốc đã dành sẵn cho anh em từ thuở đời đời”.
6. Cuộc sống của chúng ta tuỳ thuộc vào Mt 25,40
Đây là một bài học
khác về cái nhìn của Thiên Chúa trên cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ phán xét
chúng ta như thế nào? Câu trả lời chứa đựng trong bản văn chính yếu này. Đây là
tổng kết cuối cùng của tất cả mọi cuộc sống: ngày phán xét chung. Thiên Chúa sẽ
xoay sở như thế nào trước công việc vĩ đại này? Ngài sẽ dùng máy vi tính phân
tích các sử thi, các bi kịch, các tiểu thuyết cuộc đời cho đến vô tận hay sao?
Ngài sẽ tổ chức những vụ kiện ngắn để cân nhắc lợi hại hay chăng? Đó không phải
là điều Chúa Giêsu nói với chúng ta. Chúng ta có nguy cơ bối rối vì sự chọn lọc
ngắn ngủi, sự nhanh chóng của các mục xét xử và sự đơn giản của câu: “Ta đói,
ngươi đã cho Ta ăn, hãy vào hưởng sự vui vẻ”.
Chúng ta hãy đánh
giá đúng hoàn cảnh: đây là lời răn dạy cuối cùng của Chúa Giêsu và nỗ lực tối
hậu của Ngài để đặt chúng ta trước điều cốt yếu. Biết bao lần Ngài nhấn mạnh
đến nguy cơ chúng ta trở thành kẻ ngập ngừng: chúng ta tưởng tượng ra những
điều tốt đẹp chúng ta sẽ làm... thế rồi chúng ta lại không làm.
Ngài biết chúng ta
có khuynh hướng thoát ra khỏi những bó buộc cụ thể của tình yêu bằng những xung
khắc dài và những mơ mộng: “Chỉ cần yêu thương... Sống yêu thương... Làm thế
nào gặp Chúa nơi anh em chúng ta... Làm thế nào thấy Chúa Kitô nơi người nghèo
nhất...”. Tốt, rất tốt. Nhưng sẽ đến một ngày nào đó bị tước mất những lời nói
chúng ta sẽ trần truồng trước những hành vi của chúng ta. Bạn có hành động khi
một người hay tập thể cần đến bạn? Đó là sự chọn lựa những người được chúc phúc
và những kẻ bị nguyền rủa. Đó là sức nặng thực sự của cuộc sống của một con
người và việc phán xét xem người đó có đáng sống đời đời hay không.
- Ngươi, ngươi hăng
hái lao vào giúp đỡ khi có dịp: hãy đi vào Nước Trời... Ngươi, ngươi tránh né
biết bao việc phải làm: hãy đi xa khỏi Ta.
- Nhưng lạy Chúa,
con đã thực sự muốn gặp Ngài, sống với Ngài, sống vì Ngài.
- Ngươi đã làm gì
cho anh em ngươi?
- Con thề với Chúa
nếu con đã biết rằng...
- Ngươi đã làm gì?
Mỗi lần chúng ta
nghĩ về việc gặp Chúa Giêsu, một cú bấm máy sẽ phải làm bừng sáng trước mắt
chúng ta, như một tấm áp phích sáng chói, câu Matthêu 25, 40 mà cuộc sống chúng
ta noi theo: “Mỗi lần ngươi làm điều tốt cho một trong những người bé mọn nhất
trong số các anh em của Ta thì chính là ngươi đã làm cho Ta vậy”.
Điều vĩ đại trong
việc gợi ra ngày Phán xét phải làm cho chúng ta hiểu giá trị của cử chỉ nhỏ
nhặt nhất của tình yêu thương. Cuối cùng, có một điều quan trọng đó là điều
chúng ta thực sự làm để cứu giúp một hoàn cảnh nguy khốn. Danh sách những việc
được Chúa Giêsu lấy lại không ngừng kéo dài ra: “Ta mù chữ và ngươi đã dạy Ta
học... Ta bị tàn tật và ngươi, một kiến trúc sư, đã nghĩ đến việc xây dựng
những căn hộ có thể đến ở được... Ta là một kẻ tị nạn và ngươi đã đón tiếp Ta”.
Duy chỉ trên những
con đường này người ta mới gặp Chúa Kitô Vua. Nước Trời của Ngài là một thế
giới gồm những ngừơi cần được giúp đỡ và những người sẵn lòng giúp đỡ. Mỗi lần
chúng ta giúp đỡ tức là chúng ta chọn Chúa Giêsu làm Vua của chúng ta.
7. Lễ Chúa Kitô Vua
(Trích trong ‘Sống
Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Cùng với Giáo Hội
Mẹ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của năm
Phụng Vụ, với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới.
Lời Chúa hôm nay
muốn nói gì với chúng ta? Bài đọc thứ nhất trích từ sách Ez 34,11-17, trình bày
việc Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Khi đến thời đến buổi Người sẽ qui tụ
chúng ta lại trong miền đất yêu thương của Người; Người sẽ băng bó và an ủi
những thương tật và đau buồn của những ai bị hắt hủi, bị bỏ rơi và bị tổn
thương; đồng thời Người cũng loại trừ những lạm dụng luôn quay lưng lại với
đồng loại của mình. Người là một vị Thiên Chúa hành xử nhân từ và công chính.
Bài đọc hai trích từ
1Cr 15,20-26.28. Thánh nhân nói với chúng ta về niềm hoan lạc cho những người
tin vào tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chết và đã sống
lại, và trong sự chết của Ngài, chúng ta được cứu chuộc; trong sự sống lại của
Ngài, chúng ta được sống lại, sống lại trong ngày hôm nay, trong tình nghĩa con
cái đối với Thiên Chúa là Cha, và sống lại mai ngày trên quê hương Thiên Quốc
khi tất cả được gom lại để qui phục vương quyền của Chúa Giêsu Kitô Vua.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu
tái giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác
độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả những
gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những ai đang
sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho người đói khổ
trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức là chúng ta đến
với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự
tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo
trên Thập giá. Khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh
tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa
Giêsu, rời xa Thiên Chúa.
Thiên Chúa công bình
sẽ dựa vào những hành động và phong cách sống ấy của chúng ta để mà xét xử, vậy
chúng ta phải sống Lời Chúa như thế nào trong tuần sống sắp tới đây, tiên vàn
chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận
lãnh rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua các Thánh Lễ mỗi
ngày và mỗi tuần, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng
ta có lẫn nhau. Thứ đến chúng ta xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì
những vô tâm vô trí và có khi cả những cố ý để mà xúc phạm đến tình yêu của
Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ
mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của
Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.
Một trong những điều
Giáo Hội Mẹ kêu gọi chúng ta sống trong Năm Mới này, đó là biết sám hối những
lỗi lầm của chúng ta. Trong sám hối chúng ta vừa nhận ra mình có tội với Chúa,
với anh chị em xung quanh, đồng thời cũng bị thúc bách phải thay đổi thái độ và
phong cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa.
Chúng ta dựa vào đâu
để biết, để thay đổi? Lời Chúa trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe đã đưa ra những
tiêu chuẩn, là Chúa Giêsu có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi con người mà
chúng ta gặp mỗi ngày, chúng ta hãy đến với Ngài qua những con người đó, những
con người thân thương và cả những con người thật khó mà có cảm tình, những con
người mà chúng ta chung chia đức tin và cả những con người chưa hề có ý niệm gì
về Thiên Chúa, nhất là những con người không muốn nhận Thiên Chúa là Cha của
mình. Chúng ta đến và yêu thương họ, vì họ cũng được Thiên Chúa yêu thương và
muốn dắt về để chung hưởng hạnh phúc trong quê hương Thiên Quốc.
Rồi những ngày này,
biết bao người anh chị em của chúng ta đang phải vật lộn với đói khổ vì thiên
tai, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi v.v..., chúng ta nghe lời các chủ chăn trong
giáo phận và giáo xứ, chúng ta cố gắng đóng góp để giúp đỡ họ. Dĩ nhiên, nhiều
người trong chúng ta không khá giả gì, và cuộc sống mỗi ngày cũng phải chắt
chiu từng đồng để kiếm sống. Vả lại, đất nước (Việt Nam)
của chúng ta là một trong ba nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới (so với Pakistan và Indonesia). Nhưng với những con
người mang tâm trạng yêu thương anh chị em mình đang đau khổ, chúng ta nên bớt
chút những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để chia sẻ, mặc dù không biết có
đến tay người nhận hay không? Nhưng Chúa biết tấm lòng của chúng ta dành cho
nhau, nếu cứ ngại ngùng và suy nghĩ mãi thì không biết đến bao giờ những người
anh chị em mới có được chén cơm manh áo.
Với tất cả những suy
nghĩ dựa trên Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha
trước bàn thờ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và nài xin ơn Chúa Thánh Thần
thúc đẩy, để chúng ta có một tuần sống xứng đáng là con Thiên Chúa, là dấu
chứng tình yêu Chúa giữa anh chị em.
Có thể nói rằng, với
hành vi dâng hiến quảng đại cho ý muốn của Chúa Cha, Đức Mẹ đã mang Đức Giêsu
Kitô đến cho chúng ta. Noi gương Mẹ, chúng ta bước vào Mùa Vọng mới với tâm
tình dâng hiến và đón nhận thánh ý Chúa Cha, thể hiện qua những gì chúng ta
sống hôm nay như Mẹ Maria ngày xưa. Amen.
8. Tha nhân là thân thể Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Cùng
Đọc Tin Mừng’, Lm. Trần Ngà)
Một linh mục nọ ngỏ lời với cộng đoàn phụng
vụ rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị em, tôi nâng Mình Thánh
Chúa lên và nói: Mình Thánh Chúa Kitô! Tất cả anh chị em đều tin thật đó là
Mình Thánh Chúa và từng người đáp lại: Amen, nghĩa là mỗi người tuyên xưng đó
chính là Mình Thánh Chúa thật sự và cung kính rước Người vào lòng. Thế nhưng,
nếu tôi chỉ vào từng người ngồi quanh đây và nói: Đây là thân thể Chúa Giêsu
thì có lẽ anh chị em không tin người đó là thân thể Chúa, không tỏ lòng tôn
kính và không muốn đón rước người đó vào nhà mình, nếu không ưa thích người đó.
Ngay lúc đó, dưới hàng ghế giáo dân có tiếng
xì xào. Hình như nhiều người không đồng quan điểm với Cha sở về nội dung nầy.
Sau thánh lễ hôm ấy, một thanh niên đến gặp
cha sở và thưa:
- Thưa cha, trong bài giảng hôm nay, chúng
con giật mình khi nghe Cha nói từng người chung quanh chúng ta đây, kể cả những
người tàn tật, bần cùng, tội lỗi... đều là thân thể Chúa Giêsu.
- Thế anh không tin mọi người là thân thể
Chúa Giêsu sao?
- Con tin tấm bánh thánh mà linh mục đã
truyền phép và trao cho giáo dân rước lễ thật sự là Thân Thể Chúa; còn người
cha, người mẹ, người anh chị em, người láng giềng... không thể là thân thể Chúa
được. Cha có bằng chứng gì chứng tỏ tha nhân là thân thể Chúa Giêsu không?
- Nói có sách, mách có chứng. Bằng chứng đây
(giơ cuốn Tân Ước ra), anh hãy đọc Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi giáo
đoàn Cô-rin-tô: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân
thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
- Thật thế ư? Thế thì Cha có biết vì sao
thánh Phaolô nói bạo như thế không?
- Thánh Phaolô dạy điều nầy căn cứ vào kinh
nghiệm bản thân. Hồi ấy, Phaolô chưa tin vào Chúa Giêsu, ông nhiệt thành với lề
luật và hăm hở tìm bắt những người theo Chúa Giêsu. Nên nhớ là vào thời điểm đó
Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời rồi.
Trên đường Damas, Phaolô bị quật ngã và có
tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ
Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có
tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9)
Thế là từ hôm ấy, Phaolô không dám bắt bớ các
tín hữu nữa, vì ông biết rằng: họ là những Giêsu khác, bắt bớ họ là bắt bớ Chúa
Giêsu.
Người thanh niên vẫn còn hoài nghi, anh hỏi
tiếp:
- Vậy thưa cha, đó là giáo lý của thánh
Phaolô. Còn về phần Chúa Giêsu, có bao giờ Người dạy như thế không?
- Có chứ! Nào, mời anh lật qua Tin Mừng
Matthêu, chương 25, trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng. Đó là bài chúng
ta vừa nghe đọc hôm nay đây.
Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những
ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho
Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói
là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa
được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà... Nói như
thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ
ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người.
- Thật thế ư? Vậy mà lâu nay con không ý thức
điều đó. Và thưa cha, sách giáo lý công giáo có chỗ nào nói như thế không cha?
- Đây, giáo lý công giáo đây, anh mở ra xem,
bài nói về Bí tích thánh tẩy, số 1267: "Bí tích thánh tẩy làm cho chúng ta
thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô".
- Thế các Đức Giáo Hoàng có dạy như thế
không?
- Đây nữa (chìa sách ra), Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II trong tâm thư gửi các gia đình có viết, anh đọc thử xem:
"Thiên Chúa đã đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình.
Những gì mỗi thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính
Chúa".
- Thưa Cha, khi mới bước vào gặp cha, con
không tin tha nhân là thân thể Chúa Giêsu, nhưng bây giờ thì con đã tin. Nhưng
xin hỏi cha, vậy con có buộc phải tôn kính tha nhân như tôn kính Chúa trong nhà
thờ không?
- Trước hết, anh hãy nghe lời dạy của Mẹ
Têrêxa Calcutta.
Hôm ấy, có một thiếu nữ Ấn-độ đến gặp Mẹ Têrêxa Calcutta để tìm hiểu Hội Dòng
của Mẹ. Trước hết, Mẹ nói với người thiếu nữ ấy: "Con hãy qua nhà hấp hối.
Ở đó, con sẽ gặp nhiều người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật đang nằm chờ chết.
Con hãy săn sóc an ủi họ".
Thiếu nữ vừa quay lưng đi thì Mẹ Têrêxa gọi
giật lại: "Nầy con, khi dâng thánh lễ, con thấy linh mục trân trọng mình
thánh Chúa Giêsu sau khi truyền phép thế nào, thì con cũng hãy trân trọng những
con người bất hạnh ấy như thế".
Nói như thế, Mẹ Têrêxa Calcutta muốn dạy rằng: mỗi một con người dù
bần cùng khốn khổ đến đâu cũng phải được tôn trọng như Mình Thánh Chúa.
- Ngoài Mẹ Têrêxa Calcutta, có vị thánh nào khác tôn trọng con
người như chính thân thể Chúa Giêsu nữa không?
- Có nhiều: thánh Gioan Kim Khẩu, thánh
Elisabet Hung-ga-ri, thánh Phanxicô Atxidi, vv... Có lần Phanxicô gặp một người
phong hủi rất ghê tởm. Ban đầu Anh định xa lánh, nhưng sau đó, Phanxicô cảm
nhận ra người phong hủi đó là một phần thân thể bị thương tích, bị lở loét của
Chúa Giêsu, nên Anh đã đến chào hỏi và ôm hôn người phong hủi đó.
- Thưa cha, con thấy nhiều tín hữu rất mực
tôn kính Chúa Giêsu trên bàn thờ, còn những chi thể sống động của Chúa Giêsu
trong đời thường thì hình như không được ai tôn kính.
- Đúng thế! Vì vậy, thánh Gioan kim khẩu dạy
chúng ta đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu
ngoài nhà thờ. Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ, tức là
những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Để tôi đọc cho anh nghe
lời dạy của người:
"Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư?
Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng có thái độ nầy là
trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm
vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần
trụi. Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn
trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia (tức là tha nhân) thì cần được chăm lo
tận tình."
- Thưa cha, dường như đối với nhiều người,
việc khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến anh chị em chung quanh là chuyện nhỏ,
chẳng có gì đáng quan tâm.
- Đó là một sai lầm tai hại vì đến ngày phán
xét, Chúa Giêsu sẽ nói với những kẻ ấy rằng: "Quân bị nguyền rủa kia! Hãy
đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình đời đời dành cho ma quỷ và các thần
dữ, vì xưa kia, ngươi đã khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến ta!..."
* * *
Nội dung trên đây là
giáo lý cốt tuỷ của đạo thánh Chúa. Nếu chúng ta tuân giữ được giáo huấn cốt
tuỷ nầy thì đã nắm chắc được chiếc vé vào cửa thiên đàng trong tay, vì thánh
Phaolô trong thư Rôma khẳng định rằng: "Ai yêu thương người là đã chu toàn
lề luật" (Rm 13, 10).
Nguyện xin Chúa giúp
chúng ta giữ trọn giáo huấn nầy để làm cho thế giới nầy ấm lên bằng tình yêu
thương nhân ái, đồng thời nhờ đó, tất cả chúng ta mai đây sẽ được Vua Giêsu mời
đón vào hưởng hạnh phúc đời đời với Người trên thiên quốc.
9. Vua vĩnh cửu
Đức Kitô là Con
Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài không
phải chỉ là vua vũ trụ, mà còn là vua của thời gian, vua vĩnh cửu.
Thực vậy, trời và
đất đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được
dựng nên vì Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua
vĩnh cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi vì quyền hành
của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian ngắn
ngủi nào đó mà thôi.
Người ta kể lại hoàng đế Alexandre đã khóc
khi nhìn lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn phiền, chỉ vỉ đã
không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm cứ các lãnh thổ và
mở rộng bờ cõi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như một vị thần. Nhà hiền
triết Kallisthène đã bị chém đầu chỉ vì không chấp nhận điều đó. Nhưng
Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi vì ông đã chết và chỉ sống
được có ba mươi ba năm.
Hoàng đế Napoléon với những chiến thắng làm
rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận bẽ bàng của cái chết.
Tất cả chúng ta đều
là con cái của thời gian. Có sáng chói. Thì cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau
đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị chìm vào đêm tối của quên lãng. Chỉ mình Đức Kitô
mới cai trị đời đời. Chỉ mình Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và Oméga.
Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đã có trước thời gian và sẽ còn tồn tại không bao
giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài trải dài đến
vô cùng.
Chateaubriand, một thi sĩ nổi tiếng người
Pháp, đã kêu lên:
- Ôi lạy Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu
xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có mình Ngài mới trường tồn bất biến. Không một
thế lực nào có thể lật đổ ngai tòa của Ngài.
Vậy chúng ta phải
làm gì để tung hô vương quyền của Chúa?
Chúng ta có thể chúc
tụng Vua chúng ta bằng cách quì gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu?
Tốt lắm, bởi vì đó là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đã viết:
- Con Chiên bị sát
tế xứng đáng lãnh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và chiếng
thắng.
Chúng ta cũng có thể
chúc
tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu
thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm
cho cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội
bị hoen ố. Vì thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hãy thực sự
là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày thường,
trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xã hội.
Chúng ta còn có thể chúc
tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là
bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi
chưa đủ, chúng ta còn phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời
Ngài đã nói:
- Ai xưng tụng Ta
trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
Khi một vị tướng đi
duyệt đoàn quân của mình, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng và
hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi quân
cách…
Trong ngày sau hết,
Vua Kitô cũng sẽ đến. Ngài nhìn xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài:
già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng ta
về lòng trung thành, về tình yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.
Vì thế, hãy tuân
giữ những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu
thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài
đón nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.
10. Phán xét
Vào ngày cuối cùng
Chúa Giêsu sẽ hiện đến, uy quyền như một vị vua để phán xét tất cả chúng ta.
Thế nhưng, đâu là nội dung của cuộc xét xử ấy?
Nội dung của cuộc
xét xử ấy thật là bất ngờ. Ngài không xét hỏi về những việc mà người ta có thể
đang chờ đợi, chẳng hạn như: có đạo hay không? Có siêng năng đọc kinh xem lễ,
có ăn chay hãm mình hay không? Nhưng Ngài chỉ xét hỏi người ta về tình thương.
Không phải tình thương chung chung, hay là tình thương trong ý tưởng, trong mơ
ước, nhưng là một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng những việc làm thiết
thực đối với những con người bằng xương bằng thịt. Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ
được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ.
Nhưng điều bất ngờ
hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố:
- Mỗi lần các ngươi
làm những điều ấy cho một kẻ khốn khổ là các ngươi làm cho Ta.
Những người bị xét
xử đều nhất loạt thắc mắc, người tốt cũng như kẻ xấu:
- Lạy Chúa, có bao
giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách
lạ đâu?
Nhưng mặc cho người
ta thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức
nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng
mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức hết.
Không phải chỉ có
Kitô giáo mới dạy phải yêu người. Những điều đặc sắc trong Kitô giáo là gắn
liền lòng thương người vào lòng mến Chúa, coi đó là nhiệm vụ tiêu biểu của
người có đạo, tức là mặc cho tình thương người một tính cách tôn giáo và có giá
trị cao cả nhất.
Tai hại thay nhiều
người chúng ta lại không sống như thế. Nhiều lúc chúng ta chỉ lo qui hướng về
Chúa mà quên đi người anh em. Chúng ta chỉ lo sống đạo trong nhà thờ mà không
sống đạo giữa lòng cuộc đời. Trong nhà thờ chúng ta sốt sắng đọc kinh, nhưng
ngoài xã hội chúng ta lại chửi bới, bất công và ghen ghét nhau ra trò.
Tại Đại hội Thánh Thể năm 1982 ở Lộ Đức, Đức
cha Camara đã kể lại một câu chuyện như sau:
Có một số nông dân đến gặp tôi. Họ kể lại
rằng một tên ăn trộm đã đột nhập vào nhà thờ, cậy cửa nhà tạm và lấy Mình Thánh
mang đi. Hôm sau, họ đã tìm thấy bánh thánh nằm vương vãi trong bùn nhơ. Nói
tới đây họ đã bật khóc. Rồi họ xin tôi dâng một lễ tạ ơn.
Dĩ nhiên là tôi vui lòng dâng lễ và trong
buổi lễ tôi đã nói với họ đại khái như sau:
- Chúng ta thật mù quáng biết bao. Chúng ta
đã sững sờ khi thấy bánh thánh nằm giữa bùn nhơ, nhưng đó lại là một hiện tượng
xảy ra hằng ngày. Chúng ta gặp thấy Đức Kitô mỗi ngày trong những căn nhà ổ
chuột. Đức Kitô hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện
thực sự trong nỗi cùng khổ của con người.
Rõ ràng việc bác ái
là thành tích duy nhất được kể đến trong ngày phán xét. Việc bác ái là chúng
chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc. Làm việc
tôn giáo mà thiếu tình bác ái thì cũng không được Chúa thừa nhận. Đức Kitô vua
tình yêu. Vương quốc của Ngài là vương quốc tình yêu. Vì thế, chỉ có một cách
để thực sự thuộc về Ngài là yêu thương.
Chúng ta thích mang
nhãn hiệu. Nhưng chỉ có một nhãn hiệu đáng kể, đó là lòng bác ái, đó là tình yêu
thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng bác ái yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.
11. Lễ Chúa Kitô Vua
"Hoàng tử và người hành khất" là
câu chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước Anh. Hai em
bé không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như như anh em sinh
đôi. Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo
khổ.
Một ngày kia, thật là trò vui, hai em quyết
định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo rách tả tơi của
đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở London, sát cánh
với những người hành khất và thấp kém.
Sau một thời gian hai chú bé mệt mỏi vì trò
chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng nói cho người cảnh
sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay khi Tom sắp sửa
được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú là hoàng tử
thật. Do kết quả kinh nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà lãnh đạo công
minh và nhân ái.
Tình cảnh giữa Chúa
Kitô và chúng ta cũng có cái gì giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật
của Thiên Chúa. Ngài đã chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài
mang lấy thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta thành
hoàng tử bằng cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính sự sống
thần linh của Ngài cho chúng ta.
Là Thiên Chúa, Chúa
Giêsu biết những thống khổ của loài người. Nhờ trở thành con người, Ngài thực
sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu. Như hoàng tử trong câu chuyện, Chúa
Giêsu học biết yêu thương những người nghèo khổ, Chúa Giêsu học biết yêu thương
những người thiếu thốn mọi sự.
Bạn đừng ngạc nhiên
vì Chúa Kitô, Vua của chúng ta, đặt để thử thách này cho được vào nhà vĩnh cửu
của Ngài: Bạn có giúp đỡ những người thiếu thốn không? Tin Mừng hôm nay là một
trong những truyện quan trọng nhất của Chúa Kitô - Tin Mừng cho những người
giúp đỡ những ai thiếu thốn, tin buồn cho những ít hay không chú ý đến những
nhu cầu của người khác. Hôm nay bạn hãy xét mình đi. Bạn có bao giờ cung cấp
của ăn cho người túng đói không? Có lẽ bạn chưa bao giờ gặp mầu nhiệm chết đói.
Tuy thế ai cũng biết có hàng triệu người đang phải chịu cảnh đói. Bạn có giúp
đỡ gì qua các cơ quan từ thiện không? Có khi nào bạn thăm viếng tù nhân không?
Không phải chỉ là những người ở sau hàng giậu sắt, nhưng còn là những người ở
sau hàng giậu cô đơn, dốt nát, sầu khổ.
Bạn đã làm gì cho
những người chết đói về tinh thần, bệnh tật về tinh thần, xa lạ về tinh thần,
bị giam hãm về tinh thần? Nếu bạn mới chỉ làm ít hay chưa làm gì, thì bạn hãy
nghe lệnh truyền "Khởi hành".
Tin Mừng còn đi xa
hơn, những gì bạn làm cho người túng thiếu là bạn làm cho chính Chúa Kitô. Hãy
lưu ý: "Ta đói... khát... ốm đau... là khách lạ". Những gì các con
làm hay không làm, là các con đã làm hay không làm cho chính Ta. Chúa Kitô tự
đồng hóa với những người túng thiếu, Vua chúng ta đói, Vua chúng ta khát, Vua
chúng ta là khách lạ, Vua chúng ta trần trụi, Vua chúng ta yếu đau. Vua chúng
ta bị cầm tù.
Phải, chúng ta phụng
sự và tôn thờ Chúa Giêsu Kiô Vua chúng ta trên bàn thờ này, nhưng chúng ta cũng
phải phụng sự và tôn thờ Ngài trong những người túng thiếu của Ngài. Rồi Ngài
sẽ gọi chúng ta vào buổi tận cùng. "Hãy đến".
Xin Chúa chúc lành
cho các bạn.
12. Lễ Chúa Kitô Vua
Chúng ta hãy tưởng
tượng giả sử ngày hôm nay có một người khách lạ nào đó chưa bao giờ nghe đến
Kitô giáo là gì, và người đó đang ở giữa chúng ta, cùng tham dự Thánh lễ Chúa
Nhật hôm nay với chúng ta, khi nghe chúng ta tung hô "Chúa Giêsu là Vua vũ
trụ". Ngỡ ngàng, người đó hỏi chúng ta: "Quí vị có một vị Vua à? Ngài
ở đâu? Làm sao có thể gặp Ngài được?". Lúc đó có lẽ đức tin sẽ soi sáng
giúp chúng ta tìm ra những câu trả lời thật hay, thật ý nghĩa. Nào là Ngài đang
ngự bên hữu Thiên Chúa Cha kể từ khi Ngài từ cõi chết sống lại. Nào là Ngài
đang hiện diện với cộng đoàn các tín hữu. Nào là Ngài là Vua của vũ trụ, vì
Ngài đã tạo dựng vũ trụ này cho con người.
Đó là những câu trả
lời đúng nhưng chưa đủ, vì chưa trả lời câu hỏi: "Làm sao để gặp được
Ngài?. Trong đời sống cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu đang ngự trị ở đâu? Lúc
nào và thế nào? Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào của một con người, bất luận nam
hay nữ, màu da hay sắc tộc hoặc ngôn ngữ nào. Bởi thật, tất cả những ai đang
khao khát muốn tìm gặp được Ngài và muốn yêu mến Ngài, chúng ta phải cố gắng
thực hành đức bác ái huynh đệ đối với những người anh chị em ấy.
Với niềm tin đích
thực của người Kitô hữu, chúng ta tin rằng Chúa Kitô Vua vũ trụ đang hiện diện
và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống, nhưng Ngài đang bị
xã hội ruồng bỏ và quên lãng. Sự hiện diện của Chúa Kitô luôn ở bên những người
nghèo khổ, rách rưới bị mọi người bỏ rơi. Ngài hiện diện nơi những ngươi bệnh
hoạn tật nguyền đang mất hết ý vị của đời sống mà hằng ngày phải chết dần, chết
mòn bởi sự cô đơn buồn tủi. Ngài hiện diện nơi những người bị bạc đãi và bị
hiểu tầm, vì là nạn nhân của tranh giành ganh tị, chỉ vì khác ý thức hệ, đang
lủi thủi chịu số phận hẩm hiu mà không biết than thở cùng ai. Ngài hiện diện
nơi những trẻ em bạc phúc bị ruồng rẫy, lầm lạc, đang tìm kiếm một cách vô vọng
một chút lương tâm, một chút yêu thương của người khác để lớn lên và phát
triển.
Thật vậy, nước Ngài
sẽ bao trùm cả nhân loại, vương quốc của Ngài sẽ rạng rỡ huy hoàng khi người
khó nghèo được chia cơm sẻ áo, khi con tim người bệnh hoạn tật nguyền buồn đau
khổ sầu được an ủi nâng đỡ, khi nhân loại mở rộng vòng tay đón nhận những đứa
trẻ chưa bao giờ được yêu thương. Nước Ngài sẽ đến khi công bình và bác ái ngự
trị, cho nên vương quốc của Ngài là vương quốc của "Tình Yêu". Tình
yêu đó được thể hiện qua từng hành động, từng lời nói của Đức Giêsu Kitô, Vị
Vua Chí Tôn Chí Thánh.
Khi đọc Tin Mừng của
Ngài, chúng ta chỉ thấy sứ điệp của Ngài là sứ điệp "Yêu Thương", một
vị Vua luôn chăm sóc và dạy dỗ thần dân con đường hạnh phúc thật, để cùng nhau
sống yêu thương hạnh phúc ở đời này như là một tiền nghiệm của hạnh phúc trường
sinh đời sau, nơi nước tình yêu không bao giờ tắt.
Là con dân của nước
Thiên Chúa, nước của tình yêu, chúng ta hãy cùng nhau làm tròn bổn phận công
dân của mình là góp phần xây dựng cho tình yêu được ngự trị lên mặt đất này.
Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi không thể nào ngồi yên để hưởng tiện nghi trong đời
sống của tôi, trong lúc bao nhiêu người lầm than cực khổ xung quanh tôi đang
cần đến tình yêu thương chia sẻ. Tôi biết rằng, tôi không thể làm được gì thêm
cho Chúa cả, vì Người là Đấng trọn tốt trọn lành. Nhưng tôi là thần dân trong
nước của Chúa, tôi không mang lại cho anh chị em của tôi một cái gì và đó chính
là điều tôi bị xét đoán. Sự xét đoán ấy là xét đoán về tình yêu đối với đồng
loại.
Vì thế, nếu tôi chỉ
biết thu mình trong cái vỏ ốc ích kỷ, tôi cũng sẽ nghe Chúa tuyên phán với tôi
rằng: "Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống. Ta
rách rưới các người không cho áo mặc. Ta không có nơi cư ngụ, các ngươi không
cho nơi nương tựa. Ta là người nghèo khó vô sản, ngươi đã không thiết tập lại
công bình". Rồi còn bao nhiêu án nữa sẽ tuôn xuống trên con người không
biết thương xót.
Yêu ai thì giống
người ấy. Tôi không thể yêu Thiên Chúa là Vua Tình Yêu, khi tôi không giống
Người là Đấng hay thương xót. Tình yêu của con người đối với Thiên Chúa là
chiêm niệm và cầu nguyện, nhưng đối với tha nhân là linh hoạt và hay phân phát.
Cho nên khi đã nhận Đức Giêsu Kitô là Vua chúng ta phải cố gắng sống xứng đáng
là công dân của nước Người, nước của tình yêu.
13. Chúa Giêsu là vua
Vào năm 1925, Đức
Thánh Cha Piô XI đã thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định vai trò
và chỗ đứng đặc biệt của Chúa Giêsu trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng
như trong sinh hoạt của cộng đồng Giáo hội. Trong một vài phút ngắn ngủi này,
chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tước hiệu cao cả này.
Trước hết là trong Cựu Ước.
Với những thánh
vịnh, vua Đavít đã cho chúng ta thấy Đức Kitô chính là vua, một vị vua hòa bình
sẽ đến để cai trị trong yêu thương:
- Ta sẽ đặt một vị
vua ở Sion, trên núi thánh của Ta.
Trong khi đó, tiên
tri Isaia lại giới thiệu với chúng ta một vị vua đầy quyền năng:
- Thiên Chúa sẽ ban
cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp
và triều đại Ngài sẽ không bao giờ cùng.
Tiếp đến là trong Tân Ước.
Qua Tin Mừng, chúng
ta thấy được nơi Đức Kitô hình ảnh ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài là một vị vua
vinh hiển, điều khiển cả vũ trụ. Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ đến trên mây trời
để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Chính Đức Kitô,
trong những giây phút cuối cùng, đối diện với cái chết, Ngài vẫn xác quyết
trước mặt Philạô:
- Phải, tôi là vua.
Chính vì thế, bản án
của Ngài đã được ghi:
- Giêsu Nagiarét,
vua dân Do Thái.
Thế nhưng, tước hiệu
Kitô vua nổi bật hơn cả trong bầu khí phụng vụ. Đúng thế, chúng ta có thể nói:
Tất cả niên lịch phụng vụ đều xoay quanh chủ đề này.
Thực vậy, trong Mùa
Vọng, chúng ta mong đợi một vị vua sẽ đến. Với lễ Giáng sinh, chúng ta không
chỉ mừng kính một hài nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, mà còn mừng kính một vị vua
hòa bình. Nhất là với lễ Hiển linh, chúng ta nhìn thấy vị vua ấy xuất hiện và
tỏ lộ vinh quang cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương Đông. Và
chúng ta có thể tóm kết tinh thần của mùa giáng sinh, đó là Đức Kitô đến để
thiết lập một vương quốc của ánh sáng và tình thương.
Bước vào mùa phục
sinh, Giáo hội không phải chỉ dừng lại ở những đau khổ của Đức Kitô, nhưng qua
những đau khổ ấy, Giáo hội còn nhìn thấy cả chiến thắng vinh quang của Ngài.
Trong ngày lễ lá, chúng ta tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem,
một cách long trọng như một vị vua và chúng ta không ngừng tung hô:
- Chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.
Tiếp đến, ngày thứ
sáu tuần thánh, ngày u buồn nhất của năm phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội đã
nhìn thập giá như ngai tòa, như lá cờ của một vị vua đang tiến lên, như bước
khởi đầu cho vương quốc của Chúa, như lời Ngài đã phán:
- Ngày nào Ta bị
treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Rồi trong ngày lễ
Phục sinh và lên trời, chúng ta mừng kính cuộc khải hoàn của Đức Kitô, để rồi
từ đó Ngài vĩnh viễn thiết lập vương quốc và trở thành vua của cả vũ trụ.
Tóm lại, niên lịch
phụng vụ luôn nhìn ngắm Đức Kitô như một vị vua. Đó cũng là điều mà toàn thể
thế giới Công giáo ngày hôm nay tuyên xưng.
Thế nhưng tuyên xưng
mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống điều chúng ta đã tuyên xưng, nghĩa là,
chúng ta phải trung thành với Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, bằng sống một đời
sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó góp phần làm cho
vương quốc của Đức Kitô được mở rộng trên trần gian này.
14. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Người đời chúng
ta dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt người tốt kẻ xấu? Khi Thiên Chúa phán
xét nhân loại, Ngài có phân biệt theo kiểu của chúng ta không? Ngài có mạc khải
về những tiêu chuẩn phân biệt của Ngài không?
2. Thiên Chúa phân
biệt kẻ xấu với người tốt dựa trên tiêu chuẩn nào? Tại sao vậy? Phân biệt theo
tiêu chuẩn ấy có hợp lý không?
3. Qua bài Tin Mừng
này, bạn có rút ra được bài học gì mới cho việc nên thánh của bạn không? Quan
niệm về nên thánh của bạn có gì thay đổi không?
Suy tư gợi ý:
1. Viễn cảnh cánh chung: phân
biệt chiên và dê
Bài Tin Mừng cho
thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận
cùng của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân mọi
người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài,
bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói,
nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. Để ám chỉ hai hạng người này, bài Tin
Mừng dùng hình ảnh chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng (x.
Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một
đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta
mới phân rẽ chúng theo loại. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho
thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau - không phân biệt được - trên cùng
một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc
đó chúng mới bị phân rẽ: “cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu
vào kho lẫm” (13,30). Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin,
kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt. Chúng ta hãy
thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào?
2. Tiêu chuẩn để phân loại
Chỉ có Thiên Chúa,
với trí tuệ sáng suốt vô cùng, nhìn thấu suốt tâm can con người, mới có thể xét
từng người để xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy:
- ngày ấy, toàn nhân
loại chỉ được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền
và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ ba.
- ngày ấy, Thiên
Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có
làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên
xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.
- ngày ấy, Thiên
Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: cách mỗi người
đối xử với tha nhân chung quanh mình.
Dường như không có
một tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là
giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai
có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh
nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều, v.
v... Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha
nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta - chứ không phải lời nói hay cái gì
khác - quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.
3. Đó là tiêu chuẩn thực tế để
phán xét ai tin và ai không tin
a) Tin vào Đức Giêsu
là điều kiện để được cứu độ
Trên nguyên tắc, ai
tin vào Đức Giêsu thì sẽ được cứu độ (x. Cv 16,31; Rm 10,9; 10,13), và người ta
được nên công chính là nhờ đức tin (x. Rm 1,17; 3,22.26.30; 9,30; 10,4) chứ
không phải nhờ việc làm (x. Rm 3,28; 9,32; Gl 2,16; 3,11; ). Thật vậy, người ta
không trở nên công chính nhờ vào việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm chỉnh
các điều luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành động rất tốt, rất
thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại, nhưng không phát xuất từ đức tin hay tình yêu
thương, mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho mình. Nhiều nhà tỉ phú bỏ
tiền ra xây bệnh viện, trường học để phục vụ người nghèo với điều kiện là bệnh
viện hay trường học đó phải mang tên mình, để mình được lưu danh muôn thuở là
người đạo đức, biết yêu thương người nghèo. Hành động bố thí như thế không làm
cho người ấy nên công chính, vì không phát xuất từ đức tin hay tình thương.
b) Đức tin ấy phải
đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm
Người ta chỉ trở nên
công chính nhờ đức tin. Nhưng đức tin làm cho người ta nên công chính phải là
đức tin đích thực: “Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính”
(Rm 10,10). Đức tin đích thực không phải là loại “đức tin rẻ tiền”, là thứ đức
tin chỉ được tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc sống, không được
chứng tỏ bằng việc làm hay hành động. Hàng rẻ tiền thường là hàng giả. Đức tin
đích thực phải là thứ “đức tin đắt giá”, không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng,
mà được chứng tỏ bằng hành động, bằng những hy sinh cụ thể theo sự đòi hỏi của
đức tin. Đức tin của chúng ta luôn luôn đòi hỏi một thái độ, một sự lựa chọn
thích hợp. Vì không thể vừa tin, mà lại vừa có đời sống trụy lạc, hèn nhát,
tham lam, ích kỷ... Thánh Gia-cô-bê xác định: “Đức tin không việc làm là đức
tin chết” (Gc 2,14.17).
c) Việc làm của đức
tin là việc làm gì?
Tin ở đây là tin vào
Thiên Chúa, vào Đức Giêsu. Mà bản chất của Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Đức
Giêsu chính là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do đó, những
ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, ắt phải yêu mến Ngài và trở nên
giống Ngài, nghĩa là trở nên một hiện thân của tình yêu giữa những người chung
quanh, gần gũi với mình nhất, đặc biệt với những người đau khổ, túng thiếu, bị
áp bức, bất công, cần lòng thương xót. Như vậy, muốn biết ai tin vào Ngài, thì
cứ xem cách người ấy cư xử với những người chung quanh, những người gần gũi
nhất (vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân thiết...), và những
người nghèo khổ cần được cứu giúp. Nếu tin Thiên Chúa đích thực, người ấy ắt sẽ
phải cư xử với họ bằng tình thương, cụ thể qua sự hy sinh, chấp nhận mất mát
đau khổ vì họ.
Vả lại, những người
chung quanh ta, đặc biệt những người đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu
giúp, chính là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giêsu bên cạnh chúng ta.
Đức Giêsu xác định rõ điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Vì thế, yêu Ngài thì
ắt nhiên cũng phải yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới ngày
phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để xét xem chúng ta có tin vào Ngài
không, là dựa vào cách cư xử của chúng ta với tha nhân.
Để tóm gọn lại cách
nên thánh cho chúng ta, Đức Giêsu nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là
anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em
có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Tóm lại, yêu thương tha nhân chính là
tiêu chuẩn để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giêsu với những người
khác.
Cầu nguyện
Tôi nghe Đức Giêsu
nói với tôi: “Anh tin Thầy và sống đạo của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào
cách anh đối xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay. Chắc chắn
anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối xử với những người chung quanh anh
không ra gì. Họ chính là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với họ thế
nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh yêu họ chính là anh yêu Thầy. Anh làm
điều gì cho họ, chính là anh làm điều đó cho Thầy”.
15. Chú giải của Fiches Dominicales
Vài điểm chú giải:
1. Một bức hoạ cho người ta xem thấy chung
cuộc...
"Khi nào thì điều đó sẽ
xảy đến?”. Các môn đệ đã
lo lắng hỏi Đức Giêsu như vậy, khi Người loan báo cho các ông về việc Đền Thờ
Jérusalem bị tàn phá. Chúa không trả lời như các ông trông đợi, trái lại trong
bài giảng nói về ngày tận thế, và xuyên qua năm dụ ngôn, Chúa đã dạy các môn đệ
phải chuẩn bị mình thế nào cho Biến Cố đó, nghĩa là phải chủ động tỉnh thức,
phải làm cho những nén bạc đã trao, sinh lời.
Phần kết thúc bài
giảng cuối cùng này của Đức Giêsu, kết tinh tất cả mọi lời nói và việc làm của
Người, thâu tóm tất cả Phúc của Chúa, một cảnh tượng vĩ đại mang tính khải
huyền, riêng của Phúc Âm thánh Matthêu làm nên dư âm của phần kết thúc bài
giảng đầu tiên, Bài giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy
Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 25,31-33), đối thoại
với những “kẻ được chúc phúc” (câu 34-40), đối thoại với những quân “bị nguyền
rủa” (câu 41-45), thi hành bản án (c.46).
- Phần nhập đề gợi
ra quang cảnh một cuộc tập hợp vĩ đại của toàn thể nhân loại quanh Đấng sẽ “ngự
lên ngai vinh hiển của Người":
+ Đấng ấy được trình
bày ở đây như “Con Người”, nhân vật huyền bí của các sách Khải Huyền Do Thái ấy
(như trong Daniel 7) ngự đến thi hành việc phán xét “các dân thiên hạ”, một đặc
quyền thuộc về Thiên Chúa. + Nhưng cũng như “Mục tử” đã được Ezéchiel loan báo
(bài đọc một Người đến thi hành việc phân lựa: “Người sẽ tách biệt họ như mục
tử tách biệt chiên với dê: chiên thì đặt bên phải, dê thì đặt bên trái”).
“Ở nước Palestine
người ta chăn chiên chung với dê; nhưng đến chiều, người chăn tách chiên ra để
ở một nơi kín đáo hơn”, Cl. Tassin giải thích, nhưng vội thêm một cách hóm
hỉnh: “Bên phải” và “bên trái” trong thời Cổ đại, không có mang chút âm hưởng
chính trị nào đâu; Nhưng theo óc hơi mê tín, người ta cho là những từ đó chỉ số
phận tốt, xấu của con người” ("Phúc Âm thánh Matthêu”, NXB Centurion,
trang 264).
+ Đức Giêsu còn được
trình bày như “Đức Vua” xét xử công minh, đang nói về “Cha mình” và mọi người
bị phán xét thì thưa với Người là “Lạy Chúa”, tước hiệu mà phụng vụ và giảng thuyết
buổi sơ khai vốn gán cho Đức Kitô vinh hiển khi Người phải trở lại trong ngày
tận thế.
2....Và hé cho thấy tính cách
nghiêm trọng của sự việc đang diễn ra trong lúc này:
- Cuộc đối thoại với
những kẻ “được chúc phúc” cho ta được nghe án quyết phù hợp với những lý lẽ đã
nêu ra, đồng thời cho thấy phản ứng của những người trong cuộc.
+ Tiên vàn là án
quyết: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn
cho các ngươi, từ thuở tạo thành trời đất”, và lý lẽ đưa ra dưới hình thức một
bảng liệt kê dài những hành động bác ái mà coi như họ đã thực hành đối với Đức
Vua: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn vv...”.
Cl. Tassin nhận xét:
“Lòng đạo đức của người Do Thái cũng có những bảng liệt kê tương tự tương đối
dài (cf. Tobia 1,16-20), tuy nhiên lại không đề cập tới việc thăm viếng tù
nhân: hành vi bác ái này chắc hẳn đã được áp đặt khi cuộc bách hại đã tống giam
nhiều người thân của họ. Ta nên ghi nhận rằng những người Do Thái đạo đức vốn
coi những hành vi bác ái này như một việc noi gương bắt chước thật đáng khen:
ta phải cho kẻ đói ăn, bởi vì Chúa đồng hoá mình với người đói, Chúa đứng về
phía người bất hạnh; không liên đới với con người bất hạnh là đi ngược với
quyền lợi của Chúa. Ý tưởng này bén rễ sâu xa trong Kinh Thánh (cf. Is 58,6-7)
và đã đưa đến lời chú giải cao đẹp này: “Nếu ngươi đã nuôi nấng những người
nghèo khổ, thì Ta sẽ kể như ngươi đã làm việc ấy cho chính Ta vậy” (O.C. trang
265).
+ Những người công
chính ngạc nhiên: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa...?”. Thế rồi họ
ngỡ ngàng khám phá ra điều gì là chủ chốt trong sinh hoạt đời thường của những
con người nam cũng như nữ: Đức Vua vốn đồng hoá mình với hết mọi người trong
cảnh khốn cùng, họ đã phục vụ chính Người trong những con người khốn khổ ấy:
“Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta
đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
- Cuộc đối thoại với
những quân bị nguyền rủa diễn lại cùng một khuôn khổ: án quyết với những lý lẽ
nêu ra, phản ứng ngạc nhiên của những người liên hệ: “Lạy Chúa, có bao giờ
chúng con đã thấy Chúa đói, khát...?”. Rồi họ cũng sẽ hay biết - nhưng muộn quá
rồi! - rằng khi bỏ mặc anh em họ trong cảnh khốn cùng, là họ đã bỏ mặc chính
Đức Vua vậy: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé
nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”.
- Thi hành án diễn
ra tức thì, đã được tường thuật một cách giản dị: “Thế là bọn này sẽ phải ra đi
mà vào chốn cực hình muôn kiếp, còn những người công chính sẽ được lên hưởng
phúc trường sinh”.
J.Potin kết luận:
“Tính cách mới mẻ của giáo huấn của Đức Giêsu thật rõ như ban ngày. Giáo huấn
ấy được nhấn mạnh ở vẻ ngỡ ngàng của những kẻ khám phá ra được từ đàng sau
những dáng vẻ bề ngoài, sự thật về con người mà vì đó họ được hạnh phúc hay bất
hạnh; ấy là: con người có tước vị làm anh em với Đức Giêsu, không phải tước vị
làm anh em với Con Người trong vinh quang, mà đúng hơn là với Đấng sẽ đích thực
trở nên anh em của người nghèo bằng đau khổ và nhục nhã trên thập giá. Từ nay
con người không thể dựa vào những thực hành điều Luật dạy và tôn giáo để làm
bình phong che chắn mình. Chỉ điều răn mới về tình yêu thương con người mới
đáng kể thôi.
Như thế Đức Giêsu
làm nổi bật điều mà người cho là bản chất của Lề Luật và sách Các Ngôn sứ ấy là
lòng yêu thương. Kẻ nghèo được coi như đủ tư cách để được Thiên Chúa và Con của
Người quý mến. Từ nay mọi điều răn khác đều phải được đánh ghía theo thước đo
này. Đạo Do Thái nhờ được Đức Giêsu mang đến cho ánh sáng này mà được canh tân.
Nhưng Đức Giêsu lấy uy quyền và tương lai của Người để bảo đảm cho giáo huấn
này: Thiên Chúa muốn hướng dẫn toàn thể nhân loại trên con đường này, chứ không
phải chỉ một mình dân Do Thái mà thôi. Con người muốn tập hợp người người mọi
thời, mọi nơi để quy về giới răn duy nhất này. Hết thảy đều sẽ bị xét xử theo
tình yêu của họ đối với người nghèo” ("Jésus, l'historie vraie”, NXB
Centurion, trang 403-404).
Mối tình liên đới
với hết mọi người khốn khổ này mà Chúa vừa minh hoạ để kết thúc bài giảng cuối
cùng của Người, có một phạm vi vô hạn và bắt nguồn từ Thiên Chúa, thì giờ đây
chính Người sống tình liên đới ấy đến mức độ tận cùng. Chương 26 là chương tiếp
theo bài giảng cuối cùng ấy đưa ta trình thuật về cuộc Khổ nạn.
Bài đọc thêm:
1. “Một cảnh nhấn mạnh phạm vi
giá trị cách ta cư xử ở đời này” (Giám mục L.Daloz, trong “Le Règne des cieux s'est approché”, Desclée
du Brouwer, trang 343-344).
Đức Giêsu không mô
tả cảnh này để ta lo sợ hướng nhìn về ngày chung thẩm mà buông lơi những phận
vụ hiện tại của ta; trái lại điểm có ý nhấn mạnh ở đây chính là cách ta cư xử ở
đời này có một tầm kích vĩnh cửu. Tính vĩnh cửu làm cho thời gian có giá trị,
định hướng hoạt động của ta và cho hoạt động ấy có ý nghĩa. Ai tin vào trời thì
càng phải định tâm làm cho trần gian này trở thành nơi chan hoà tình huynh đệ,
một miền đất của Tương Lai! Không phải đến ngày tận thế người ấy mới gặp gỡ Con
Người.
Đến ngày tận thế,
người ấy sẽ được thấy Người tỏ tường, vì Con Người sẽ tỏ mình ra rõ ràng. Nhưng
chính Người lúc này vẫn đang cận kề ta trong những người anh em bé mọn nhất.
Điều có lẽ làm ta ngạc nhiên nhất, chính là mọi người cùng có chung một sự vô
tri, những người đã thực hành lòng thương xót cũng như những người đã trốn
tránh - Ai nấy sẽ bỡ ngỡ: Những người trước thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ
chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn?”. Những kẻ đã không tiếp rước Người cũng
nói như vậy: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là
khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù mà không phục vụ Chúa đâu?”.
Mọi manh tâm phục con người vì Chúa, chứ không vì chính họ đều bị Chúa phơi
bày.
Thực vậy người và
Chúa không tách biệt nhau: “Quả thực, Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi
làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã
làm cho chính Ta vậy”. Điều đó mời gọi ta nhận biết rõ tình huynh đệ liên kết
những kẻ bé nhỏ này với Đức Giêsu, và mời gọi ta phục vụ họ tốt hơn. Điều đó
cũng có nghĩa là ta sẽ gặp những bất ngờ, hay đúng hơn mối quan hệ của ta với
Đức Giêsu thường diễn ra ở nơi ta vốn không trông đợi Người.
Tiên vàn ta đừng tìm
cách nhận ra Đức Giêsu trong dung mạo của người ta, trước khi ta phục vụ họ: ta
thường sẽ phải thất vọng thôi. Chỉ cần phục vụ họ một cách đơn sơ, yêu mến họ
một cách cụ thể, bằng hành động và cho không. Rồi đây chính Người sẽ nói cho ta
biết rằng Người đã ở gần ta ngay lúc ta không nghĩ đến Người: “Có bao giờ chúng
con đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc?”. Chúng
con đâu có biết... Vậy thì ta đừng tìm kiếm để biết bây giờ, hãy hành động, hãy
yêu mến bằng sự thật! Ở đâu người ta sống tình yêu chân thật với nhau, thì
Thiên Chúa làm người sẽ nhìn nhận họ là người của mình: “Các ngươi đã làm cho
chính Ta vậy...”.
2. “Một bức tranh chiếu vào
hiện tại, ánh sáng thực của đức tin và sự minh mẫn” (H.Vulliez, trong “Thiên Chúa thật gần”,
Desclée de Brouwer, trang 175).
Đức Giêsu đã đặt bức
tranh này dưới mắt các môn đệ để chiếu vào hiện tại ánh sáng thực của đức tin
và sự minh mẫn. Sự chia sẻ không phải chỉ được quyết định thực hiện vào thời
buổi cuối cùng, nhưng là bây giờ, ở đây và lúc này (hic et nunc). Đây không
phải là một quyết định có tính cách hình thức, nhưng là một quyết định đưa đến
sự thay đổi đời sống trong xã hội.
Vào thời Matthêu
viết Tin Mừng của ngài, các Kitô hữu nồng nhiệt chờ đợi ngày Chúa trở lại đến
nỗi họ quên cả đời sống hiện tại. Nhắc nhớ họ về đời sống hiện thực là điều
quan trọng. Hơn nữa, không phải sự thực hành các mối phúc là điều quyết định
phần rỗi đời đời trước cả tế lễ và cầu nguyện đó sao? Ngay cả những người ngoại
giáo cũng được cứu độ nhờ thực hiện các mối phúc này. “Anh em đợi chờ Chúa, vua
vinh quang, nhưng Ngài đang ở đây! Không phải nơi người nghèo như người ta nói.
Nhưng trong sự chia sẻ với họ”.
Thiên Chúa hiện diện
qua sự chia sẻ cơm bánh. Đó là vinh quang của vương triều Thiên Chúa. Đức Giêsu
không chói ngời vinh quang trong cung điện hay trên ngai vàng, nhưng ở tất cả
những nơi có tình liên đới nhân loại. Thiên Chúa tình yêu có thể có mặt ở
khoảng trống vắng chia cách con người và các dân tộc chăng? Ngài hiện diện ở
trong sự hiện diện của người này cho người kia. Đó là “sự hiện diện trong chia
sẻ”.
16. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
PHÁN XÉT CÙNG TẬN
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Như người chăn chiên tách
chiên ra khỏi dê”. Nói
cho đúng, đây là chiên và "dê con"; ở Palestine, việc chăn chung
chiên với dê con là chuyện thường. Nhưng chiều đến, người ta phải lựa chúng ra,
vì dê con cần được sưởi ấm suốt đêm. Vì chiên có giá trị hơn dê nên ta hiểu tại
sao, trong dụ ngôn, chúng được đứng bên hữu Đấng Thẩm phán cánh chung (bên hữu
là chỗ danh dự).
"Vua": các chữ này (đây quy chiếu về Chúa Giêsu (x
2, 2; 21. 3; 27, 11; 27, 29. 37. 42).
"Hãy lĩnh lấy làm cơ
nghiệp Nước đã dọn cho các ngươi": x.hai mối phúc thật đầu tiên: Vì Nước Trời là của họ" (5, 3) và
họ sẽ được đất làm cơ nghiệp" (5, 4).
"Vì xưa Ta đói...Ta
khát... ": Phù hợp
với óc tả thực không thay đổi của Mt, các nỗi thống khổ nhân thế được gợi lên ở
đây: mình trần thân trụi, lưu đày biệt xứ (nghĩa là không có quyền lợi và sự
chở che), bắt bớ giam cầm, đói khát yếu đau, xảy ra rất thường; ta đang ở trong
cùng một bầu khí như trong Tám mối phúc thật và Diễn từ trên núi. Các kẻ khốn
khổ này là những người, khách quan mà nói, cần được cứu giúp, dù theo chủ quan
họ thế nào chăng nữa. Bản răn không bảo những người khách lạ, đói khát, tù đày
đó là Kitô hữu hay là thừa sai. Con Người liên đới với mọi nỗi khổ của nhân
loại trong tất cả chiều rộng và chiều sâu của nó.
"Lạy Chúa, có bao giờ
chúng tôi thấy Ngài đói...": Bản văn không cố ý bảo các người công chính ấy (những kẻ trung thành
và tỉnh thức của các dụ ngôn trước) quên điều họ đã làm, nhưng là: họ không
biết rằng mình đã làm cho chính Con Người trong bản thân của những kẻ khốn khổ.
Ý nghĩa trọn vẹn của các hành vi họ khi được mặc khải cho họ vào giờ chót; điều
này phù hợp với toàn bộ luân lý của Mt (x."Cha ngươi, Đấng thấu suốt nơi
kín ẩn, sẽ hoàn trả lại cho ngươi"-6,4). Hãy ghi nhận là động từ làm
thường xuất hiện trong các câu đây (4 lần trong cc. 40- 45); thế mà trong tiếng
Aram, Chúa Giêsu chỉ có thể dùng động từ "abad" vừa có nghĩa làm vừa
có nghĩa phục vụ.
"Hãy xéo đi... mà vào lửa
đời đời": Như trong
suốt các chương 24-25, việc kết án các bất công, nghĩa là kết án những kẻ đã
chẳng thi thố lòng nhân lừ, thật vô cùng khủng khiếp. Trong lúc trong sách Khải
huyền Do thái, chính lương dân hoặc địch thù của Israel, hoặc các người Do thái
bất trung (xét theo quan điểm của nhóm Essêni hay Biệt phái) sẽ bị vị thẩm phán
của những ngày cuối cùng đè bẹp, thì ở đây là những kẻ đã chẳng cứu giúp anh em
của Con Người. Không một bản văn Tân ước nào diễn tả rõ ràng như ở đây ý tưởng
"tránh phục vụ” (“các ngươi đã không làm") cũng lỗi nặng nề như phạm
tội ác; sau này, học thuyết của thánh Gioan sẽ dạy rằng không yêu thương tức là
giận ghét vậy (1 Ga).
KẾT LUẬN
Người công chính rốt
cục là những kẻ đã chu toàn Luật Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã diễn tả
trong giới răn trọng nhất. Một lần nữa Người đồng hóa tình yêu tha nhân với
tình yêu Thiên hùa. Cái mặc tính cách "thiện hảo" cho các công việc
con người làm đối với anh em mình chính là chúng đã được làm cho Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thế là chúng ta
đã đến Chúa nhật cuối cùng của Năm phụng vụ. Giáo Hội, kẻ đã đưa ta vào trong
mọi mầu nhiệm của Chúa. Hôm nay muốn thu tóm tát cả sứ điệp đã được nghe trong
suốt năm rồi bằng cách lập ra cho ta lễ Chúa Kitô-Vua vũ trụ.
Ta nói vậy là vì dựa
vào các bài đọc hôm nay trong đó Chúa Giêsu lần lượt được giới thiệu như là
Vua-mục tử săn sóc chiên mình, Vua-chiến thắng đánh bại các quyền lực chống đối
và làm ta thông hiệp vào cuộc Người thắng trận, Vua-Thẩm phán phân biệt những
kẻ đã biết chấp nhận quyền bá chủ của Người, Vua-tôi tớ giáo quyền thống trị
lại cho Chúa Cha. Thật khó mà tóm kết trong vài câu một hình ảnh vừa đa dạng
vừa đầy đủ về Chúa như thế.
"Các dân thiên
hạ được thâu họp lại trước mặt Người thảy": Đây là một cuộc phán xét phổ
quát. Tất cả mọi người đều có liên hệ. Dầu họ thuộc tôn giáo, chủng tộc hay nền
văn hóa nào, Chúa Kitô-vua cũng triệu tập tất cả họ lại trong cuộc gặp gỡ tối
hậu ấy. Điều lạ lùng là hết thảy những kẻ Chúa Kitô-vua sắp xét xử, đều không
biết rằng họ đã phục vụ Người hay bỏ rơi Người. Còn đối với các tín hữu, Tin
Mừng đưa ra nhiều tiêu chuẩn xét xử bổ sung khác, mặc khải các yêu sách chính
xác khác; điều này thật dễ hiểu vì họ đã biết Chúa Kitô, Đấng đã nhờ Thánh Thần
mà tự mặc khải cho họ. Họ đã phải can đảm tuyên xưng Người (10, 32), đã phải
thi hành thánh ý Cha thiên quốc (7,1), đã phải tỏ ra lòng nhân ái (5,7), đã
phải luôn sẵn sàng thứ tha (6,14)... Ta biết các tín hữu bị xét xử như thế đã
nhận nhiều ánh sáng hơn các kẻ khác, vì họ đã được tiền định biết Chúa Kitô từ
lúc còn ở dương trần. Thành thử thật dễ hiểu khi người ta đòi hỏi ở họ nhiều
hơn. Nhưng cái “nhiều hơn" này vẫn luôn đứng trong đường hướng tình yêu
như đối với các lương dân đã không được nhiều ánh sáng ngần ấy. Chỉ khác điểm
này là các Kitô hữu, vì đã biết rõ các yêu sách tình yêu hơn, vì đã biết rằng
Chúa Giêsu tự đồng hóa với tất cả các kẻ "bé mọn" của thế gian, nên
sẽ khó lòng chữa mình hơn lương dân được.
2. Trang Tin Mừng
hôm nay chỉ nói đến các việc phục vụ thuộc bình diện vật chất phải thi hành đối
với các kẻ "bé mọn” của thế gian nầy. Nhưng đó chỉ là những ví dụ, bảng kê
khai các việc lành phúc đức không chỉ từng ấy. Chúa Giêsu chỉ gợi lên những
việc rõ ràng nhất. Nhưng Người cũng đã rất có thể đề cập đến việc giáo dục
những kẻ dốt nát, phấn khích người suy nhược, bầu bạn với những ai đơn côi, cảm
thông vơi các gia đình tang thế, tươi cười với người quạu cọ… Khi vừa đáp ứng
nhu cầu của tha nhân, là ta làm được một điều gì đó cho các anh em của con
người là ta làm cho chính bản thân Chúa Giêsu. Chính các dấu tích tình yêu đó
một ngày kia sẽ lầm ta xứng đáng nghe bảo: hãy đến, hỡi những người được Cha Ta
chúc phúc...".