Để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta...
Các bài suy niệmLỄ GIÁNG SINH
Lời Chúa:
Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
MỤC LỤC
SUY NIỆM
1. Con người
(Lc 2,1-20)
Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều
nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày
người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần
thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà
con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một
cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu nhiệm Giáng sinh, thì yếu tố con
người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải
quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong
kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu
rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành
nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào
những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở
nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người,
để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn
đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm
giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm
giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta
tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người
mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng
ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất
đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những
người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói
một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để
cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những
kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng
đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì
bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa,
dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.
2. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta - Lc 2,1-14
(Suy
niệm của Camille Gagnon)
Đây là thời gian hoan lạc
Từ vài tuần lễ nếu không phải là vài tháng chúng ta
đã dự tính và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi đến nhà ai, ai sẽ đến nhà
chúng ta. Điều này đối với nhiều người là một mối bận tâm lớn, để sắp xếp mọi
cuộc gặp gỡ và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh hưởng đến những lo toan
của chúng ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không lên đường được vì sẽ quá
nguy hiểm cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ đầy người, niềm vui sẽ
lớn lên: “Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!” – “Ôi, cuối cùng bạn đã đến rồi!” –
“Thật mừng là bạn có thể đến được!”.
Ở đây, trong nhà thờ chúng ta có thể lập lại một lời
gì giống như vậy trong suốt mùa Vọng: “Vì Ngài ở với chúng ta! Vì Chúa Giêsu ở
với chúng ta”. Lời này đã trở thành khẩu hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh.
Nhưng tối nay, những lời ngắn gọn này thốt ra như một tiếng kêu của con tim:
“Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa ở với chúng con, chúng con cũng ở với Chúa. Nơi nhà
Chúa, tối nay người ta đi viếng thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con và chúng
con đi đến nhà Chúa! Con ở đây, vì Chúa cũng ở đây nữa!”.
Tiếp khách
Thường lệ khi khách đến, người ta tiếp đón, hỏi han
một chút. Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và khi có một em bé cùng đi
người ta quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao chúng ta hết thảy không
đón tiếp Chúa Giêsu như vậy?
Quả thật, chính với tư cách một hài nhi mà Ngài đến
viếng thăm: “Đức Maria hạ sinh một con trai đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong
máng cỏ”. Nhưng hài nhi này đến viếng thăm chúng ta với những nét đặc biệt, mang
một niềm hy vọng rất đặc biệt, như bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ là “cố vấn
tuyệt vời”, Ngài sẽ là “quyền năng của Thiên Chúa”, “Nguồn sự sống đời đời”.
Ngài sẽ là “một mầm mống bình an”. Một hài nhi như vậy thật là quí báu. Trong
một gia đình, đây là một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.
Không có Ngài, chẳng có gì
như vậy được
Chăm sóc một em bé vài tiếng đồng hồ, thời gian một
cuộc viếng thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều lắm. Nhưng khi người ta đến ở
lâu, ở mãi, làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự việc trở nên nghiêm túc hơn.
Mỗi lần một người nào khác đến ở bên cạnh chúng ta, điều này sẽ mang lại bao
nhiêu sự thay đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói quen.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự
mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự
chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát
triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón “bé Giêsu” có ích gì nếu ta
không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng
ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: “Thầy
chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta”. Vì ta phải ý thức: chấp
nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo
đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay
người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện
chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa. Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng
mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến
một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên
đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: “Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã
nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm
điều đó?”. Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên,
Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và
rất thường là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Đây là thời hoan lạc
Nhưng đêm nay, chỉ với một con tim tươi trẻ mà chúng
ta mới có thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng thăm trong cuộc đời chúng
ta và để cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể nói: Không có Ngài cuộc
đời của chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu niềm vui đã nhận được và
cho đi, bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng con người vì Hài Nhi này.
Hài Nhi mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm mình.
Chính nhờ thế mà chúng ta có thể kêu lên: “Vì Ngài ở
với chúng con, nên đây là thời gian hoan lạc!”.
3. Đừng thờ lầm - Ga 1, 1-18
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ
chúng ta nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi
của mầu nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa
chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào
chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân
mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy
đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức
sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh
lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và
nguồn mọi ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong
Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa –
và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu
thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung
cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức Giêsu, chúng
ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo
hoá, con người chỉ muốn những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó
để tìm hiểu những diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui
con người muốn quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn
tiến thế nào. Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà
mình có được thân xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể
không bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu,
chúng ta thờ lạy Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc
khải 4, 8), nghĩa là Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi
đầu, do Người mà muôn vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho
thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa
tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình
hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu,
Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế,
chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta
có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta
thờ lạy trong tâm trí và trong sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân loại
là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con người
bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân lại
chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản hết
sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh
sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường
tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh
sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.
Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các
ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối
linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất
hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người
nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát
ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những
giây đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần
thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng
ta.
4. Ngôi Lời là ánh sáng thật
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy niệm
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng
trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát.
Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng
phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình
Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn.
Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người
sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối;
không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu
giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp.
không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta
được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt
chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh
Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì
bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối
ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm
nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của
đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác,
đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp
lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để
đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi ý chia sẻ
· Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể
có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
· Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang
sống?
Cầu nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin
cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy
Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con
cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không
như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa
đã dám sống như con.
5. Vinh danh Thiên Chúa trên trời - Lc 2,1-14
(Suy
niệm của Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên
lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên
trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa
từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc
Thiên Chúa với con người.
Tại sao ““Vinh
danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu
thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế
làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt.
Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một
người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên
trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta,
Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người
là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà
hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm
đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp
thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời
gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để
mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra
trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ.
Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ.
Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những
truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những
cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai
phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ
đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù
rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con
người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con
người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên
Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con
người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao
trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để
cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu
thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người
vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa,
tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người.
Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng
những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng
Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi,
vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo
nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may
mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới
có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé
nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên
trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới
tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng
Sinh. Amen.
Gợi ý chia sẻ
1. Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người
Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa
với con người không?
2. Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta
thực sự yêu mến Chúa?
3. Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự
mừng đón Chúa đến?
6. Đêm Ánh Sáng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng
tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại
bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng
tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ
nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một
làn ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi
ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình
yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không
gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho
thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người.
Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy
con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu
thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy
bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng
đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp
người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin
Ánh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn
thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí
tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn
sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là
thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các
ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón
nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên
đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê
rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại "vinh
quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng". Và ngôi sao xuất hiện
dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các
ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy "một trẻ sơ
sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo
vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo
của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua
ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên
chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại.
Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt
trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian.
Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu,
một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo
hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế
giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành
những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn
chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. "Họ kể lại điều đã được nói
với họ về Hài Nhi này". Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm
hồn. Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn
tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như
ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới
chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở
lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối
trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.
7. Lời ngỏ của Tình Yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài
bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh
ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài.
Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên
sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên
Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy
vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ
không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời
của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung
cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó
là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem
theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh.
Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong
máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực
đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng
nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng
lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là
đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới
mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường.
Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu.
Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống
địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những
không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một
góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn
Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu
của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết
yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người
trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao,
phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu
chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu
nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị
xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta
điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu
này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng,
kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người.
Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói
khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong
máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng
trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích
kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để
ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của
Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào
môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa,
Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
Gợi ý chia sẻ
1. Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu
trong máng cỏ?
2. Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn
cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa
khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3. Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn
có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4. Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
8. Noel: Lễ nhập cuộc
(Trích
trong ‘NÚT VÒNG XOAY’ – Trg. 35)
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng
Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi:
“Noel, bồ có đi đâu không?”. Có tiếng đáp: “Không, mình ở nhà”. Và khi tiếng
đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: “Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải
ra đường chứ!”.
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện
tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con
đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên
đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng
Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường,
đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe
mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông
mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh
nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm
tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa
được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là
“Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định
nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng
khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ
mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ
mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân
loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch
sử cắm mốc thời gian rõ ràng là “thời Hoàng đế Cêsarê Augustô” và được cấp sổ
đỏ không thể chối cãi là “thành Bêlem xứ Giuđêa” như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập
cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình,
đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào
đời và sống đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng
thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra
trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua
vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc.
Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng
rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử
chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc
sống
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia,
Thiên Chúa được xưng tụng là “Chúa hùng dũng”, thế mà Người đã hóa nên con
người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là “Thủ Lĩnh bình an”, nhưng chính Người
khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an
thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm
quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu
sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới “hậu khổ”! Người ta dòng
dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ
hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng
cỏ bò lừa. Người là “Cha vạn thuở”, bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân
thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có,
thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với
tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là “Cố Vấn kỳ diệu”, nhưng
khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem
ra Người đã “cố mà vấn vào đời mình” những gì là bình thường nhất nếu không
muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một
đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở
kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng
phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả “bụi trần”, và nếu cuộc đời luôn hạnh
phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện “đời là bể khổ” làm chi. Chẳng
bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón
lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào
trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc
đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc
để cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào
lại “trật tự nguyên thủy” như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội
lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là “Ngày sáng thế mới”. Đêm Noel là đêm đất
trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về
với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở
rồi về mà là một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp
với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo
nào, các thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế
cho người thiện tâm”. Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo:
“Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên Chúa”. Như vậy, Noel chính
là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng
Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng
trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa
sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu
gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê
như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của
mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước
muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết
cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng
quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như
thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan
hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy
bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh
phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong
đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm
vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải
chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa
sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.
9. Ngôi Lời đã trở nên người phàm - Ga 1,1-8
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng
lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người
ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến
“Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết
như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng
Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà
con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ
mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để
ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không
phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông
mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi
Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy
tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều
người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra
ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ
dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên
trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây
thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy
sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời
đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người
giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy
bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc
nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu
tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không
tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa
những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc
dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài
đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không
ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt
kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất
tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ
cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một
huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa
“người” hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời
cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì
chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận
để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền
nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên
Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng
cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm
thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở
ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng
chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự
hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là
túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi
ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của
Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của
mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra
ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết
trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng
ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở
ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người
trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa,
những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận
được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em
bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư
ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể
gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua
một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những
ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật,
của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng
tình thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên
Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm
con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua
chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh
sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.
10. Suy niệm của R. Gutzwiller – Lc 2, 1-20
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì
tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính
cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh
Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường
tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên
thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế
Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền
hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên,
đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của
con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế
Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới
lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới
với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên
ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa
và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong
thành cảu Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi
còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người
con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên
Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và
như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu
quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch
sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là
một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần
thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô,
muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của Rôma’, thì Chúa
Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên
Chúa’.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải
sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có
thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó.
Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú,
thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa
sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò
lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn.
Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng
bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối
của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con
Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn
giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy
vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao
cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất
cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì
mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa
trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ
giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế
nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ
điệp. Israel
là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những
hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của
cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì
thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo
nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm
trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu
thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau
thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến
bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và
Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy một
Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ’. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ
quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn
những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần
thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm
hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy
có ‘trời, vinh danh và Thiên Chúa’. Phần hai có ‘thế trần, hoà bình và con
người’.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh
quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính
Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn
vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế,
bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều
ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa
Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang
trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một
biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời
cầu chúc hay lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’ đó là một lời loan báo và
cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an
bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì
Chúa hoàn vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định
đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã
thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc
nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan
được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy
niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen
thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là
phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong
lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống,
nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các
thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn
toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn
này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó
lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
11. Sứ điệp vinh quang và bình an – Lc 2,1-14
Từ nhiều thế kỷ nay, những bài Phúc Âm tường thuật về
cuộc đời thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng tượng thi nhân và nuôi dưỡng
lòng đạo đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay chúng làm đối tượng cho những
sự phân tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc của một số trí khôn phức tạp
đã tìm cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm mức của mình. May mắn thay,
có một khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài tường thuật ấy ở trình độ mà
Giáo Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật của thánh Luca kể lại một sự
kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm
thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách tỏ tường như trong những bản
văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt việc Chúa Giáng Sinh trong
tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu Ước. Nhưng người ta bắt gặp
cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm
nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra cho các ngươi. Ta thử đứng
thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra một vài nét về ý nghĩa của
danh xưng ‘Cứu Chúa’.
Chúa Giêsu là Cứu Chúa đã được hứa hẹn. Đó là lý do
tại sao Người được mô tả là phát sinh từ dòng dõi Đavít, ít ra về mặt pháp lý,
và điều đó rất quan trọng trong xã hội Do Thái.
Chúa Giêsu sinh ra bởi một Trinh Nữ. Thánh Mátthêu
cho ta biết thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn trăm năm trong hoàn cảnh nào.
Chúa Giêsu là một con người. Người là Con Thiên
Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống Người đã
nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người
không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người không giả bộ làm
người; Người là người thật.
Chúa Giêsu được loan báo cho người nghèo khó, cho
người chăn chiên, nghĩa là người đến trong nhân loại thông thường nhất, giữa
hạng người không có thời giờ để lo sao cho có nhiều tiện nghi, hạng người bám
vào phận sự hàng ngày cốt sao cho được sống mà thôi.
Người mang tới sứ điệp vinh quang và bình an, nghĩa
là người đến tái lập trong linh hồn con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là
Chúa, Người tập hợp loài người lại và bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi
người, vì thế họ là anh em với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu lên trong bài tường thuật
này một sắc thái căn bản mà con người thời đại ta đang cần, đó là sự thờ
phượng.
Thờ phượng, ấy là đức tuân phục của Maria và Giuse
đến Bêlem, khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố, là cuộc kiểm tra dân số.
Thờ phượng, ấy là công bố
rằng: Hài Nhi chính là Đức Kitô Chúa Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có thể tan
biến khi viếng máng cỏ, nhưng Hài Nhi gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên Chúa. Ta
hãy nghĩ tới Thánh Thể; bí tích ấy làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi ta, và
một sự tục hóa thiếu suy nghĩ có khuynh hướng coi thường. Một cộng đoàn họp mặt
cử hành Thánh Thể nâng cao con người trong lời ngợi khen và tạ ơn.
12. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã
làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm
kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì
người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây
ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự
rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một
Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất.
Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống
cho con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội
phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên
dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới
một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ
Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do
Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà
của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể
và hiện không thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng
sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê
muội
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa.
Đấng
Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa.
Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không
trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con
người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã
dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu
hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là
những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày
nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu
tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp
hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không
có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn
sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối
tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi
người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta
biết đánh giá con người
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên
Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với
nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh
em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng
điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu
đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó
phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ
mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón
nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.
13. Ngạc nhiên
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá
nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường
chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng
gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã
đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích
về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy
chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng
cho Chúa Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu
xỉ vả anh:
- Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi mà
không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài
cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp
tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn
tay trằng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc
nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm
trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
- Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người
giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên
của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Ngạc nhiên là khởi đầu của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới
đưa ra những giả thuyết, người ta mới tìm tòi, khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ
của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên cũng vậy. Thiên Chúa đã ban
cho con người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó khám phá ra quyền năng và
tình thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ,
cùng với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán phục này, chúng ta phải đi
đến một kết luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là Đấng quyền năng và thương xót,
đã dựng nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự. Hay như một câu danh ngôn đã
bảo:
- Thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi dòng,
mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn sách được mở ra để mời gọi con
người tìm đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào lịch sử nhân loại, cũng như
cuộc đời riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước biết bao ơn sủng
mà Ngài đã trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa luôn
hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi người chúng ta trên vạn nẻo đường
đời.
Và giờ đây trước máng cỏ Bêlem, nếu thực sự biết ngạc
nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, lời
hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương
của Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài, hay nói theo
kiểu thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên
ngôi Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng cặp mắt đức tin hẳn chúng
ta sẽ phải ngạc nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để rồi từ sự
ngạc nhiên ấy, chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho tình yêu của Ngài. Khi gặp
những sự may mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ đã đành, mà ngay cả lúc khổ
đau và đắng cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn tình yêu của Ngài. Trong
mọi sự, người biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, bởi
vì tất cả đều là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy đến bên
hang đá máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi
dâng lên Ngài tâm tình cảm mến tri ân.
14. Đêm Thánh
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho
ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã
chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục
đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc
sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không phải là
bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế
nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của
Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác
tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó
mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác
trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian
mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối
được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy.
Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy
ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín
và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con
cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không
bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta
phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi
như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm
chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc
thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi
chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta
nghe tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến!”. Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian
của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những
ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức
Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận
như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là
của Chúa, đêm cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm
chúc tụng Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia”
sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho
ta về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo
những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự
bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết
sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả
năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe
thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện
thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó
ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục
tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất…
… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định
lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn
trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song
đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm!
Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất
thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh!
Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng
bừng…”.
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được
đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu
kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh
hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của
dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ
thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên
Chúa, từ ánh sáng chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật
lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương
trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y
như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô
cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì,
trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng
lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta
sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta
đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc.
Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở
bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành
trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái
chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta.
Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường
định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên
Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa
sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là
khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài
trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy.
Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim
của một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu
mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…
Chúng
ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không
chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện
gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống
trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của
tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở
thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những
cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn
toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm
khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ
lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử
hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh
lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp
nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những
loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng –
chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít
nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng
trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt
mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời”
bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng
nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy
sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả
những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu
trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có
thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu
nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu
độ vừa lớn lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi
vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn
ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa
thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng,
một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu
mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm
Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào
trong trái tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó,
nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn
lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta
vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới
ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ
hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có
thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng
lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang
lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm
lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc
ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm
chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác
phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta,
lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong
cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ
nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy
lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng
chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện
hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng…
Giây phút tưng bừng…
Giây phút tưng bừng…
15. Chúa giáng trần (Ga 1, 1-18)
"Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với
Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa." Chưa từng có một lời văn
nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách hào hùng và trang trọng
như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài
là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong
và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối
với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta
đọc thấy câu, "Ngài đã đến nhà các gia nhân Người và đã không được đón
nhận." Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, "Chúng tôi đã nhìn thấy vinh
quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của Người Con Một
đầy ân sủng và chân lý" (Ga 1,14). Ở đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu
nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để
trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón
tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi, "Làm
sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân Nước
Trời?" Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
"Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy". Chúa Giêsu đã phán với các
môn đệ. "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng. Hãy tin Ta,
nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như chúng thì chẳng được vào Nước
Trời" (Lc 18:16-17). Thật đáng tiếc là trong cuộc sống thực tế, chúng ta
đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội. Mừng Giáng Sinh không có nghĩa
là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta
tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ của nhau. Chúng ta không thể phủ
nhận sự hiện diện của những thử thách và gian nan trong cuộc sống của mỗi cá
nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ não phiền muộn. Một số người
trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của mình. Các nước đang chiến tranh
với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những tên khủng bố đang ngầm phá. Các
nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế nhưng giữa những
điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ
toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh,
các bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy
trở nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa. Ngài
sẽ làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự
sống mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ.
Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của
chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh,
thì có lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh
nữa là phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên
con đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai
đều phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây
hai ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm
được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu "hết chỗ" (No
Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng
và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa
được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh
lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu
căng, nghèo khổ... tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh
không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt...
nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ
cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong
mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài
ban cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho
người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa
Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng!
16. NOEL: Tình bạn
Nhiều thế kỷ trước đây tại nước San Marinese, có một
ông vua rất kính sợ Thiên Chúa và thương yêu dân chúng. Ông sống chính trực và
rất được dân chúng kính trọng, mến phục. Nhà vua không chỉ hài lòng với cuộc
sống trên dung lụa của hoàng cung, cũng không chỉ nghe theo lời báo cáo tường
trình của các quan cận thần mà thôi. Để biết rõ hơn về hoàn cảnh sống của dân
chúng, nhà vua thường hay cải trang đủ cách để có thể đi lại dễ dàng và trà
trộn giữa mọi lớp người để không bị theo dõi hoặc chú ý tới. Một hôm nhà vua
cải trang với manh áo rách vá chằng chịt như một người hành khất và đến ngồi ăn
xin tại một công viên. Nhà vua làm quen với người phu quyét đường thường ngồi
nghỉ trên ghế công viên, ăn qua loa nắm cơm nguội dưới ánh nắng mặt trời nắng
gắt. Ngày qua tháng lại, nhà vua trở nên như bạn thân của người phu quét đường.
Họ chia sẻ từng nắm cơm, ly nước và chuyện trò vui vẻ như hai người bạn thân
vậy. Sau cùng vua quyết định nói sự thật và tỏ mình cho người phu quét đường
biết mình là ai. Nhà vua còn bảo người phu quyét đường có thể xin điều gì mà
anh ta ưa thích nhất như mòn quà kỷ niệm tình bạn thân thiết ấy. Nghe nhà vua
tỏ tình thương mến, người phu quét đường trố mắt ngạc nhiên nhìn nhà vua và
nói: Thưa hoàng đế, nhà vua đã không quản ngại khó nhọc, khước từ vinh quang
của cung điện để đến chia sẻ nắm cơm chén nước và những khó nhọc của bần hèn
này. Nhà vua có thể ban tặng cho quan thần những món quà quí giá, nhưng đối với
phận hèn này nhà vua đã dành cho món quà lớn nhất là chính mình. Vì thế nếu
được, phận hèn này chỉ xin một điều duy nhất, là xin nhà vua đừng cất đi tình
bạn mà nhà vua đã dành cho kẻ hèn từ trước tới nay.
Thật vậy, tình bạn là một trong những món quà lớn
lao, quí giá nhất mà con người có thể nhận được. Tình bạn là mối dây liên kết
vượt hẳn lên trên những mục đích chung của công việc làm, của những lợi lộc
hoặc những vấn đề cá nhân. Tình bạn chân thật là sự hiện diện cạnh bạn khi vui
cũng như lúc buồn, cho dù không thể tăng thêm niềm vui, cũng chẳng biết làm vơi
đi nỗi buồn của bạn. Tình bạn làm cho cuộc sống thêm tươi sáng. Có bạn cuộc đời
cũng đỡ bớt cô đơn. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu cũng đã để cao giá trị của
tình bạn khi Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu,
vì Thầy đã tỏ cho chúng con am tường mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy”. Cũng vì
tình yêu cao quí mà Chúa Giêsu đã tự nguyện đến trần gian mặc lấy thân phận con
người. Niềm vui của Chúa Giêsu là trở nên như chúng ta những con người yếu đuối
hạn hẹp mà Người đã muốn nâng lên hàng bạn hữu, là trở nên thành phần của đại
gia đình nhân loại và cùng đi với chúng ta trên con đường trở về với Thiên Chúa
Cha. Đấng Emmaunuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là món quà cao cả nhất.
Thiên Chúa ở với loài người, là ý nghĩa sâu xa nhất của mầu nhiệm Giáng Sinh
Nhập Thể.
17. NOEL: Hữu hình
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm
một biến cố đã qua, một biến cố tràn đầy hạnh phúc nhưng đã chìm vào dĩ vãng.
Vậy đâu là ý nghĩa của ngày lễ hôm nay?
Trong ngày lễ này, chúng ta xác tín: Thiên Chúa đã
trở nên hữu hình đối với chúng ta. Ngài không còn là Thiên Chúa xa lạ, cách ta
nghìn trùng nữa. Thiên Chúa đã đến với loài người. Ngài đã đến giữa loài người
như một người trong chúng ta, sinh bởi một người phụ nữ, cần đến tất cả sự chăm
sóc và âu yếm của mẹ Ngài, thừa hưởng cả một quá khứ gia đình. Việc Ngài sinh
ra được bao bọc bởi vài thành viên trong gia đình và những người chất phác có
Kitô hữu năng thán phục trước một hài nhi đã ra đời. Ngài đã đến trần thế này
để dự phần vào những vui buồn của mỗi người trong chúng ta. Ngài không yêu cầu
đặc ân nào ngoài đặc ân được ở giữa những người nghèo. Ngài đã có một chỗ đứng
trong dòng tộc với quá khứ và tương lai của dòng họ. Tổ tiên của Ngài là những
người chăn nuôi súc vật, những kẻ di dân, những người lao động tay chân và
những người đánh giặc. Vài người trong họ đã để lại kỷ niệm xấu vì giết chóc và
trộm cướp. Những người khác là những người có đức tin và lòng sùng đạo rất lớn
với những nhân đức khiêm tốn nhưng bền bỉ. Chính như vậy đó mà Thiên Chúa đã
trở nên hữu hình trong sự giống hệt loài người. Ngài không mặc lấy nhân tính
của chúng ta như một bộ y phục. Ngài đã nhập thể và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa
không ngừng trở nên hữu hình! Lý do của việc con Thiên Chúa nhập thể là “Thông
ban ân sủng để cứu độ hết thảy mọi người”. Lý do này không bao giờ bị rút lại.
Nó vẫn còn đó và luôn luôn được thể hiện.
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm
một biến cố đã qua mà ta không muốn quên, nhưng đây là lễ đón mừng một hồng ân
hiện đang được ban cho loài người. Đôi khi người ta nói về một người mà sự
nghiệp đặc biệt lừng lẫy nên người ấy vẫn tiếp tục sống ở giữa chúng ta do ảnh
hưởng công việc của họ. Nhưng đó chỉ là một cách biết ơn nhân vật quá cố thôi.
Vì người ấy cũng như sự nghiệp của họ không tồn tại mãi mãi được.
Nhưng công trình của Thiên Chúa, ân sủng làm cho
chúng ta trở nên con cái của Ngài vẫn luôn luôn được thể hiện. Thiên Chúa đã
trở nên hữu hình trong những cách hiện diện với loài người mà Chúa Giêsu đã
chọn sau cuộc Phục sinh của Ngài: Cộng đoàn Giáo Hội, sự hiệp thông giữa các
môn đệ của Ngài, là thân mình Ngài, sự hiện diện của lời Ngài nơi những tâm hồn
biết lắng nghe trong đức tin, và Bí tích Thánh Thể, hồng ân và dấu chỉ sự hiện
diện thật sự của Ngài. Mối tương quan mà những kẻ đã sống với Chúa Giêsu có thể
thiết lập với Ngài trong đức tin và đức cậy, cũng có thể được đối với mỗi người
chúng ta. Chúa Kitô bao giờ cũng niềm nở và lắng nghe, bao giờ cũng đầy lòng
thương xót và luôn sẵn sàng ban sự sống như thế cả.
Lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành với một niềm vui
lớn lao cũng thực sự là lễ mừng ngày chúng ta được sinh vào đời sống thiêng
liêng mà con Thiên Chúa đến ban tặng cho chúng ta.
18. NOEL: Lễ vật dâng Chúa
Đã biết bao nhiêu đêm như đêm nay đã đến với đời mỗi người
chúng ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá, ngắm những trang trí lạ mắt, ánh
sáng rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du dương hớn hở, chung quanh ai nấy
ăn mặc, trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng ta lại dâng trào niềm vui khôn
tả. Chính lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người chúng ta không thể không đưa
mắt chiêm ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút linh thiêng trang trọng
này, ai cũng tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng vui lòng đây, mình nên
dâng cái gì quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi người nghĩ ra nhiều việc
hay, tưởng tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng. Nhưng câu chuyện sau đây muốn
trình bày cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa sinh ra như đêm nay, các thú
vật chung quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con đều dâng Chúa một món quà
nhỏ: Chị bò cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu Khỉ biếu Chúa mấy trái
nho, chú Sóc biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng khuyên hát một bài du
dương, cậu Bướm tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang
lúc các thú vui thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo xuất hiện. Mọi thú đều
ghét cáo vì nó gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường không cho Cáo đến gần
Chúa. Thấy thế, Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào. Cáo đến quỳ bên Chúa thì
thầm nói với Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ đặt hai tay trên đầu cáo
tỏ dấu ưng nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui tươi lễ phép đứng lên cáo
biệt rồi đi thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò hỏi Chúa Cáo đã dâng gì
cho Ngài mà Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa đáp:”Cáo đã dâng cái mà ta
thích nhất: Đó là những tội lỗi của nó”.
Nghe thế ai mà chẳng bỡ ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi
ai mà chẳng có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai cũng thắc mắc tại sao Chúa lại
ưa cái thứ quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi
nhìn vào thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã bỏ trời cao xuống trần mang lấy
để gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho
Chúa mọi tội lỗi của mình thì người đó đã nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu
vô biên của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái gì trên cõi đời này làm
cho con người phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối rối, phải ray rứt hối
hận? Dĩ nhiên, tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi Hai xuống thế làm người
là Ngài mong muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích thực, nhưng chỉ còn một
trở ngại ngăn cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn có sự bình an thật thì
phải dâng tội cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được chúng và giúp con người
trở nên bạn hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa tức là chúng ta dâng trót
cuộc đời còn lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn, để chỉ ước muốn làm điều
đẹp lòng Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người chúng ta một tặng phẩm quí
giá: Đó là sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay đem lại cho mọi người thiện
tâm thiện chí.
19. NOEL: Đổi đời
Trời vừa rạng sáng, sao vừa biến và người khách cuối
cùng vừa từ giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài nhi thiu ngủ… Bỗng, cánh cửa
của chuồng bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo
đến độ khuôn mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà, Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù
thủy mang xui xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên
lành. Còn Mẹ Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước chân của bà già đối với Mẹ
Maria hình như dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục bước và đã đến bên máng cỏ.
Bất chợt Bé Giêsu mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức ngạc nhiên khi thấy đôi mắt
Con Mẹ và đôi mắt của bà già sao mà giống nhau như thể ánh lên cùng một niềm hy
vọng. Đoạn bà già thò bàn tay khẳng khiu vào bọc áo tồi tàn mò tìm một vật gì
cất rất kỹ. Mẹ Maria vẫn lo lắng quan sát và các con vật vẫn thản nhiên. Cuối
cùng, bà ta hình như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc một vật dấu trong bàn tay,
rồi trao lại cho Hài nhi. Không biết quà tặng là cái gì và bà già là ai mà có
vẻ bí hiểm. Mẹ Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi xuống khá lâu trên chiếc nôi.
Rồi bà già đứng thẳng dậy như trút được một gánh nặng trên hai vai, khuôn mặt
rạng rỡ như tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời
khỏi nơi Hài nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ mẹ Maria mới thấy được món
quà tặng của bà già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra, bà già ấy chính là Eva vừa
trao lại cho Hài nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của tội nguyên tổ. Và trái táo
đó rạng ngời trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như một quả địa cầu của thế
giới vừa mới được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay từ khi Ngôi Lời đã hóa thành
nhục thể đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo vật, kể cả tội nguyên tổ, đều
được biến đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ, phản ảnh tình thương của
Thiên Chúa. Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi Hai mặc lấy bản tính của
họ nên họ được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật mới đầu tiên ở trong Chúa
hài đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc biến đổi nào muốn đi tới
thành công mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then chốt này: Một là xác định
rõ hướng đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhất
là cuộc biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội lỗi thành một bản tính
thần thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều hơn nữa nếu con người
muốn hóa thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã là con người ai cũng cảm
thấy thân phận mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng chiều theo đam mê sa
đọa, lúc nào cũng cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát tìm kiếm mà không bao
giờ được thỏa mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội nguyên tổ gây ra, khiến
con người cứ chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải sống trong một tình
trạng khốn khổ đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người khỏi bóng tối đến
với ánh sáng, từ bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau khổ đến bến bờ hạnh
phúc, chắc chắn người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội ngàn vàng. Đó là Ngôi
Hai giáng trần, một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho
nhân loại được cứu thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã xác định được hướng đi mà
muốn thành công, hai bên phải biết hợp tác để cùng hành động và hỗ trợ cho
nhau. Về phía Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân phận hư hèn của con
người cũng đã đủ để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài là muốn cứu thoát
tất cả mọi người. Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì, ngoại trừ tội lỗi,
để giúp con người đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần ngại phó mạng sống
và quyền năng của Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía con người muốn đón
nhận hồng ân cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương nhiên phải biết hợp
tác với Ngài bằng cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo những sự chỉ dẫn của
Ngài. Nói khác đi, con người muốn được cứu thoát phải biết tiếp nhận Chúa như
là bạn đường, như là khách quí mời vào trọ trong nhà mình để yêu mến, phục vụ
Ngài tận tình chu đáo. Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con người phải từ bỏ mình
cùng với những xấu xa, coi ma quỷ như kẻ thù không đội trời chung…
Cuối cùng khi đã quyết chí lên đường theo Chúa để có
thể đi đến cuối con đường của hạnh phúc đích thực được thì phải có lòng kiên
trì bền vững luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì con đường đến với Chúa và
cùng đi với Ngài không phải là một con đường thoải mái, dễ dàng, nếu không có
chí sắt đá, không có lòng kiên định thì khó mà đi trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng
và chấp nhận đi theo Chúa không phải một vài lần là được mà phải chấp nhận suốt
đời và cũng không phải lúc nào đời người đều bình yên lặng gió mà là luôn có
trở ngại thử thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai bám chặt vào Chúa thì kẻ đó
mới đến đích bình an.
Chúa vì thương con người đã làm một cuộc đổi đời kỳ
lạ từ trời xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt và đưa con người lên hàng
thần thánh. Còn con người muốn được hóa thần phải biết đổi đời từ tối thành ánh
sáng, từ hư hèn thành bất diệt.
20. Đêm An Bình
Trong đêm Giáng sinh, sứ thần Chúa đã hát vang trên
cánh đồng Bêlem:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã
hiện ra và chào chúc các môn đệ:
- Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
- Thầy ban bình an của Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa trao ban cho chúng ta là sự
bình an như thế nào?
Trước hết đó phải là sự bình an trong tâm hồn qua
việc giải thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi, giao hòa chúng ta với
Chúa. Thực vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất phát từ bên trong, từ
tâm hồn, từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự
thù địch với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo lắng, Chính sự bình an
nội tâm này sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc sống, làm cho chúng ta
được vui mừng và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải những túng cực và khổ đau.
Chính trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là
con Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng này, Ngài đã xuống thế làm
người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của
tội lỗi. Ngài đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền trời với đất. Ngài đã hòa
giải chúng ta với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái
Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội tâm không phải là một quà
tặng từ trời rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải là kết quả của những cố
gắng cộng tác với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và xây dựng nơi chính bản
thân mình, bởi vì sự bình an chỉ có cho những người thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn là nền tảng để chúng ta
vun trồng một cách tốt đẹp những mối liên hệ với người chung quanh từ gia đình
đến xã hội.
Trước hết là gia đình
Như chúng đã biết gia đình ngày nay đang lâm vào một
cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt mất rễ, thì làm sao sống
nổi. Gia đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này mà bị đau yếu, thì làm
sao nhân loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây liên kết đầy yêu thương,
phải là nơi cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi va tha thứ, nhường nhịn
và chịu đựng lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta đã ổn định qua việc hòa giải
với Chúa, thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ được êm ấm qua việc yêu
thương nhau. Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi biên giới.
Và như vậy chúng ta đã bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, tề gia, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên
hạ.
Cũng trong chiều hướng ấy, Đức Hồng Y Feltin đã nói:
- Đây là lúc người tín hữu phải rời bỏ tháp chuông, phải rời
bỏ quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng đồng thế giới, bởi vì tất cả đều
là anh em với nhau, cùng có chung một người cha và cùng được dựng nên theo hình
ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc huynh đệ tương tàn,
anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì
chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn ảnh một cuộc chiến tranh
thẳm khốc với những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng dữ, luôn ám ảnh và đè
nặng trên con người, cùng với nó là những sự tàn phá khủng khiếp nhất. Những
phương tiện tự nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi chưa đủ, chúng ta còn
phải cần đến những phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu nguyện và một cuộc sống
được đổi mới theo tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lại giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự trên tòa và những người quyền
thế nhất trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi Maisen:
- Con đã trao cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con trao cho họ những giới luật.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua bách chiến bách thắng:
- Ngươi đem lại cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con đem lại cho họ vinh quang.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức Kitô:
- Con mang đến cho trần gian những gì?
- Con đã mang đến sự bình an.
- Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời. Ngài úp mặt vào lòng bàn tay
bị mang dấu đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên một sự thật. Ngày nay hơn
bao giờ hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay mang những dấu đanh cho
chúng ta chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà Ngài đã kiến tạo, đã
xây dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ hòa bình, khởi đi từ tâm
hồn bằng cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng một cuộc sống yêu thương
và tha thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự hòa giải và cảm thông, để
ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng sự bình an mà Chúa Hài
nhi đã đem đến nơi máng cỏ Bêlem.
21. GIÁNG SINH: Nhập thể (Ga 1, 1-18)
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên
Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh
Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản
thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài
muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong
lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu
Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta
không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm
nay: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy
Lạp chữ “cư ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa
chúng ta”. Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con
người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác
con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã
diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau
đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một
người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở
Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô.
Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế
gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi
muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được
thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi
một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để
làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông
cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê,
rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải
mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi
chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ
mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của
vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình.
Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho
con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé
đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không
cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại
sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả
lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng
đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà
thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng
ta”. Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy
bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa
Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể
của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách
biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
22. GIÁNG SINH: Hoà Bình (Ga 1, 1-18)
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia
sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào
thần tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con
người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của
mình”.
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo
gương Chúa Giêsu: “Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi Chúa
Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc ngang
hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ
và trở thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ mình
hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
“Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh
vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô
tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị
hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình
với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ
nham hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù
truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai
hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy
một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng
săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi
hay tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo
vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên
vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề
hay biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua,
vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây
xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú
đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một
bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến
khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai
đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư
tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ
võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất
phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương
tích máu me… Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để
hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ
có chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao
người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra
một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi
xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng
hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào
nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm
tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người
bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ
thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương
đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng
kinh ngạc của mọi người”.
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi
thứ tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để
chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để
lột mặt nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa,
là anh chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm
bẫy gian tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican
II diễn tả: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con
Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người,
Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc họ”.
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc
khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn.
Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của
hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui được giải thoát
khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.
23. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cuộc giáng
sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá thì sẽ thấy được sự khó
nghèo của Con Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến
viếng thăm, và một vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giêsu, tất cả chỉ có
thế, nghèo nàn khổ cực hơn cả người cùng cực thế gian, nhưng đó chính là niềm
vui của các tâm hồn thiện chí và là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan long trọng mừng Đấng Cứu
Độ của chúng ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một tin vui trọng đại, tin
vui cho muôn người, tin vui này được các sứ thần của Thiên Chúa loan báo cho
các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng
đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho
anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là “Đêm Thánh” vì Con Thiên Chúa là
Đấng Thánh đã giáng trần cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng được gọi
là “Đêm Bình An” vì chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho
mọi tâm hồn thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh
Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong ngày Chúa
Giêsu giáng sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm hồn của người tín hữu, và
biến thành lời ca vang chúc bình an trên môi miệng của chúng ta với ước mong
rằng, tất cả mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đem bình an cho tha nhân
trong cuộc sống của mình.
Vinh danh
Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến chúng ta trở thành những
mục đồng đi đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi các trại mồ côi, an ủi
những người bị tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng bóng người mặc áo quần lụa
là, vì họ đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn bè trong những nhà hàng
sang trọng; nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng hiên của ngôi nhà to lớn
bên đường có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh vì đói và không nhà để
trở về vì không có hộ khẩu...
Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm,
và hôm nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua
chúng ta, Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các
thiên thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương.
Sứ điệp này đang ở trước mặt anh chị em, trong hang
đá lộng lẫy ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng, như mời gọi chúng ta hãy
tỏa sáng lên tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người, bởi vì Con
Thiên Chúa giáng trần không phải như ánh sao xẹt ngang bầu trời rồi tắt ngúm,
nhưng là “ánh sao sáng vĩnh cửu” đầy hy vọng soi sáng tâm hồn người thất vọng,
chiếu sáng người đang ở trong bóng đêm tội lỗi thấy đường để quay về với sự
thiện vốn có của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
24. Chiêm ngắm Ngôi Lời
Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, đó là
lời rao giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ mà chúng ta vừa nghe trong
bài Tin mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm
qua chúng ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng
trần và ở giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo, chúng ta đi xa hơn nữa để
nhìn thấy và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác phàm như chúng ta.
1. Chiêm ngắm Ngôi Lời trong hang đá
Không ai thấy được Thiên Chúa cũng như không ai được
đưa tay đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà chúng ta biết được Thiên Chúa
Cha là Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang
nằm trong hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa
Cha là Đấng vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp của con người hữu hình. Trẻ Giêsu
đang nằm đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực
điểm mà không có mảnh chiếu che thân, chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh
cả Giuse là một gia đình nghèo đáng thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời đang nằm trong hang đá đó
chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến nhưng người nhà không chấp
nhận, xua đuổi Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có những người vô danh tiểu tốt
đến thờ lạy Ngài là vua vũ trụ...
2. Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà chúng ta đang ngắm nơi hang
đá được trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu nữa đây trên bàn thờ, trong
hình bánh rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng
là Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình
yêu dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận
làm người với nhân loại tội lỗi...
Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được
tình yêu không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của
Ngài ở trần gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa
thuận yêu thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa
bình, chính tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương
trợ lẫn nhau...
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá
Bêlem cũng như nơi bí tích Thánh Thể, không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng
không có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương
ấy đã trở nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó
chính là mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa
làm người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc...
3. Ngắm Chúa Giêsu nơi tha nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh là mừng tình yêu cứu độ
của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn
Hài Nhi trong hang đá chúng ta nhớ đến những em bé nghèo khó trên khắp thế giới
sống trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ đến những người phải lìa xa quê
hương ruột thịt để lánh nạn chiến tranh cường hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ
đến biết bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp thế giới vì chính kiến, vì hận thù
và vì đức tin...
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi tha nhân là cốt lõi của tình
yêu và giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại -qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta
không thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ ơ với tha nhân, và chúng ta
cũng không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu nếu tâm hồn chúng ta vắng
bóng Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn
tại cho đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những
người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại
không thể làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp
tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ
điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có thói quen tặng thiệp, quà Noel cho người nghèo không?
- Mỗi lần Noel đến, bạn có nghĩ rằng bạn sống tốt thêm Noel
năm ngoái không?
- Mỗi lần tặng thiệp, quà Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ rằng
mình là một thiên thần đem tin vui cho mọi người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
25. Suy niệm của Lm. Trương Đình Hiền
Có một bài ca Giáng Sinh bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh
về chúng ta đều nghe vọng lại cách thân thương quen thuộc: Bài Đêm Thánh Vô
Cùng. (Silent night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật là Đêm Thánh. Bởi vì
đêm nay, hầu như tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tín ngưỡng
hay vô thần, tin Chúa hay tin Phật…đều đỗ nhau ra đường, tuôn đến các Thánh
đường, các tụ điểm sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui: Vui Noel, để rạo
rực một tâm tình: tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem lại cho mỗi người chúng ta
chỉ một niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo
ảnh trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu chuyện “Cô bé bán diêm” của văn
hào Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel qua đi, những bài ca Giáng Sinh ngừng
lại, ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ vụt tắt, rồi tất cả lại quay về với
một đời thường tăm tối, đắng cay, thất vọng, khổ sầu…thì việc đón mừng Giáng
Sinh của chúng ta chẳng khác nào tiếp đón một người khách xa lạ, khách đi rồi
mà chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm nào,
một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc biệt nầy, tôi xin mời gọi
ông bà và anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm
Giáng Sinh, để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay, âm thanh đêm nay, không chỉ
loé sáng lên để rồi vụt tắt lịm như những que diêm của Cô bé bán diêm xấu số
cùng với cái chết thương tâm của cô giữa trời tuyết lạnh; nhưng phải được nối
dài, phải được vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống của chúng ta.
I. GIÁNG SINH:
MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải chăng đây là một khẳng
định táo bạo, một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo khoét? Không, với mỗi người
Kitô hữu chúng ta, “Thiên Chúa làm người” đó là một xác tín cơ bản, một niềm
tin căn cốt đã ăn sâu trong hồn, đã thuộc lòng trên môi miệng và đã được cử
hành, nhắc nhớ trên từng cây số của cuộc sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa
long trọng cử hành trong chính đêm nay, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của
Thánh lễ nầy “ Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ
trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh Nữ
Maria và đã làm người”.
Nhưng với những người không chia sẻ cùng một niềm tin
với chúng ta, thì quả thật “mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người” quả là một thách
đố, nếu không nói là xa lạ và ảo tưởng. Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi; vì,
cách đây 2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn tiên báo, cho dù được Sách Thánh
thông tin xa gần, dân Do Thái vẫn không hề chấp nhận được “Một Đấng Cứu Thế”
sinh ra trong hang lừa máng cỏ, một Đấng Emmanuel con của gia đình Bác Thợ Mộc
Giuse và Bà Maria ở làng quê Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc bấy giờ, và
cũng là tâm thức của nhiều người trong nhân loại hôm nay, Thiên Chúa phải là
một “Ông Trời” toàn năng trên các tầng mây, một Thượng Đế uy nghi lẫm liệt trên
cõi vĩnh hằng; nếu Ngài có “hạ cố làm người”, thì cũng phải làm người trong
cung cách của một vị đế vương oai hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung
đình tráng lệ, chứ làm gì có một “Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em
Bé khóc oa oa vấn tả nằm trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng
khổ nghèo kiết xác. Cũng vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ
Phương đông tìm đến để kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện
của đại vương Hêrôđê. Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn,
nhờ “Sao Lạ dẫn đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa máng cỏ
ngoài đồng vắng Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối. Vâng,
nếu không có “Anh sao lạ”, nếu không có “thiên thần hiện ra loan báo Tin vui”,
nghĩa là, nếu không có sự “mặc khải”, sự dẫn đưa của Thiên Chúa, thì loài người
chúng ta không ai có thể khám phá, nhận biết được mầu nhiệm Thiên Chúa làm
người. Chúng ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một giấc ngủ triền miên của sự lầm
lạc, cách xa và mù tối về sự hiện diện của Thiên Chúa làm người. Thật cần thiết
biết bao “ánh sao mặc khải của Thiên Chúa”.
II. GIÁNG SINH:
VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa lại phải làm người, và làm
người trong thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý nầy, chúng ta có thể mượn
câu ca dao của Việt Nam:
“Yêu nhau
trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng ta, giữa con người với
Thiên Chúa không phải chỉ có “một trăm chỗ lệch” nhưng là cách xa muôn trùng.
Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta chỉ là
thân phận tạo vật do bàn tay Người tác tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng sâu,
càng cách xa vời vợi khi con người phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa trong
Sách Sáng Thế đã nói với chúng ta qua câu chuyện “bi kịch ăn trái cấm nơi vườn
địa đàng”.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao xa quyền năng đó, lại là
một “Thiên Chúa nhân từ” và giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa luôn nhớ lại
lòng khoan dung. Chính vì tình yêu bao la đó, mà Thiên Chúa đã không đành bỏ
mặc con người trong khoảng cách xa vời vợi, trong thân phận mồ côi lạnh lùng,
trong sự lạc loài cách biệt. Thánh sử Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu thương
con người đến đổi đã ban Con Một xuống trần…” (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để con người được ơn cứu rỗi,
hay như lời một Giáo Phụ: “Thiên Chúa làm người để con người được làm Chúa”.
Nói cách khác: Thiên Chúa muốn nâng con người lên, đem con người vào vị trí cao
cả mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo: đó là giống hình ảnh Người. Đúng
là “một trăm chỗ lệch…”
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu
nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong
lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách
trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai ý
nghĩa, hai tác động có liên quan mật thiết:
- Thiên Chúa làm người và con người được nâng lên
- Là ngày “chúng ta tái diễn cuộc vào đời của Thiên Chúa “, là
dịp chúng ta ý thức “Hồng ân vĩ đại, cao cả của mỗi người chúng ta vì chúng ta
được mời gọi làm con Thiên Chúa, được chia sẻ vinh quang thần linh của Thiên
Chúa.
III. GIÁNG SINH:
THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên, chân lý trên, có ích gì cho xã
hội hôm nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay? Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên
Chúa đã làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết và sự sống lại của
Ngài, bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu
độ là chính Thánh Thần của Thiên Chúa…thì thế giới vẫn còn nguyên đó với chiến
tranh đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận thù, với bịnh tật khổ đau…Để hiểu tại
sao như thế, chúng ta phải trở về với chính những Lời Chân Lý được công bố hôm
nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-ia đã vang vọng
những lời tuyệt đẹp: “Đoàn người bước đi trong tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng
bao la, ánh sáng bừng lên trên những miền âm u sự chết…vì một Hài nhi đã sinh
ra cho chúng ta, một Người con đã được ban tặng cho chúng ta”
Trong khi đó, bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch
sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với
những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên
sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiên ra loan báo
rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm
vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng
sinh…”
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu đày nước mất nhà tan khi
đế quốc Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm trước Công Nguyên, vị tiên
tri thi sĩ I-sa-ia đã tiên báo “ một Đấng Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh
ra”… và 700 năm sau, trong buổi bình minh của thiên niên kỷ đầu tiên của công
nguyên, cũng lại là một đất nước Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của Rôma, sứ
thần đã loan Tin Mừng vĩ đại cho các mục đồng ở Bê-lem: “Đấng Cứu thế đã giáng
sinh”.
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng
và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã có được những
gì, đã chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì đã xảy ra? Có hay không Một
Đấng Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng một Vị Vua oai hùng lẫm liệt
đăng quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có hay chăng một Đấng Cứu tinh
mang lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng thênh thang, quyền uy chính
trị trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái ngược hẳn:
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng Cứu
Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm
liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen
lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh
tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối
Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi bờ,
sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử
hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ…
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu,
Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm
để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm
Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm
ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật
chất…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh,
Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng
ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức
Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa,
một học thuyết chính trị-kinh tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi
duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được
công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất
chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một
dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em
trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về
hạnh phúc vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó, “Hiến chương Nước Trời” được
Ngài vạch ra như nẽo đường dẫn tới cõi phúc chân thật lại là những giá trị xem
ra thật ngược đời, nhưng cũng thật anh hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ khó
nghèo, hiền lành nhân ái, hy sinh để chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây dựng
hòa bình, không ngừng biết khoan dung để tha thứ…
Chính cuộc đời 33 năm trần thế của Ngài, cho dù không
để lại một công trình kiến trúc vĩ đại, không một tác phẩm văn chương uyên bác,
không một sáng chế khoa học diệu kỳ…thì 20 thế kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân
loại, là hy vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ
máng cỏ Bê-lem cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời của Chúa Giê-su duy nhât chỉ
là một định nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu là cho đi và cho đi đến cùng:
Thiên Chúa trở nên nghèo hèn, tự hiến để con người được cứu độ vinh quang;
Thiên Chúa chấp nhận làm “hạt lúa gieo vào trần gian mục nát”, để con người
ngẩng cao đầu đứng lên tìm được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý nghĩa
cuối cùng của mầu nhiệm được cử hành hôm nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm người,
mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mầu nhiệm Nhập thể - Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng ta đón nhận và sống mầu
nhiệm Giáng Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và mang giá trị hiện thực?
Để thay cho câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ: “Tiệm tạp hóa bên kia
ngọn đồi”
Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, có một chàng thanh niên
đứng đợi trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi. Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở.
Sắp sửa định bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một thiên thần xuất hiện:
- Anh cần gì? Tôi là chủ ở đây.
- Ở đây Ngài có bán hòa bình không?
- Tôi bán tất cả.
- Con muốn mua hòa bình đem vào nơi chiến tranh, mua
an hòa đem vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào chốn lỗi lầm…
- Còn mua gì nữa nào?
- Con muốn mua ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm vui
đem vào chốn u sầu… Con muốn mua tất cả những gì để thế giới không còn khủng bố,
chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen ghét, để mọi người hít thở trong không khí
trong lành, huynh đệ yêu thương…Vâng con muốn mua được những liều thuốc chữa
được mọi bệnh tật, mọi người được no cơm ấm áo…
- Thiên thần từ tốn đáp: Nầy anh, ở đây không bán quả. Thượng
Đế giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi…
Thưa ông bà và anh chị em. Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay
cũng là “Hạt Giống” Tin mừng được trao gởi cho mỗi người chúng ta. Hạt giống
của Niềm vui và bình an, hạt giống của yêu thương và chia sẻ, hạt giống của hy
sinh và tận hiến, hạt giống của tha thứ và khoan dung, hạt giống của huynh đệ
và đoàn kết…Đó chính là những hạt giống mà Con Thiên Chúa đã trao tặng khi
xuống thế làm người và muốn chúng ta sinh hoa kết trái. Ước gì niềm vui và ân sủng
của Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và biến đổi cuộc
đời chúng ta thành nhứng chứng nhân của hòa bình và công lý, của bác ái yêu
thương, của khoan dung tha thứ, của phục vụ quên mình. Và như thế, chiến tranh
bạo lục, khủng bố hận thù, ghét ghen tranh chấp, đói khát nghèo nàn…sẽ bị đẩy
lùi để nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp hơn, anh bình hơn, vui tươi và hạnh
phúc hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Bởi
lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu
đào sẽ bị đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì Một Hài đã sinh ra cho chúng ta, một
Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn đó không còn là một lời
tiên báo nữa, vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ chính thịt máu Ngài
được ban tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm tạ, hân hoan và yêu
mến. Amen.
26. Sức mạnh - Lc 2,1-20
Có một người đi hành hương đất thánh, khi trở về, ông
ta đã mua một bộ tượng sinh nhật gồm Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Thế
nhưng, trước khi lên máy bay tại phi trường Tel Aviv, người ta đã kiểm soát
từng bức tượng một, bằng quang tuyến X. Nhân viên hải quan đã xin lỗi và nói:
- Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng không hề có chất nổ trong
những bức tượng này.
Lúc bấy giờ, ông khách hành hương đã thầm nghĩ:
- Phải chăng họ biết được rằng bộ tượng này còn chất chứa một
năng lượng khả dĩ làm nổ tung cả thế giới. Vậy thì nguồn năng lượng ấy là như
thế nào? Đó không phải là nguồn năng lượng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã tạo
dựng nên vũ trụ vật chất này trong thoáng chốc và có thể hủy diệt nó bằng một
cái búng tay. Năng lượng mà ông khách hành hương muốn nói tới, chính là năng
lượng của Tình yêu mà Ngài đem theo khi đến với nhân loại trong đêm Sinh Nhật
đầu tiên tại Bêlem.
Thực vậy, năng lượng ấy được gồm tóm trong Tin Mừng
Giáng Sinh, trong sứ điệp mà Ngài muốn nhắn gửi chúng ta. Tin Mừng ấy, sứ điệp
ấy như thế này:
- Thiên Chúa, mặc dầu là Đấng quyền năng vô song, nhưng đồng
thời Ngài cũng là một người Cha đầy lòng nhân từ và khoan dung, Ngài đã yêu
thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta… Và để giải thoát chúng ta khỏi sự
kìm kẹp của tội lỗi, khỏi án phạt đời đời, Ngài đã sai chính Con Một Ngài xuống
thế để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng ấy, để công bố sứ
điệp ấy, Ngài đã không đến như một ông hoàng với cung điện lộng lẫy, với binh
đội hùng mạnh, nhưng Ngài đã đến như một hài nhi bé bỏng và yếu đuối, con của
một gia đình nghèo nàn và túng thiếu. Ngài đã trở nên một người giống như chúng
ta, cũng bơ vơ lạc lõng, cũng vất vả mệt mỏi, cũng biết đau, biết đói, biết
khát… Cũng đã bị nhạo cười và hất hủi, thậm chí còn phải chịu một cái chết ê
chề và nhục nhã nhất.
Khi đến, Ngài đã không được các vua chúa, các vị lãnh
đạo thế giới chào đón, mà chỉ được các mục đồng, những kẻ thuộc giai cấp thấp
hèn nhất đến viếng thăm. Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo khổ và
túng thiếu, thậm chí ngay cả với những kẻ tội lỗi.
Những điều trên đây khiến chúng ta nghĩ tới quyền
năng mà Ngài đem vào thế giới này. Bởi vì tư tưởng và đường nẻo của Ngài không
giống với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Phải chăng đó chính là điểm đặc
sắc, điểm thách đố mà mầu nhiệm Giáng Sinh đã gây nên. Sự thách đố này được
diễn tả qua một bài thơ có nội dung như thế này:
- Khi ánh sao trên trời chợt tắt, khi các mục đồng và ba nhà
đạo sĩ đã ra về, thì công cuộc Giáng Sinh mới thực sự bắt đầu: để tìm lại những
gì đã mất, để hàn gắn những gì đã rạn vỡ, để dựng lại những gì đã gãy đổ. Người
đói được ăn, kẻ khát được uống, tù nhân được giải phóng và hòa bình thực sự trở
về với mọi người.
Kể từ đêm Giáng Sinh đầu tiên cho tới ngày hôm nay,
trải dài hơn hai ngàn năm, sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi
hài nhi Giêsu, không ngừng làm nổ tung và biến đổi bộ mặt thế giới. Sức mạnh ấy
đã san bằng mọi giai cấp. Sức mạnh ấy đã phá đổ mọi bất công. Sức mạnh ấy đã
giành lại những quyền lợi cho đàn bà và trẻ em. Sức mạnh ấy đã hủy diệt mọi thù
oán…Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả, đó là sức mạnh tình yêu của mầu nhiệm
Giáng Sinh đã tác động như thế nào đến bản thân và đến cuộc sống riên tư của
mỗi người chúng ta?
27. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui
Những tình tiết chung quanh sự việc Đức Giêsu Giáng
Sinh là nguồn đề tài cho rất nhiều thiên khảo sát thông thái, là cảm hứng bất
tận cho những suy niệm thiêng liêng và thi ca hướng thượng. Những nhà uyên bác
muốn xem bản văn của thánh Luca như một thiên ký sự trong đó thực tế lịch sử
được thích ứng với một mẫu tín ngưỡng dân gian bắt rễ ở những công thức kinh
điển Cựu Ước. Sự suy–niệm thiêng liêng đã biết nhận ra trong ký sự ảnh hưởng
của thuyết hiện thực lịch sử, vừa nhân bản vừa có tính chất thần linh, khi
thuyết này được áp dụng, để khảo sát sự việc Thiên Chúa đến trong nhân loại. Dù
sao, những công trình khảo cứu bác học và sự suy niệm thiêng liêng cũng gặp
nhau ở điểm cùng xác nhận tính chất chắc chắn của những sự kiện sau đây: bà
Maria và ông Giuse đã đến Bêlem, nơi đây Đức Giêsu Cứu Thế đã Giáng Sinh, cũng
tại đây những kẻ đầu tiên đã tin vào sự loan báo lớn lao này.
Thánh Luca viết bản văn này khoảng thời gian rất lâu
sau biến cố. Lúc ông soạn bộ Phúc âm mang tên ông thì sự kiện Phục sinh và Hiện
xuống đã xảy ra rồi. Giáo Hội sơ khai đặt ra kinh nguyện theo sát kinh nghiệm
thiêng liêng thu thập được. Có thể là Giáo Hội đã tuyển trong khối tài liệu
phong phú về biến cố Giáng Sinh để lựa lấy những điều nào hợp với kinh nghiệm
nhất: Vinh danh dâng lên Thiên Chúa và bình an được ban cho loài người dưới thế
đã được thánh Luca trích ra để dùng từ một kinh nguyện phụng vụ, chính bản kinh
này bắt nguồn ở mầu nhiệm tổng quát Giáng Sinh, Vượt qua và Hiện xuống. Ngày
nay khi chúng ta mừng một biến cố xảy đến trong lịch sử Đức Giêsu, điều lợi ích
cho ta là chớ lãng quên toàn bộ Mầu Nhiệm Đức Kitô, Con Chúa xuống thế làm
người, để nhờ tác động của thần trí Người, Đức Kitô thực hiện trong Giáo Hội sứ
mạng làm vinh danh Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại anh em Người. Xin lấy một ví
dụ thực tế để gợi ý. Lĩnh ơn hoà giải qua bí tích giải tội, và tham dự sốt sắng
thánh lễ tạ ơn – đó là những nguồn vui thật sự vào dịp Giáng Sinh. Ngoài ra,
thi vị hoá ngày lễ và nô nức mừng lễ, cả hai chỉ là bộ áo phủ ngoài. Chúng ta
có thể dừng lại ở hai chủ đề suy niệm:
1) Thiên sứ được Chúa sai
đến bảo cho những mục đồng biết: Ta loan báo cho anh em một niềm vui lớn, nó
cũng sẽ là niềm vui chung cho toàn dân. Đây là một niềm vui đáp ứng một hy vọng. Từ bao thế
kỷ; não trạng Israel được duy trì và bồi dưỡng bởi các ngôn sứ, dựa vào niềm
trông đợi Đấng Cứu Thế sẽ đến. Niềm vui này cũng là niềm vui chung cho toàn dân,
chỉ có thể xuất phát từ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp thiên thần mang đến cho những ai
có tâm hồn như trầm xuống trong niềm trông đợi Đức Kitô mà Thiên Chúa hứa ban
cho trần thế. Điều này gợi ra một câu hỏi: trong tâm hồn ta, có dọn dẹp chuẩn
bị một chỗ cho niềm vui được Thiên Chúa loan báo không? Chúng ta có những ước
vọng nào? chúng hướng về đâu? Trong chúng ta có hay không một chỗ dành cho sự
mong mỏi đợi chờ Chúng ngự đến để Người tác động mạnh hơn nữa? Thiên Chúa không
thể loan báo cho chúng ta một niềm vui, nếu chúng ta không cần đến Người. Tuy
nhiên, nếu nhờ đức tin mà chúng ta phát hiện và ngẫu nhiên cảm thấy điều sau:
chỉ Thiên Chúa mới có thể ban phát tràn đầy ơn phúc cho chúng ta, thì ta phải
hiểu rằng chính đức tin chuẩn bị chúng ta tiếp nhận những sự loan báo Tin Mừng.
2) Hôm nay một Đấng Cứu Thế
được sinh ra cho anh em. Dù cam phận hay nổi loạn con người bị cưỡng bách phải nhận
định điều này: đời sống cá nhân tiến dần đến cõi chết, đến chỗ tiêu tan bản
thể. Cam phận hay nổi loạn, cả hai đều chứa đựng đau khổ. Đấng đem đến cho nhân
loại phương thế hữu hiệu để vượt thắng chết và sự trầm luân, chúng ta tôn Người
là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế được các thiên thần loan báo không chỉ đến phải
cứu con người khỏi định mệnh phải chết, mà còn ban cho con người sự sống của
Thiên Chúa. Não trạng thời hiện đại hướng tới chỗ xui giục một số người nào đó
đành chịu rơi vào cõi chết – và xô đẩy một số khác nổi loạn cuồng nộ. Là tín đồ
của Chúa, ta hãy ý thức rằng ta cần được cứu rỗi. Hãy từ khước sự can tâm nhận
lấy hư vô. Mặt khác ta hãy đến với Đấng Cứu Thế, trình bày một niềm riêng tư
của mình, chứ đừng có vun tưới cho những sự nổi loạn vô ích và ngu dại. Hãy
hiệp thông với hành động của Chúa Cứu Thế chúng ta.
28. Thiên Chúa làm người vì chúng ta
(Noel Quesson)
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng
người chủ gia đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là một câu chuyện huyền thoại,
Thượng Đế mà thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con đều đi lễ, một mình ông ở
nhà, ngồi nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé
rèm nhìn ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao đầu vào cửa kính. Ông không
muốn mở cửa dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ mưa hắt vào nhà. Những con
chim bay vô sẽ làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn tìm chỗ ấm áp, an toàn thì
có thể vào kho lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi hé mở cửa kho lúa. Nhưng
không có cách nào kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông ráng gọi và ra hiệu.
Những con chim không hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng vào các khung cửa kính
có ánh đèn. Ông tự nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình sẽ dẫn cả bầy chim tìm
được nơi trú an toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu ý nghĩa của lễ Giáng Sinh.
Con người rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những chim sẻ không hiểu ý ông.
Vì thế Thiên Chúa mới cần trở thành một con người, cần nói tiếng con người,
sống cuộc sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Có như thế, những ý định,
những bài học của Ngài mới được con người thông hiểu và lãnh hội. Dĩ nhiên,
Thiên Chúa trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn việc con người trở thành
một chim sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở nên một con chim để lãnh
đạo bầy chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên Chúa, để dạy dỗ và đưa con
người đến ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng Sinh dạy ta là bài học
khiêm tốn. Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện
là có sấm chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa
Giáng Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm
làng bé nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh đồng tạm trú trong một
hang đá. Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai
cũng nghĩ tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới
như một em bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa
bao giờ cũng bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo
hạnh cũng khó nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với các mục đồng, những người
nghèo, và ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh quang tỏa sáng, đó là dấu
hiệu Thiên Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa thường xuất hiện nơi đền thánh.
Từ đây, ánh quang đó che phủ những người nghèo. Chúa tự nhận mình vào số những
người nghèo khó: “Việc gì các con làm cho một người nhỏ bé nhất, là các con làm
cho Ta”.
Thiên thần loan báo một “Tin Vui”, một tin vui cho
toàn dân. Đó là Chúa Cứu Thế đã Giáng Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên Chúa.
Chúng ta có thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ khi được đón Chúa vào lòng không? Muốn
được niềm vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu Thế và đón tiếp Ngài, phải theo đúng
dấu hiệu thiên thần đã chỉ: “Một em bé sơ sinh, bọc tã nằm trong máng cỏ”. Phải
đơn sơ khiêm tốn, không được khinh thường những người bé nhỏ khó nghèo. Chúa
nằm trong máng như một thức ăn, để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình xuống làm người, để dẫn đưa
con người về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài. Xin giúp chúng con theo gương
Chúa, biết hạ mình phục vụ Chúa trong mọi người, trở nên anh chị em của mọi
người trong xã hội hôm nay.
29. NOEL: Yêu thương
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga
mời sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện mồ côi, và kể chuyện
Chúa Sinh Ra cho trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc sung sướng há hốc mồm
ngồi nghe họ kể chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho các em vật dụng thủ công
để làm Máng Cỏ. Trong khi đi tới đi lui trông các em làm Máng Cỏ, họ ngạc nhiên
khi thấy Máng Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có đến hai bé sơ sinh nằm
trong máng. Đức Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ, nhưng bình thản, họ mời
Misha kể lại đầu đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ Misha kể rất thông suốt,
rành mạch, đúng với Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho đến khi hai ông bà không
tìm được chỗ trong quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu và đặt
trong máng, thì em bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào
trong máng, thì Bé nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em thưa: Con đâu có cha,
có mẹ, con đâu có nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em ngại ngùng: con đâu
có quà gì để tặng Chúa như người khác được! Vì em rất mong muốn được ở với Bé
Giêsu, nên em nghĩ em có thể tặng Chúa tất cả những gì em có: Hay là con ôm
Chúa cho Chúa ấm được không? Tuyệt, món quà quý đó chưa ai cho tôi cả. Thế là
em nhảy ngay vào trong máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm. Chúa Giêsu cũng giang
tay ôm lấy em và bảo: Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa nói Misha vừa lấy tay
chùi mắt chùi mũi. Lệ đã tuôn thành giòng trên gò má hốc hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những Misha, vì khi Ta đói, các
ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã
tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm
nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi
làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi
đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ
thơ lạnh giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các nước tân tiến, giàu sang cũng
đầy kẻ, đầy trẻ homeless. Không những homeless vì không có căn nhà để ở, không
tìm được chỗ trong quán trọ, mà còn homeless ngay giữa bốn bức tường được cách
hàn, cách nhiệt (insulation) vì phải sống giữa những trái tim được insulated -
cách biệt quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi chủ nghĩa, hưởng thụ chủ
nghĩa,... bởi gia đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em ấy đang mong đợi vòng tay
ấm áp của bạn đó! Các em ấy đang giang tay mong chờ con tim bằng thịt, biết
yêu, và yêu nồng nàn ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em ấy chính là người trong
nhà bạn thì đau lắm! Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng con tim, nhảy vào máng
cỏ cuộc đời, sưởi ấm những bé thơ đang cần nhờ bạn, để không phải Đức Mẹ sinh
đôi mà còn là Mẹ muôn người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con
tim bạn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn!
30. Vinh danh
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài
người Chúa thương”. Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều nhìn thấy hàng
chữ trên, đây là sứ điệp của lễ giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả loài
người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần trên hang đá
Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc
tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời
đất… còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa, còn con người chúng ta thì sao? Biết
đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng
ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa
phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha
chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy
tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta và bằng chính con người chúng ta,
nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục vụ mọi người và phục vụ bằng
những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu chúng ta còn sống với người khác
và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số hoàn cảnh làm sáng danh Chúa,
bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục vụ con người, phục vụ xã hội,
bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì chính là một cách tôn vinh danh
Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội và xã hội hình ảnh sống động của
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần làm sáng lên tình thương yêu của
Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề “Bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương” thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta
biết: muốn có bình an, muốn được bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là
lời các thiên thần là lời công bố bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần
thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải
toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta
chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch, như thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Một
lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn nạn”. Hơn nữa,
một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài đồng đến ngự. Nếu
bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có được lời chúc phúc của các thiên
thần không? Muốn biết có hay không, chúng ta hãy nhìn vào kết quả của việc làm.
Không ai cho cái mình không có, một người không có bình an thật sự của tâm hồn,
họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự
vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa.
Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách Đại Học viết: “Một con tim không ngay
chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng
không thấy, lắng tai nghe cũng không được gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết
mùi vị nữa”. Đó, một khi con tim đã bất an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới
cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy, thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta
hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng tới gia đình và xã hội biết chừng
nào, còn đâu nữa “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Hôm nay ngày Chúa Giáng Sinh, ngày Chúa ban bình an,
Chúa muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có
được thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không? Xin mời mọi người
hãy hồi tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những
ai và lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau
không? Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại
tránh né? Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô
xát, chiến tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa đối nhau,
nghi ngờ nhau… có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ là làm hại nhau,
chà đạp danh dự của nhau. Người ta bảo “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”.
“Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, chúng ta là những bậc bề trên, là
người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại
không nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và
hiện giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ “bình an”
để sống cho mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin
Chúa Giêsu Hài Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói “Phúc cho người xây dựng bình an, vì
họ được gọi là con Thiên Chúa”, xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa
vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân
phận đau khổ như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho
chung con biết từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình
an. Chúa đã chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay
làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến
những gia đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm
ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa.
31. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa
giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi
đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều
ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng
người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh trở thành đêm hội của mọi
người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng Sinh không chỉ là lễ của
người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được
mọi người biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy
một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng
sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời
hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể
bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của
nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: "Vinh
danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Đêm nay
có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu "thiện
tâm" là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn
thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng
Sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho
ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa
sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng
mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn.
Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi.
Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng
sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu,
nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin Mừng được rao
giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức
tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim trong chiến tranh. Người ta
đang giết hại lẫn nhau. Khúc hát thiên thần: "Bình an dưới thế cho người
thiện tâm" không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài
ca rất giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe
những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một
thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm nay ra khỏi nhà để
vui đêm hội giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh
niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô
giá mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng
trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng
lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng Sinh là dịp để
người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui
chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo
âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng Sinh làm cho
người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm
người.
Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng Sinh
phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ
bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm
người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như
thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người.
Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện
chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày.
Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một
bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn
trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng Sinh, thờ
phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa.
Xin kính chúc các bạn MỘT ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là
những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: "Vinh danh Thiên Chúa
trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm".
32. Lễ Giáng Sinh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh
bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về
cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giêsu,
Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
2.
Đặt mình vào địa vị của Đức Maria và thánh Giuse, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về
Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Nagiarét vào Bêlem, không tìm được chỗ trọ, và
phải sinh con trong chuồng bò?
3.
Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh
ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không,
phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn
kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần
gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì
hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ
chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền...
thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ
sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như
mình, nên người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra
trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với
cách nghĩ của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu đã sinh ra trong hang bò
lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc
chắn Giuse và Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình,
nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất
kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều
không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như
thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi
ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay
không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho
vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa.
Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập
thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên
Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên Chúa… thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên
Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai
người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy!
Giuse và Maria đang sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng đứa con trong bụng
nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này
vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời!
Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy
đôi trai gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc
phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Nagiarét vùng Galilê thuộc miền Bắc Do Thái,
chàng và nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi núi của miền Trung để về tận
làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích
trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải
trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành
trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng
cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau
một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho
Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả
mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi!
Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và
tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để
trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ
đây? Cả gia đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là khổ nhất. Phải chăng
Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể
nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt
nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng
khôn ngoan của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại
cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những «người
của Ngài» phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác.
Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh quang, hạnh phúc cao
quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ,
vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh
phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải
chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh
quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận.
Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để
rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu
mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con
cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh
phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa
cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào:
một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2
mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai
1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những
người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để
Đức Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục
nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân
loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu trở thành người hạnh phúc và
vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan
như thế, thì việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho
đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và
một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc
đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì
điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành
cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ
chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và
lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta
sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì
yêu thương đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao
được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!» (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh,
về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Kitô hữu, người
mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang
danh là «người của Ngài», mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn
còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô đã phiền trách: «Tôi không thể
nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những
con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã
cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng
bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người
sống theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra thật nhục nhã và sống một
cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể
trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi
gặp đau khổ, nhục nhã, trái ý… con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra
như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giêsu và bao
vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói «con được đau khổ» chứ không phải «con bị
đau khổ»!
33. Tìm kiếm
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm
điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ
nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối
cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương
chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo
các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được
Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn
dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm
con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận
dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con
như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì,
khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay
trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên: - Điều quí giá mà tôi đã
tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. “Ngôi
Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta”. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm
Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên
kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối
cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên
Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng,
đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa
chan hy vọng của tiên tri Isaia: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một
Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên
Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường
về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa:
Thánh Gioan viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con
Thiên Chúa”.
Giáng Sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng
quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng
hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí,
trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé
nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là
những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể
đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính
là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà,
chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn.
Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân
mình”.
34. Món quà vô giá
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương
liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như
lời nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất
cả dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là
diễn tả ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại
trên thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh
mà tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc
họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng Sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội
sống xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov,
cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha
và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên
Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món
quà vô giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người
chúng ta.
Đối với xã
hội
Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy
quang cảnh: Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ
dân, bao cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến
để bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh
Thiên Chúa trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và
tất cả lớp dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người
sẽ kiến tạo một xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại
mãi mãi.
Đối với gia
đình
Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh
nặng, chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó
và Đức Mẹ đã tới ngày "mãn nguyệt khai hoa", vẫn sẵng sàng lên đường
về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến
nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi
không có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất,
ra đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người
trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui
sống trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ,
đưa lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
Đối với cá
nhân
Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ
lo tìm hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con
Thiên Chúa thật là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta
từ bỏ lối sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính,
thanh luyện chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta
là dân riêng của Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến
chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân
hoan trước nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà
vô giá ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.
Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba,
chúng ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng
ta có biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng
năm xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ
mà khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng
băng giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả,
nhưng chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng
con xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em
chung quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm
quà tặng cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy
hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh
phúc. Ước chi niềm vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.
35. Giáng Sinh: Ánh sáng
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy
những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ
phải cầm một ngọn đuốc sáng trong tay, chạy đi thắp từng chiếc đèn này qua
chiếc đèn khác dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn,
ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại
đằng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sưc thâm
thúy : “Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng
bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh
ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một
trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và
đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng
rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu,
chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết : “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng
đến thế gian và chiếu soi mọi người”.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô hạn, con người là
phận hèn mọn. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo
nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả.
Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng chí tôn. Vậy mà, con người tội lỗi chưa
kịp lên tận trời cao để xin tạ tội, thì Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô
biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, để cứu chuộc và yêu thương họ
hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn
con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên
những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết : “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được
sống muôn đời”. Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp
sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ
Isaia : “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám
người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển
đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa
cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có
thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận
biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức
Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết : “Không ai thấy Thiên Chúa
bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc
nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự
hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống
thần linh.
Anh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian
không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con
người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán : “Tôi là ánh sáng
thế gian, ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh
sáng ban sự sống”.
Mừng lễ Giáng sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã
đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta,
và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng sinh chính là bắt chước Gioan, làm
chứng cho ánh sáng : là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối
cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng sinh chính là thực thi những điều thiện
hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các
việc họ làm khỏi bị chê trách”.
36. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
(Lc
2,1-14)
HÔM NAY ÐẤNG CỨU THẾ
ÐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
ÐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời
loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ.
Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem
cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa
Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng
được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh
cho chúng ta".
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh
thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không
bao giờ ngừng lặp lại rằng:"Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng
ta". Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh
tân, nó vang dội trong Ðêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Ðây là Giáng
Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ
niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch
sử. "Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta".
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được
mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh
xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ
đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Ðấng Tối Cao, sự thánh
thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi,
những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài,
Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Ðêm
nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào
đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của
Ðức Nữ Ðồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho
Ðấng là sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy
Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc
phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm
của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy
vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem,
một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con
người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những
ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Ðịa, tâm trí tôi trở lại với hang
đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính
miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế
giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay
vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự
long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn
Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với
họ.
Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện
thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn
vùng Trung Ðông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn
cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang
lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên
thần, của các mục đồng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình
dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương".
Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay,
cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành.
Ngày hôm nay, Ðấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Ðấng Cứu Thế
Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là
Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội
lỗi.
Không phải trong một lâu đài mà Ðấng Cứu Chuộc sinh
ra, Ðấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra
trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới
ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn
lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình
bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi
sự nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh
nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của
tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa
để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào
chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy
nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống
mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng
hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân
loại trên con đường hòa bình.
Ðức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời
nguyện:
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Ðấng Cứu Chuộc đã
Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường
đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.
(Bài giảng Lễ Giáng Sinh của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô
II)
37. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"
Lễ Noel là lễ của chia sẻ, lễ của bác ái. Chia sẻ
không chỉ cơm bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn chia sẻ tình người cho
anh em đang sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống cần cơm bánh để lớn
lên và cũng rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó, mà khi nhập thể làm
người Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy nga, trong hoàng
thân quốc thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia đình lao động bình
thường giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con người nghèo đói cơ
hàn, những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã từng nói rằng:
"Hỡi những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp
đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần truồng, bị bỏ rơi,
tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón ân cần". Ngài
đã đồng hoá mình với những người khổ đau để con người biết vì Ngài mà biết
thương nhau, biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà hy sinh cho
nhau, mà đón nhận lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con
người bị loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu cảm thông, những cái nhìn tẩy
chay của con người dành cho nhau. Xem ra Thiên Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng
biết rằng Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố
tình loại trừ lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi anh em của mình một cách bất
khoan dung. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến Chúa, thế
nhưng, có mấy ai đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì Chúa mà sống khoan
dung, tha thứ cho nhau. Ðôi khi, chính cách đối xử bất khoan dung đó đã khiến
anh em không có cơ hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
Người ta kể rằng: Trong một xóm đạo nhỏ ở một miền
quê hẻo lánh, có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp được người đời đặt
cho biệt hiệu: "Hiền bụi đời". Với thành tích, trộm cắp và gây mất
trật tự thôn xóm, anh đã bị tập trung cải tạo. Thời gian anh cải tạo là thời
gian xóm làng bình an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi không có anh. Cho đến
khi nghe tin Hiền bụi đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời gian dài trong trại
giam. Người dân xem ra chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu người ta lại nghe
tiếng búa, tiếng đục cửa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo để chống trộm.
Hôm ấy, hắn trở với khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống
mới để cải tà quy chính, một cuộc sống lương thiện như bao người khác. Ðối với
hắn, dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì
Năm hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những người dân trong xóm.
Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn
tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo lui. Không lâu sau
đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: "Vì muốn
trả thù đời".
Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp tục cuộc sống trộm cắp vì
sự loại trừ của đồng loại. Anh không được đón nhận trong cuộc đoàn. Anh bị
khước từ bởi lầm lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan dung của thôn xóm đã tạo
nên một Hiền bụi đời để trả thù đời.
Hôm nay ngày lễ giáng sinh, là dịp để chúng ta nhắc
lại với nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đang cần
chúng ta yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón
nhân. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng
mình. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài những cọng rơm hy sinh của nhịn
nhục, của bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài. Ngài đang cần chúng ta dành cho
Ngài hơi ấm của tình thương chia sẻ với tấm lòng quảng đại, nhiệt thành như các
mục đồng năm xưa.
Nguyện xin Ðấng Emanuel chúc lành cho những nghĩa cử
yêu thương cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận những hy sinh nhịn nhục và
bác ái vị tha của chúng ta dành cho nhau như là dành cho chính Ngài. Và cầu
chúc cho mỗi người chúng ta biết đón nhận nhau như là đón nhận Ðấng Emmanuel ở
cùng chúng ta để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử ấm áp
tình người và chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.
38. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh
(Is
9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật
thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi
dào cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ
về lễ Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ
Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa
âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là
một thứ âm nhạc.
Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm
ấy, người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau:
"Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể". "Ngôi Lời đã hóa thành nhục
thể" nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa
chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã
được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã
được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới.
Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.
Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai,
trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã
sống trong thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong
suốt ba mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa
thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao
thế? Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn
nói với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc
sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với
chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân
thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói
với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả
nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người
sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được
đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều
là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với
chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua
những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện
hữu của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một
thời đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người
chồng, Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng
chưa từng sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập
thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc
bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch
sử nhân loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được
cử hành trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho
Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi
chúng ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi
chúng ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho
dẫu chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống
này. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa
trong mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm
một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó
không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng
phút giây cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể
cũng tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của
chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng,
chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
CHÚ GIẢI
1. Chú giải của William Barclay
ĐƯỜNG VỀ BÊLEM (Lc 2, 1-7)
Trong đế quốc Rôma có những cuộc kiểm tra dân số định
kỳ nhằm hai mục đích: vừa để đánh thuế, vừa để tìm ra những ai đang ở tuổi làm
nghĩa vụ quân sự. Dân Do Thái được miễn nghĩa vụ quân sự, vì thế việc kiểm tra
dân số ở xứ Palestine chỉ có mục đích chính là đánh thuế. Về những cuộc kiểm
tra dân số, chúng ta có được những thông tin xác đáng về những gì đã được thực
hiện tại Ai Cập, và gần như chắc chắn rằng những gì đã được thực hiện tại Ai
Cập cũng thực hiện tại Syri và tại Giuđê, một phần của tỉnh Syri. Những thông
tin về các cuộc kiểm tra dân số được tìm thấy trong các tài liệu viết trên giấy
chỉ thảo phát hiện được trong các lớp cát bụi tại các thành thị, làng mạc Ai
Cập hoặc dưới lớp cát sa mạc. Các cuộc kiểm tra dân số như vậy cứ 14 năm diễn
ra một lần. Chúng ta có được các tài liệu kiểm tra dân số từ năm 20 SCN đến 270
SCN. Nếu chu kỳ 14 năm được giữ đúng ở Syri thì việc kiểm tra dân số đề cập ở
đây hẳn đã diễn ra vào năm thứ 8 TCN, đó chính là năm Chúa Giêsu được sinh ra.
Có thể Luca đã có một chút lầm lẫn, Quiriniô chỉ thực sự làm tổng đốc xứ Syri
vào năm 6 TCN, nhưng ông đã từng cầm quyền tại các miền đó từ năm 10 TCN đến
7TCN, và việc kể trên đã diễn tiến trong chính thời kỳ thứ nhất này. Các nhà
phê bình thường đặt câu hỏi: có phải mọi người đều phải về sinh quán của mình
để đăng ký không? Ở đây chúng ta nắm được chính sắc lệnh của nhà nước từ Ai Cập
như sau: “Gaius Vibius Maximus, tổng trấn xứ Ai Cập truyền lệnh: Xét rằng đã
đến kỳ làm sổ từng nhà, nên cần bắt buộc hết thảy những ai, đã vì bất cứ lý do
gì mà hiện đang cư trú ngoài địa phận mình, phải trở về quê nhà, để có thể thi
hành lệnh kiểm tra dân số theo quy định, và cũng để có thể chăm lo việc cày cấy
đất ruộng mình”. Nếu đó là trường hợp tại Ai Cập thì cũng chính là trường hợp
tại Giuđê là nơi còn giữ kỹ những gia phả dòng tộc và đàn ông phải về bản doanh
của bộ tộc mình. Đây thêm một bằng cớ giúp ta hiểu biết hơn về sự chính xác của
Tân Ước.
Con đường từ Nagiarét tới Bêlem dài 128 dặm, những
tiện nghi cho khách trọ rất sơ sài. Quán trọ bên phương đông thời bấy giờ giống
như từng dãy chuồng ngựa có cửa mở ra một cái sân chung. Mỗi khách trọ tự liệu
thức ăn cho mình, chủ quán chỉ cung cấp đồ ăn cho súc vật và một bếp lửa để nấu
nướng. Có đông người quá nên không còn chỗ cho Giuse và Maria, thế nên con trai
của Maria đã sinh ra nơi khoảng sân chung đó. Khăn bọc hài nhi là một cái tã.
Trước tiên người ta bọc hài nhi trong tấm vải vuông rồi quấn băng dài chung
quanh mình nhiều vòng. Chữ được dịch là máng cỏ, nơi để súc vật ăn, có thể đó
là một chuồng bò hoặc một máng cỏ. Việc quán trọ không còn chỗ tượng trưng cho
những gì xảy ra cho Chúa Giêsu. Chỉ một nơi có chỗ cho Chúa Giêsu là thập giá.
Ngài tìm một lối vào trong những tấm lòng chật chội của loài người mà không tìm
được, và Ngài vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm, mặc dù vẫn cứ bị chối bỏ.
MỤC ĐỒNG VÀ THIÊN SỨ (Lc 2,
8-20)
Một điều lạ lùng là câu chuyện cho chúng ta biết bao
lời báo tin đầu tiên của Chúa được gửi đến cho các người chăn chiên. Vào thời
bấy giờ, giới mục đồng bị những người chính thống coi khinh. Họ không có đủ khả
năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các
nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên,
vì thế, giới chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Chúa trước tiên đã
đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng. Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ
là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ, sáng và chiều đều có một con chiên
không tì vết làm của lễ dâng lên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ toàn vẹn
và không tì vết ấy, các quan chức cai quản Đền Thờ nuôi riêng những bầy chiên
của họ, và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin
là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ.
Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm người coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những
người đầu tiên được ngắm xem chiên của Thiên Chúa là Đấng xóa tội lỗi thế gian.
Chúng ta đã biết khi một bé trai được sinh ra thì các
nhạc sĩ địa phương tụ tập lại nhà để chúc mừng bằng một khúc nhạc đơn sơ. Chúa Giêsu
đã sinh trong một chuồng bò ở Bêlem, vì thế chi tiết đã không được thực hiện.
Thật vô cùng ý nghĩa khi đoàn ca sĩ trên trời thay thế các ca sĩ dưới đất và
các thiên sứ đã hát những bản ca ngợi Chúa Giêsu là những bản nhạc mà các ca sĩ
trần gian không hát nổi.
Qua những lời Kinh Thánh này, chúng ta phải suy tưởng
đến vẻ đơn sơ thanh bạch trong sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Chúng ta dễ
nghĩ rằng nếu Con Thiên Chúa ra đời, thì chắc Ngài sẽ sinh ra trong một đền đài
hay một dinh thự. Ngày xưa, ở Châu Âu, có một ông vua thường khiến triều thần
lo ngại vì ông hay cải trang để trà trộn vào dân chúng. Khi quần thần yêu cầu
ông đừng làm thế vì lý do an ninh, thì ông trả lời “Trẫm không thể trị dân nếu
trẫm không biết nhân dân ta có một Thiên Chúa hiểu thấu đời sống chúng ta, vì
Ngài đã sống cuộc đời như chúng ta, không đòi hỏi gì khác hơn một đời sống bình
thường”.
2. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN
CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy,
có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh trước. Đối với Người Con của Đức
Maria, Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra, trong khi việc cắt bì và đặt tên
ông chỉ nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này ngược với trường hợp của Gioan.
Phần khác, một mặc khải đi liền theo sau việc cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc
tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa
Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10). Và nhất là, đối với Chúa Giêsu,
cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.
Các câu 1-7 trình bày việc kiểm tra dân số, hành
trình của cha mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ của Xêda Augustô gây
khó khăn về phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho tiến hành kiểm tra dân
số xứ Giuđêa khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp của Rôma; điều đó đã
gây ra cuộc nổi loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có Giuđa người Galilê nổi
lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị
diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác). Nhưng vào khoảng năm 6
hoặc 7 SCN, lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi rồi –Người sinh ra dưới triều
Hêrôđê (Lc 1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm 4 TCN. Như vậy Luca đã lầm
khi, trong bài khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký Chúa Giêsu vào lịch sử thế
giới– ông sẽ làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và cũng tỏ bày cho thấy Thiên
Chúa sử dụng sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ, Thiên Chúa còn sử dụng các
luật lệ La Mã để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin Mừng ở Rôma… nhất là điều đó
đã là một cái cớ cho cuộc hành trình, là một cái cớ bởi vì những cuộc kiểm tra
như thế luôn luôn làm ở nơi thường trú chứ không làm ở nguyên quán.
Thực ra nhờ truyền thống (x. Mt 2,1) Luca biết rằng
con trẻ sinh ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm này cho phép nhấn mạnh một
lần nữa rằng Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy nhiên, Luca không trích
dẫn sấm ngôn của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm thấy những trích dẫn rõ
ràng ở Luca 1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành trình không phải chỉ là
Bêlem mà chính là một máng cỏ trong thành này. Phòng trọ chật chội đến nỗi phải
đặt em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này được dùng tới ba lần (c.
7.12.16) và điều ấy muốn nói rằng đó là kết quả của sáng kiến của Thiên Chúa.
Mà có nơi nào ý nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng máng cỏ? Như vậy là chúng
ta được quy hướng tới mấy chú mục tử này.
Luca lại dùng một lần nữa công thức thần học:
“(những) ngày bà phải sinh con đã tới (hoàn tất)”, ông nói đến con trai đầu
lòng để chuẩn bị cho việc dâng con trong Đền Thờ (2,23).
Bây giờ đến cảnh mặc khải cho các mục tử (cc. 8-14).
Tại sao những người làm một nghề như thế lại được đón nhận mặc khải này? Hẳn là
có một liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn
đàn súc vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11; 17,15), nhưng Luca không nói rõ về
chuyện ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là các mục tử ở Palestin vẫn bị mang
tiếng xấu, người ta thường coi họ là những kẻ bất lương và trộm cắp. Sách Tamud
Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị coi là kẻ tội lỗi: “Những mục tử
và những người thu thuế thì khó mà sám hối được”. Những người bị khinh dể ở cấp
bậc thấp nhất trong xã hội lại là những người đầu tiên được nói đến nhờ việc
đản sinh của một em bé có mẹ là một người khiêm hạ (1,48) và sẽ mang Tin Mừng
đến cho những người nghèo (4,18). “Tác động hướng về máng cỏ là dấu chỉ cho
những người chăn chiên tội lỗi nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến (B. Trémel);
con trẻ sơ sinh đã là người sẽ đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn uống đồng bàn
với họ (15,2)
Mặc khải đích thực (cc. 9-12) có nhiều yếu tố nhắc
nhở những trình thuật về việc báo tin cho ông Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có
các vấn nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên Chúa thay thế cho thiên sứ
Gabriel, việc đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một
niềm vui lớn: Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh
là Đấng Kitô Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi, là những người nghèo và dân tộc
bé nhỏ. Ba tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng niềm phục sinh của Giáo Hội, hai
tước hiệu cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu thứ nhất ở môi trường lương dân
để đi đôi với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như vị cứu tinh. Như vậy, lời loan
giảng của Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực hiện sau này đã được mặc khải cho
các mục tử.
Dấu chỉ –có ở đây như ở trong hai trình thuật báo
tin, nhưng các người chăn chiên không đòi hỏi– thì rất trái ngược với tước hiệu
Kitô học: điều đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được
bọc khăn, Hài Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ chứ không phải là trong một
chiếc nôi ở một đền đài đế vương nào đó. Độc giả có thể ngạc nhiên trước sự
kiện dấu chỉ không có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có thể chờ đợi Đấng Mêsia
sinh ra với những dấu chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ ở Mt
2,2-9), dấu chỉ ở đây thích hợp với Đấng sẽ là vị Mêsia khiêm tốn và đau khổ
của những kẻ nghèo, dấu chỉ ấy đặc biệt am hợp với những người chăn chiên.
Bấy giờ có tiếng khen ngợi của một nhóm đông vô kể
của các thiên sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa tuyên bố Tin Mừng; bài
thánh thi ngắn gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra quyền năng của Thiên
Chúa, Đấng, qua việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ đem lại bình an, yên
ổn, hòa hợp và thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng nhân hậu Ngài. Không
đặt vấn đề thiện tâm mà con người có hay không để đón nhận hồng ân của Thiên
Chúa.
Cảnh diễn ra trong các câu 8-14 tập trung vào những
vị sứ giả từ trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen có tính cách phụng vụ.
Tin Mừng từ Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử trước khi họ loan truyền
cho dân. Như ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt thấy được bị hạn chế tối
đa.
Cho tới lúc đó, các mục tử ở trong tư thế thụ động;
họ không còn thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó thuật lại ba phản ứng
(cc. 15-20): phản ứng của các mục tử, phản ứng của những người nghe họ kể lại
và cuối cùng là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy những sự việc như thiên
thần đã loan báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên thần; khi nghe họ dân
chúng ngạc nhiên – như bà con của ông Giacaria (1,63), như cha mẹ của Chúa
Giêsu (2,23). Câu 20 còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi từ máng cỏ trở về,
họ làm nhiệm vụ của các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa (xcc.
13-14). Về phần Đức Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận (câu 19 trong đó
dội lại câu 51 chương 2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết rằng con mình sẽ là
Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là Đức Chúa; từ các mục
tử đã được sứ thần loan báo, Người biết rằng con mình là Đấng Cứu Tinh. Nhưng
một cách cụ thể các tước hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức Maria suy nghĩ về tất
cả những điều đó trong lòng, chính là vì Người chưa hiểu hết ý nghĩa như chương
2 câu 50 xác minh.
Câu 20 là chuyển tiếp qua cảnh sau: như đối với người
con của ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường như quan trọng hơn nghi thức
cắt bì; cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên
là đối tượng của một khai triển dài đối với vị tiền hô, nhưng ở đây lại không
phải như vậy.
3. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM
VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG(Lc 2,1-14)
VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG(Lc 2,1-14)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bóng tối của một sự ra
đời...
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca
không muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện
đại của từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu
độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử
chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với "sắc lệnh của hoàng
đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ." J. Potin suy
diễn thêm: "ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần.
Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời
Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số
Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể
là năm Đức Giêsu sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử có thật",
Centurion tr. 93).
-
Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức
Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem "thành
của Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ
sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về
Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới
là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng
cỏ " ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc
Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong "phòng tập thể”: (sau
này chúng ta sẽ gặp lại "phòng tập thể" trong Luca, đó là phòng tiệc
ly: Lc 22,11).
2. Sẽ soi sáng mọi đêm
tối"
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của
cảnh ra đời, này đây "trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát
vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau,
những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của
thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp
với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin,
chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất
lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân
mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại". những người bị khinh
chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên
được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ "
(Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó
(4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn
với họ " (15, 2) ("Tin Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
-
Sứ điệp mà "các thiên thần của Chúa" mang đến cho họ là một "Tin
Mừng" (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho "Toàn
dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước
hiệu: "Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia ", "Chúa " đạt
được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của
Thiên Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng Mêsia” (Kitô), "Chúa”, ba
tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ
thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và của Phaolô (Cv 13,33...).
-
"Dấu chỉ" cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm
trong máng có", để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn
cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ
trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng
Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của
súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc
trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó
vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự
cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự
hèn yếu ("Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học", Cerf, tr.
36).
-
Lời tạ ơn “đột nhiên" vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều
kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng
kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số
ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an
dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã
mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên
dân Ngài sự "bình an" mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự
đảm bảo vật chất của nền "hoà bình Rô-ma" Mà Con người chờ đợi ở
Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong
đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường
để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm
trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã
nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong
cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Từ Bêlem đến Phục Sinh”
(A.George, trong "Assemblées du
Seigneur", số 10, tr. 6f' 67).
"Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại
Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội.
Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định,
nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự
kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu
độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi
ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn
nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là
như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến
tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những
ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng
ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin
rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn
sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa
trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả
mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ
điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức
Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến
chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một
chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta
phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì
Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá
của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với
những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh
làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang.
Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng
hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải
tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được
một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón...
bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang
Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa
nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện
Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để
dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của
đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ
và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng
mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa
giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của
chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo
Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, "chính
trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C r 12, 9 ) .
2. "Đã 2000 năm"
(Mgr. F.Favreau trong
"Mùa Vọng năm 2000", Documents " épiscopat, số 14, tháng 10, 1
996).
(Tạm
dịch)
Hai
ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm
vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng
con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên
vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat
dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sứ giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sứ giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh
Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt
con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM
VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Lời Tựa là một Thánh
Thi
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức
Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu "trình thuật về
những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta " (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn
một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới
thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II
Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa
dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát
trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống
như khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối
kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: "Để mở đầu cho Tin
Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một
bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc
cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài
khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân
thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò
của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự
Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu
việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân
Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn
Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở
với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11)
rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung
lòng Thiên Chúa”, " ("L Evangile de Jean", Centurion 1 992,
trang 31).
2. Ca ngợi cuộc hành trình
của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+
Hai từ đầu tiên “Khởi đầu" liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những
chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của
mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu "như điểm hoàn tất
của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên
Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa
giữa loài người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+
Trước hết, thánh thi nói đến "Ngôi Lời Thiên Chúa" (danh hiệu của
riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời
với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: "Ngôi Lời
vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc
tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: "Nhờ người vạn vật được
tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người
trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên
thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự
Sống" và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng
sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống
siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh
sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
- Chứng tá của Gioan Tẩy
Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của
Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: "Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước,
đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên
Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là
Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là
Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: "ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông
đến để làm chứng về ánh sáng”.
- Ánh Sáng đã đến trong thế
gian.
+
Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế
gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp
phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không
nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là "gia nhân của Người”,
dân của Lời hứa, dân của Giao ước, "đã không đón nhận Người”.
+
"Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người
cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
- Ngôi Lời đã trở nên người
phàm.
+
Gioan đã viết "người phàm”, theo đúng chữ là "trở nên xác thịt”; từ
"xác thịt" ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý
nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+
"Người cư ngụ giữa chúng ta" ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người
giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến "nơi
ở" của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân
Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi
bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên
người phàm: (Ga 2,19-22: "Chúa nói về Đền thờ thân xác Người").
+
"Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người" trong con người
Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của
Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
- Đức Giêsu Kitô đã mạc
khải Thiên Chúa vô hình.
"Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng
Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính
Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: "Bài Thánh Thi đã khởi đầu
từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng "Con Một
ở nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu,
cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: "Người bởi Thiên
Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong
"tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy
Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu,
anh em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà
Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ
yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy"
(14,23)" ("Lire de Bible", số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Một câu không có "động từ " thì không có nghĩa
("Bible du Dimanche" trang
51 1-512).
(Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là
động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ,
nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà
đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã
nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong
yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi
người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng
nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm
sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai
đã được thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy
Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết,
Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng
rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong
Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu
có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc
Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý;
Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ
có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và
đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và
trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".
2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên
Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
(L. Sintas trong
"Parole de diệu pour la méditation ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul.
trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu
nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu,
mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha
mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng
đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây
stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một
thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này
thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công
trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
-
Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa.
Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. Nhờ
người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo
thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không
thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự
trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên
Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở
giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận
biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo
thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên
thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể,
thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước
từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa,
chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không
đồng ý.
Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân
Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ
khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên
Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét
xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi
phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó
là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và
vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho
Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng
không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng
những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền
trở nên Con Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được
vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh
cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể
nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập
giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự
mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó
ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược ("Célébrer" số
264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi
Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”,
"nhờ người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt
kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công
cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử
nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm
Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật
về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong
việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy
sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà
Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một
ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người.
Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý
nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết
Người và giao tiếp với Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở
trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi"
để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một
cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: "Điều vẫn có
ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về
điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu
Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và
xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi
đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối
không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên
tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem
ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm
nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người
phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được
tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua
mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất,
qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành
và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay
mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".
4. Chú giải của Noel Quesson
Lc 2, 1-14
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian.
Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta.
Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm" nội tâm hơn:
Trình thuật của ông là một “nhập đề" thần học dẫn vào Tin Mừng của ông,
một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra
dân số trong khắp cả thiên hạ
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ
năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho
Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là
"Sebastos", có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ". Khi sử dụng tước
hiệu diệu kỳ của một ông "vua trần gian" như trên, Luca muốn minh
chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh
như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông
Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách
thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng,
cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ
cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của
dân chúng... để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên
tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế,
ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê"
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà
Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp
chút nào). Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của
chúng ta" . Và những biến cố là "những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay
trao cho chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó,
đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì
đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc
của Đavít
Luca "giải thích" biến cố dưới ánh sáng của
lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là "cứu Chúa” mà "một thiếu nữ
Sion phải hạ sinh”, "trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê", giữa
những người nghèo khổ, thuộc "số nhỏ còn lại"... trong "thành của
Đavít". Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều
người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang,
mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di... Thiên
Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước
vào trong thế giới "kín mật", một cách bất hợp pháp. Người đã vượt
lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào "những nhà hữu trách" chịu
chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng
về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không
màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp
với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập
để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên
Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy
đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: "Với hôn thê của mình là
Maria, lúc ấy đang có thai". Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc
diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng
Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là "trinh nữ” Vậy
mà, cô lại "có thai"! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức
của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ
có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng
sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh
khiết chỉ mình Thiên Chúa là "Cha" của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê
đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai
hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác
hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé
thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn
toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình
ảnh Ta" các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái
mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong
manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ
cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử
chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai...
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà
không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ
cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn
đủ khả năng để "nhận ra" cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để
hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra
" Từ giờ trở đi", Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ
giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta .
Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở "củng chúng
ta". Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm
giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện diện trong một
"hang" bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật
là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái
độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu
đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã
mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong
Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và
tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu
thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời
canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên
nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế,
thực sự những "người chăn chiên", trong quan niệm thời đó, là biểu
tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi
thường. Họ được kể như loại người sống "ngoài luật pháp”. Người ta coi họ
như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân
sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có
giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong
các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ
tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch,
họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng "quê mùa"!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển
chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ "bé mọn", những người
"nghèo khổ" những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một
trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của
Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật
này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một
diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác.
Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ
ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình.
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc
này, trong toàn bộ Kinh thánh. "Vinh quang" là dấu chỉ sự hiện diện
của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi,
Vinh quang này bao trùm những người nghèo. "Những gì anh em làm cho kẻ bé
mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên!
thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em
đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho
toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được
tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói" của họ
là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi
"Truyền đạt" của Thiên Chúa đều là "Tin Mừng tin vui". Đây
còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ "phổ quát”
cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít,
Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời "truyền
đạt" của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ
công bố "giấy chứng minh" đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng,
với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos
3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa
trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để
ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức
Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn
tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc
kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và
mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách "Cứu
Chúa" này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: "Anh em sẽ gặp thấy
một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng
Cứu độ: đó là sự "nghèo khó" và "yếu đuối"! Hãy ngừng chạy,
hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng
bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của
"ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn"
(Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi
khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế
cho loài người Chúa thương".
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng
dịp rước lá (Lc 19,38).