Ngay lúc này đây, chúng ta có
thể chưa cần sự chữa lành phần xác nhưng chắc chắn chúng ta cần sự chữa
lành tâm linh. Đây là cách áp dụng phép lạ này cho chúng ta. Tội lỗi có
thể được xem như một bệnh liệt thiêng liêng ảnh hưởng đến toàn bộ chúng
ta. Nó ảnh hưởng đến tâm linh chúng ta, làm suy yếu khả năng yêu thương
của chúng ta. Nó ảnh hưởng đến ý chí chúng ta: Chúng ta không thể cương
quyết từ bỏ điều xấu và cam kết vĩnh viễn với điều tốt. Nó ảnh hưởng
đến tinh thần chúng ta: Chúng ta không thể sống trong tự do, hy vọng và
vui mừng...
CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Is 43,18-19.21-22.24b-25; 2Cr 1,18-22;
Mc 2,1-12
MỤC LỤC
1. Niềm vui được giải thoát
Trong quyển sách “Tên buôn lậu của Thiên Chúa” mà tác
giả là một vị linh mục thừa sai người Hà Lan, có thuật câu chuyện về một chú
khỉ như sau: Ngày nọ, vị thừa sai đang đi
truyền giáo ở Inđônêxia có mua được một con khỉ rất dễ thương từ một người bản
xứ. Nhưng sau đó ông nhận thấy chú khỉ này thường nhăn mặt và kêu lên đau đớn
mỗi lần ông chạm phải thắt lưng chú ta. Sau khi quan sát kỹ lưỡng, ông khám phá
ra có một vết sưng ngang hông vòng quanh người chú khỉ. Ông liền đè chú khỉ ra,
vén lớp lông phủ quanh vết sưng để tìm nguyên nhân. À thì ra từ khi chú khỉ còn
bé xíu, người chủ cũ đã dùng một sợi dây thép buộc ngang hông để làm chỗ cột dây
và cho tới nay sợi dây thép đó vẫn chưa được tháo ra.
Khi chú khỉ này ngày càng
lớn lên, thì sợi dây càng lặn sâu thêm vào da thịt chú. Chiều hôm đó, vì thừa
sai quyết định giải thoát cho chú bằng cách dùng một lưỡi lam cạo sạch vùng
lông bao quanh sợi dây, rồi cắt sợi dây thép và từ từ kéo ra khỏi da thịt con
vật tội nghiệp. Trong thời gian làm việc này, chú khỉ kiên nhẫn nhắm mắt và im
lặng chịu đau. Rồi đến khi vị thừa sai lấy được sợi thép ra thì chú ta mừng quá
nhảy tới nhảy lui rồi ôm chặt lấy vai vị thừa sai. Thế là chú khỉ đã được giải
thoát khỏi sợi dây kẽm gây bao đau đớn mà chú phải chịu đựng bấy lâu. Chú ta tỏ
ra rất vui mừng vì được tự do và bày tỏ lòng biết ơn đối với người vừa giải
thoát cho mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm
nay. Khi Đức Giêsu nói với người lại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi”,
và nhất là sau lời Ngài tuyên bố: “Ta truyền cho con hãy đứng dậy, vác lấy
chõng của con và đi về nhà!” anh ta vừa được tha tội vừa được giải thoát khỏi
chứng bệnh tê liệt, vốn là hậu quả của tội, ắt hẳn anh ta cũng cảm thấy vui
mừng hân hoan. Anh ta đã lập tức vác chõng ra về, vừa đi vừa dâng lời ca tụng
ngợi khen Thiên Chúa.
Có người nào trong chúng ta nhiều năm sống lạc xa
Chúa, ngụp lặn trong đam mê tội lỗi bất chính và tâm hồn luôn phiền muộn bất
an. Thế rồi một ngày kia, được ơn Chúa trợ giúp, người ấy quyết tâm giải thoát
mình khỏi tình trạng tội lỗi ấy bằng cách dọn mình đi xưng tội. Nhờ thành tâm
sám hối, người ấy đã xưng thú mọi tội lỗi và cảm nhận được một niềm vui lớn lao
trong tâm hồn sau khi ra khỏi toà giải tội. Vậy điều quan trọng nhất để được
tha tội là gì? Đó là phải “sám hối ăn năn” vì lòng sám hối ăn năn chính là một
thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ, chính là những bước chân đầu tiên trên con
đường trở về cùng Chúa, chính là sự cộng tác nhỏ bé, nhưng lại rất cần thiết
của chúng ta với ơn Chúa tha thứ. Vì như lời thánh Augustino đa viết: Để tạo
dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng
ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Người, bởi vì Ngài sẽ không thể
cứu chuộc chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.
2. Đức tin trong sáng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người bại liệt chịu nhiều thiệt thòi. Không làm được
những việc cần làm. Không đến được những nơi muốn đến. Đức Giêsu làm phép lạ
chữa nhiều bệnh. Tin ấy lan tới mọi hang cùng ngõ hẻm thành Ca-phác-na-um.
Người bại liệt nghe biết, nhưng ông không làm cách nào đến gặp Đức Giêsu để xin
Người chữa lành. Đó là hình ảnh của những tâm hồn bại liệt. Chúa vẫn rộng rãi
ban phát ân huệ của Người, nhưng những tâm hồn bại liệt, dù muốn cũng không thể
đến lãnh nhận được.
Có tâm hồn bại liệt vì yếu
đuối. Tâm
hồn yếu đuối bị những đam mê, dục vọng đè bẹp, không sao chỗi dậy được. Đam mê,
dục vọng giống như những sợi dây, rất mềm mại nhưng cũng rất chặt chẽ. Tâm hồn
bị đam mê, dục vọng trói buộc sẽ trở nên tê liệt, thấy những điều tốt đẹp nhưng
ngại ngùng phấn đấu, mất hết ý chí chỗi dậy, vươn lên.
Có tâm hồn bị bại liệt vì
do dự. Tâm
hồn do dự có nhiều ước muốn tốt đẹp, nhưng cứ mãi băn khoăn suy tính, rồi cơ
hội qua đi mà vẫn không làm được điều mong muốn. Truyện ngụ ngôn kể lại: có con
ngựa vừa đói vừa khát. Người ta đem đến một máng cỏ và một máng nước. Con ngựa
cứ quay sang máng nước rồi lại quay sang máng cỏ, không biết nên ăn hay nên
uống trước. Sau cùng nó chết vì đói và vì khát. Ngạn ngữ Pháp có câu: Hỏa ngục
được lát bằng những ước muốn tốt. Ước muốn suông mà không làm sẽ chẳng giúp
thăng tiến thân phận con người.
Có tâm hồn bị bại liệt vì
chai đá.
Tâm hồn chai đá hoàn toàn mất hết khả năng ước muốn điều lành, thờ ơ với việc
thăng tiến bản thân, dị ứng với những việc đạo đức. Đây là thứ bại liệt đáng sợ
nhất.
Người bại liệt trong Tin Mừng đã tìm ra phương thế để
đến với Chúa. Ông nhờ những người thân khiêng tới. Cảnh 4 anh em khiêng người
bại liệt, trèo lên mái nhà, rỡ ngói, thả chiếc cáng xuống trước mặt Đức Giêsu,
cho ta thấy một đức tin đơn sơ trong sáng.
Đức tin đơn sơ trong sáng không suy tính, do dự, nhưng cương
quyết bắt tay vào việc làm. Nhìn thấy việc phải làm, họ bắt tay vào làm ngay không để
chậm trễ, không mất thời giờ bàn bạc, so đo, tính toán, trốn tránh trách nhiệm.
Biết người bệnh cần gặp Đức Giêsu, họ lập tức đi tìm cáng và bảo nhau khiêng
người bệnh đến ngay.
Đức tin đơn sơ trong sáng lập tức lên đường, không chịu ngồi
lỳ một chỗ. Đã quyết là lên đường ngay, không ngần ngại vì đường xa, không e dè vì
gánh nặng. Họ khiêng người bệnh, nhưng bước chân vẫn thoăn thoắt, ánh mắt vẫn
tin tưởng, nụ cười vẫn vui tươi vì tâm hồn họ luôn luôn sẵn sàng lên đường.
Đức tin đơn sơ trong sáng giúp họ đồng tâm nhất trí với
nhau. Niềm
tin chân thực loại trừ mọi xung khắc bất đồng, dẫn đến đoàn kết, hợp tác, cùng
nhau làm những việc tốt có ích lợi cho người khác.
Đức tin đơn sơ trong sáng không lùi bước trước khó khăn. Gặp đám đông vây quanh,
chắn lối đến với Đức Giêsu, họ không sờn lòng nản chí, không bàn chuyện tháo
lui, nhưng cương quyết tìm biện pháp khắc phục những khó khăn. Đã nỗ lực đổ mồ
hôi để khiêng người bệnh đến, giờ đây họ lại phải nỗ lực vận dụng mọi trí não
để tìm cách đưa người bệnh đến tiếp cận Đức Giêsu. Đức tin trong sáng đã làm
cho trí khôn họ trở nên sáng suốt. Họ mau chóng tìm được một lối khác để đến
với Người.
Đức tin đơn sơ trong sáng có những sáng kiến tuyệt với, táo
bạo. Không
vào được cửa chính, họ trèo lên mái nhà. Không có cửa thì họ làm ra cửa. Tháo
rỡ mái nhà quả là một biện pháp táo bạo. Biện pháp táo bạo càng chứng tỏ đức
tin mãnh liệt của họ.
Đức tin trong sáng có sự tế nhị nhẹ nhàng. Chắc chắn họ phải xin phép
chủ nhà và sau đó, phải lợp lại mái nhà hẳn hoi tử tế. Trước sự tế nhị của họ,
chắc chắn chủ nhà phải hài lòng và cảm phục.
Đức tin trong sáng không nhiều lời. Tự những việc làm đã nói
nhiều hơn những bài diễn văn lê thê. Họ chưa nói lời nào để cầu xin Chúa, nhưng
nhìn thấy người bệnh được thòng xuống trước mặt mình, Đức Giêsu và tất cả mọi
người đều thấy được đức tin của họ, và Đức Giêsu đã chữa bệnh trước khi họ cầu
xin.
Nhìn vào đức tin trong sáng của 4 người khiêng, ta
thấy đức tin của mình đang còn bị tê liệt, không hoạt động. Ta bị tê liệt vì
những đam mê dục vọng trói buộc. Ta bị tê liệt vì những lười biếng thiếu cố
gắng. Ta bị tê liệt vì những ước muốn nửa vời. Ta bị tê liệt vì lòng nguội lạnh
thiếu nhạy cảm trước những nhu cầu thiêng liêng.
Hôm nay, ta hãy noi gương 4 người khiêng bệnh nhân.
Hãy ra khỏi tình trạng tê liệt tâm hồn. Hãy lên đường, ra đi đừng ngại ngùng,
do dự. Hãy biến đức tin thành những việc làm chuyên chở đức bác ái. Hãy phấn
đấu vượt qua mọi khó khăn. Hãy sống đức tin một cách sáng tạo, vui tươi và đoàn
kết. Một đức tin như thế sẽ trở thành ngọn đèn phá tan đi bóng tối đang phủ vây
giăng mắc, soi đường cho ta đi đến với Chúa, cùng đích của đời ta.
Lạy Chúa, xin hãy thêm đức tin cho con. Amen.
Câu hỏi gợi ý để chia sẻ
1- Tình trạng đức tin của bạn
hiện nay ra sao? Đang hoạt động hay bị tê liệt?
2- Đức tin của bạn đang bị
những chứng tê liệt nào?
3- Khi nhìn ngắm đức tin của
những người khiêng bệnh nhân bất toại, bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn? Lòng
tin của bạn còn thiếu những nét nào?
4- Đức tin trong sáng có những
đặc điểm nào?
3. Bại liệt
Suy niệm
Khi người bại liệt được đưa xuống trước mặt Đức
Giêsu, Ngài cảm nhận ngay lòng tin mạnh mẽ của họ.
Lòng tin không chịu lùi bước trước khó khăn: phải
vượt qua đám đông chật cứng trước cửa.
Lòng tin tìm ra con đường khác thường để đến với Đức
Giêsu: không qua bằng cửa chính, nhưng bằng lỗ hổng ở mái nhà.
Lòng tin mang tính tập thể, đồng tâm nhất trí: người
bại liệt cần bốn người bạn khiêng mình, bốn người khiêng đồng ý cùng nhau giúp
người bại liệt.
Lòng tin đòi nỗ lực, đổ mồ hôi: khoét một lỗ to,
khiêng lên mái, rồi từ từ thả xuống.
Lòng tin đòi sự tế nhị, nhẹ nhàng: phải xin phép chủ
nhà và phải sửa lại mái nhà sau đó, phải khéo léo khi dỡ mái ngay trên chỗ Đức
Giêsu ngồi.
Lòng tin đòi sự liều lĩnh: có thể Đức Giêsu coi việc
làm như vậy là khiếm nhã, có thể Ngài bực bội vì bài giảng của mình bị xáo
trộn.
Người nằm chõng và các người khiêng đều có lòng tin. Nhìn
họ, ta thấy mình tin ít biết chừng nào. Tin đâu phải chỉ là thái độ của ý chí,
mà của cả con người, đầu để nghĩ, tay để làm.
Nhìn họ, ta thấy mình chưa thực sự biết muốn. Nếu ta
thực sự muốn và thực sự tin vào Chúa, thì ta đã có thể ra khỏi sự bại liệt của
mình từ lâu.
"Này con, các tội của con được tha".
Người bại liệt chờ được khỏi, còn Đức Giêsu lại tha
tội cho anh. Phải chăng tội là nguyên nhân cội rễ của sự bại liệt?
Có lần Đức Giêsu nói với một người bại liệt khác: "Anh
đã được khỏi. Đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn hơn" (Ga 5,14).
Tha tội là chữa bệnh bại liệt của tâm hồn. Như thế cuối
cùng anh được giải phóng cả hồn lẫn xác. Khi anh đứng dậy, vác chõng mà đi về
nhà, chúng ta thấy anh được tự do, hết bị trói buộc: trói buộc vào chõng và
trói buộc vào tội.
Các kinh sư bực bội khi nghe câu: "Tội con được
tha." Họ hiểu là Đức Giêsu tự cho mình quyền tha tội. Như thế là phạm
thượng, là tiếm quyền của một mình Thiên Chúa.
Chúng ta cần nhìn các kinh sư. Họ ngồi một chỗ, không
hề mở miệng, chỉ nghĩ trong lòng. Họ bị khô cứng, kẹt cứng trong một nguyên tắc
đúng. Họ không tin Thiên Chúa có thể chia sẻ quyền này cho Đức Giêsu. Ngay khi
người bại liệt đi được, có lẽ họ vẫn không tin. Họ vẫn ngồi đó với những định
kiến của mình. Cả thân xác lẫn tinh thần của họ không dám chuyển động, không
dám mở ra để thấy cái gì khác hơn, mới hơn mà trước đây họ chưa hề nghĩ tới.
Rốt cuộc thì ai bại liệt hơn ai?
Xin Chúa cho chúng ta thấy mình dễ bị bại liệt, dễ
khép lại trong những xác tín và công thức chắc nịch, đến nỗi mất khả năng đón
nhận những vén mở bất ngờ của Chúa.
Gợi ý chia sẻ
· Khi nhìn ngắm lòng tin của người bất toại và bốn người
khiêng, bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn? Lòng tin của bạn còn thiếu những nét
nào?
· Các kinh sư không tin Đức Giêsu, vì họ tin chỉ mình Thiên
Chúa mới có quyền tha tội. Làm sao để lòng tin của chúng ta không làm chúng ta
khép lại trước những vén mở bất ngờ và mới mẻ của Thiên Chúa?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để
con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.
· Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi
trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
· Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà
mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô Hình, nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
· Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu
Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm
lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến
rũ của nó.
· Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa
mù của cuộc sống.
· Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ xát đau
thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi
niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.
4. Niềm tin bật nóc bật tường
Nhà ở đây nằm vuông vức dưới nắng Galilê, mái nhà làm
như sân thượng, bên ngoài nhà có một cầu thang nhỏ để leo lên… và đám đông bu
lại chật cứng ngôi nhà, lan ra chung quanh. Thế thì làm sao mà đưa được người
tê bại nằm chõng, cùng với bốn trự lực lưỡng khiêng chõng? Ôi thôi, kệ xác nó!
Nó, hoặc người nhà nó, đã làm cái gì đấy thì Đức Chúa Trời mới phạt như thế
chứ! Thời Đức Giêsu, người ta tin như đinh đóng cột rằng tàn tật, bệnh hoạn và
tội lỗi gắn bó với nhau.
Nhưng mấy cái tên ngổ ngáo này chẳng coi ai ra gì cả,
chẳng biết kiêng nể gì cả. Tội nghiệp, chúng kéo ngay người bệnh lên sân
thượng, rồi chúng khoét lỗ mái nhà. Mái này hẳn là mái đất trộn với rơm rạ: bao
nhiêu là người trong nhà đưa đầu đưa cổ ra để hứng bụi, hứng vữa… Bây giờ chúng
mới thòng chõng cùng người bại liệt qua lỗ mái nhà; người ta đành xô đẩy nhau
để tránh chỗ của chúng nó. Còn Đức Giêsu? Đức Giêsu nhìn thấy chúng nó có “lòng
tin”.
Cái gì điên hơn?
Niềm tin ư? Đó là chọc thủng mái nhà. Là đánh cuộc cả
đời mình trên cái vô hình, cái mà người ta không bao giờ nhìn thấy. Đó là dựa
vào Thiên Chúa để “sáng tạo” – để làm phát sinh cái chưa hiện hữu, cái mà người
ta chưa nghe nói đến, cái khó tin, đôi khi điên khùng: Chọc thủng mái nhà.
Tin, là khiêu khích cho Đức Giêsu làm cái không thể
làm được. Người sẽ nhận lời thách thức. Người cũng chọc thủng mái, mái này dầy
hơn mái nhà. Người sắp thâm nhập con người bại liệt kia, con người tù hãm kín
bưng trong tật nguyền của mình, để nói với hắn một lời chưa từng ai nghe, một
lời điên cuồng: “Tội lỗi của con đã được tha”.
Không! Có thể nào đập vỡ cái vỏ bọc kín con người khi
nó đã đặc, đã cứng qua bao nhiêu mối ngổn ngang, bao nhiêu bần tiện, bao nhiêu
đấm đá của cõi đời? Có thể nào kêu lên trong lòng nó: “Tội lỗi của con đã được
tha”, như thể đời nó sắp tìm lại được cái vẻ tươi mát của một khuôn mặt trẻ
thơ?
Cái gì điên hơn? Chọc thủng mái nhà, hay đột nhập vào
bên trong con người đó, mà mời gọi nó hãy sống như thể vừa sơ sinh?
Chọc thủng bức tường bê tông
thành kiến xã hội
Đã đành là có những người nhìn Đức Giêsu bằng cặp mắt
cú vọ. Những người muốn giữ gìn cuộc đời mình sao cho khỏi phải liều mình vì
chuyện không thể có. Họ đã bắt Thiên Chúa phục vụ cho não bảo thủ của họ. Để họ
còn có thể đem đồng loại nhốt chuồng, trói cọc: “Tại sao người này lại nói như
thế? Phạm thượng. Chỉ có mình Thiên Chúa mới có thể tha tội”.
Quang cảnh sắp trở nên quái lạ hơn nữa. Đức Giêsu đã
thấu rõ tâm tưởng họ, thế là Người dồn họ vào cơn sửng sốt tột độ. “Cái gì dễ
hơn? Nói với người bất toại: “Tội lỗi của con đã được tha, hay là nói: Hãy đứng
dậy, vác chõng mà đi?”. Ta như nghe được cả sự yên lặng nín thở của những người
chứng kiến. Đức Giêsu quay lại nhìn con người mà không còn sức đứng lên: “Hãy
chỗi dậy, vác chõng mà về nhà”. Maccô nói thêm như thể chính mắt vẫn còn nhìn
thấy: “Người ấy đứng dậy” (Mc 2,12) Cần phải nhắc lại: vào thời Đức Giêsu,
người bệnh bị coi như kẻ tội lỗi và do đó như một kẻ bị gạt ra bên lề xã hội.
Chuyện gì đã xảy ra? Đức Giêsu đã cho một người đứng
vững lại, đã hoàn trả hắn lại cho một cuộc sống “ra người” tưởng như đã tàn lụi
ở nơi hắn, đã cho hắn phục hồi chỗ đứng của mình trong xã hội, đã cho hắn bước
vào cuộc đời một lần nữa.
Đục mái, đục tường, đục thủng những gì làm tê bại
thân xác và lòng người, đục thủng bê tông thành kiến và những kỳ thị loại trừ
của một xã hội… để gọi đến đây cái không thể có, đó là chuyện xảy ra chung
quanh Đức Giêsu cách đây hơn hai mươi thế kỷ… và ngày nay?
Đức tin đã cằn cỗi rồi
chăng?
Người ta đã có thể tố cáo các người theo Kitô giáo là
có một đức tin không thay đổi gì thế giới, đôi khi lại còn tôn phong sự bất
công và những điều ngang trái đã trở thành cường quyền. Nhiều người ngày nay
nghĩ rằng Kitô giáo đã cạn nguồn sống phong nhiêu của mình đối với lịch sử, và từ
nay đạo khô cằn. Những lời trách cứ ấy không phải bao giờ cũng vô căn cứ, và
chúng ta phải nghe, không phải để nuôi dưỡng một thứ lo âu bệnh hoạn, nhưng để
kích thích sự sống của ta trong Thần Khí.
Với những người có lòng đạo thời đó, Đức Giêsu thường
chỉ rõ ràng họ phải đón nhận tiếng gọi của Nước Thiên Chúa qua tác phong và lời
nói của những kẻ mà người ta coi là ‘kẻ ngoại’. Sau khi nghe viên bách quản La
Mã, Đức Giêsu đã làm cho đồng bào của mình ngẩn người kinh ngạc khi Người kêu
lên: “Quả thật, Ta không tìm được một lòng tin như thế nơi Israel”.
Lòng tin ư? Giả sử có ai hỏi viên bách quản, hay hỏi
bốn anh vừa khoét mái nhà, rằng tin những điều gì hãy tuyên xưng ra, thì không
biết họ sẽ ấp úng làm sao? Hẳn họ sẽ chẳng có những nhận định dài dòng, mà chỉ
nói rằng họ đã nghe nói về quyền năng tỏa ra từ Đức Giêsu, và họ mong đợi Ngài
sẽ chữa lành bệnh, phục hồi sự sống, làm điều không thể có.
Tin, trước hết là một
chuyển động trong sự sống
Trong quá khứ, phải chăng các Kitô hữu đã từng thu
hẹp lòng tin khi lầm lẫn lòng tin với những công thức, trong khi TIN trước tiên
là sự sống của ta chuyển động vì giao tiếp với Đức Giêsu? Có một niềm ham sống
mới lạ mà Đức Giêsu đi tới đâu là cho lây, cho lan ra tới đó; nó gây nên nơi
các Kitô hữu, trong Hội Thánh, và tùy theo mỗi nền văn hóa và mỗi thời đại, một
tư duy không dứt về Thiên Chúa, về những con đường của Ngài nơi chúng ta, về sự
hiện diện sinh động của Ngài; lòng tin cũng là tri thức, nó mặc lấy lớp áo ngôn
từ, lớp áo của những tác phẩm đạo lý, những hệ thống thần học, nhưng như Đức
Giáo Hoàng Gioan 23 nói trong bài diễn văn khai mạc Công Đồng: “Bản chất của
đạo lý và lớp vỏ công thức để diễn bày đạo lý là hai cái khác nhau”. Ngôn ngữ
và tư tưởng là đường chúng ta đến với Thiên Chúa thật đấy, nhưng ngôn ngữ và tư
tưởng không bao giờ cầm hãm được Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa bao giờ cũng lớn
hơn, sống hơn. Đức tin trước tiên là gặp được Đức Giêsu, để thấy Ngài luôn mới
lạ, luôn tái tạo sự sống.
TIN ấy là tính “người” của
Thiên Chúa đột hiện nơi Đức Giêsu: Họ đã chọc thủng mái nhà. “Thấy lòng tin của họ, Đức
Giêsu nói với người bất toại: “Tội lỗi của con đã được tha”. Người làm cho hắn
tái sinh ở ngay trong chính mình hắn, Người làm cho hắn tái sinh cho một tập
thể vốn coi hắn như rác. Một lời thôi, Đức Giêsu biến đổi một con người; đồng
thời Người đảo lộn xã hội, đảo lộn những tầng lớp nề nếp cố cựu, cùng những lý
lẽ toa rập lấy đạo đức cùng tôn giáo để biện minh cho cái xã hội ấy. Mãnh lực
cách mạng của sự tha thứ tội lỗi, tái sinh con người, chân trời vô giới hạn Đức
Giêsu mở ra trước loài người. Làm sao đức tin có thể hao gầy mòn mỏi đi, đến
mức một số người có vẻ như thu teo nó lại thành một bộ giáo điều, trong khi nó
là sự sống trào ra, vọt ra, là tính người của Thiên Chúa đột hiện nơi Đức
Giêsu?
Cách đây khoảng hai mươi năm, René Maheu định nghĩa
tổ chức UNESCO là “tổ chức của hy vọng”, và ông thêm: “Con người mà chúng tôi
tin vào, mà chúng tôi ra công kiến tạo, đó không phải là con người của lịch sử
hay huyền thoại quá khứ, nhưng là con người của tương lai, con người ấy khi
hoàn thành thì so với tiến trình hiện tại này, nó cũng siêu việt như ý thức so
với thiên nhiên vậy. Một thực thể ở chân trời”… Nếu nhắm về tương lai con người
mà có thể diễn tả một cách sắc bén như vậy, thì biết nói gì về lòng tin của Kitô
giáo, cũng một lòng tin mà vừa tin vào con người nơi Thiên Chúa vừa tin vào cao
vọng của Thiên Chúa nơi con người?”.
“Đây ta làm một thế giới
mới”
Đôi khi trong Hội Thánh, người ta than vãn vì xã hội
ngày nay mất đức tin, nhất là giới trẻ. Rồi người ta so sánh này nọ với một quá
khứ thường được lý tưởng hóa. Cái đức tin bảo rằng đã ‘mất’ đó là đức tin gì?
Vấn đề này có thể khảo sát lâu lắc. Đó có phải là đức tin chọc thủng mái nhà ở
Caphácnaum chăng? Đó có phải là đức tin Đức Giêsu thán phục, đức tin cách mạng
cuộc sống của cả một xã hội chăng?
Đã đành là ta sẽ bất công nếu vội kết luận, nếu quên
đi sức mạnh và tội lỗi của thế gian, và chỉ chuyên tố cáo rằng các Kitô hữu đã
thiếp ngủ? Nhưng quả thật là đã đến giờ, đến phút phải nhận ra rằng nhiều người
đang chờ đợi ở chúng ta, ở Giáo Hội, tất cả sức mạnh linh lợi nguyên tuyền của
Tin Mừng.
Điều khẩn bách ấy, vị ngôn sứ đã nhân danh Thiên Chúa
lớn tiếng bảo chúng ta: “Đừng nhớ chuyện ngày xưa nữa, đừng nghĩ về quá khứ
nữa. Đây Ta làm một thế giới mới: nó đã hiện lên rồi, các người không thấy
sao?”
5. Đức tin làm bật nóc bật tường
(Lm Nguyễn Văn Trung)
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người luôn
chạnh lòng thương những ai thành tâm thiện chí đến với Người. Con Một Chúa
xuống trần gian là để cho con người được sống và sống dồi dào. Chính vì thế,
suốt hành trình rao giảng của Đức Giêsu, đi đến đâu Ngài cũng thực hiện bao
phép lạ để chữa lành bệnh tật mọi người. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta
cùng nhau suy niệm về chặng đường của người bất toại từ lúc còn mang bệnh cho
đến khi gặp được Đức Giêsu và đựơc Ngài Chữa lành, để qua đó chúng ta thấy được
điều kì diệu của niềm tin vào Đức Kitô phục sinh.
Tại làng Ca-phác-na-um ngừơi ta vẫn thường trông thấy
một người bất toại nằm bên đường. Đã bao tháng năm rồi, và cũng có thể là từ
lúc mở mắt chào đời, anh đã mang trên mình một thương tật. Anh không thể đi lại
bằng đôi chân của mình. Vết thương này đã trói buộc cuộc đời anh vào cái chõng,
để rồi đi đâu hay làm gì anh đều phải nhờ đến ngừơi khác giúp đỡ. Anh không thể
tự mình xuống bếp để bê chén cơm hay chén nước, dù chỉ để phục vụ mình thôi. Đã
bao lần anh ứơc mong được cùng mọi ngừơi say sưa nơi đồng ruộng hay nơi phố
phường nhưng anh đã không thể. Đã bao lần anh ước mong được cùng mọi người đến
ngôi giáo đường để xem lễ đọc kinh nhưng không được. Tất cả chỉ vì thương tật
anh mang trên mình. Anh khát khao được đi lại bằng chính đôi chân của mình, để
sống cuộc đời bình thường như bao ngừơi khác. Chỉ là một ước mơ bình thường
thôi nhưng xem ra đã vượt quá tầm với của anh. Thôi đành phó mặc cho trời vậy.
Ngày đêm anh vẫn cầu mong sẽ có một đấng nào đó có
thể đến giải phóng cuộc đời anh, đấng ấy sẽ cất cho anh gánh nặng này. Lời
nguyện cầu của anh đã vọng tới trời cao, giây phút thay đổi cuộc đời anh đã tới
khi hay tin Đức Giêsu trở về làng Ca-phác-na-um, nơi anh đang sinh sống. Người
ta đồn rằng Đức Giêsu có thể làm cho người mù được thấy, người điếc được nghe,
kẻ què đi được, thậm chí người chết cũng có thể sống lại. Khát vọng khỏi bệnh
và niềm tin mạnh mẽ đã thôi thúc anh tìm mọi cách để đến gặp Đấng có thể chữa
lành là Đức Giêsu Kitô. Khát vọng chính đáng này đã được những người bạn của
anh đồng thuận khi họ chấp nhận khiêng anh đến gặp Đức Giêsu.
Con đường đến với Đức Giêsu cũng thật gian lao và lắm
thử thách. Anh phải vượt qua mặc cảm của bản thân mình, vì người ta vẫn xem anh
như là hiện thân của kẻ tội lỗi. Anh không thể đến gần Đức Giêsu, vì dân chúng
bao quanh Người quá đông. Bấy giờ anh chỉ còn cách nhờ những người bạn của mình
treo lên mái nhà, dỡ một lỗ hổng và thả anh xuống nơi Đức Giêsu đang giảng cho
dân chúng. Khi được ở kề bên Đức Giêsu, anh cũng không thể thốt lên được lời
nào, dù chỉ là một lời van xin. Bởi anh ý thức được thân phận tội lỗi của mình.
Anh chỉ biết trông chờ vào lòng thương xót của Chúa mà thôi. Nỗi lòng của anh
và của những người bạn nhiệt thành đã được ánh mắt giàu lòng thương xót của
Chúa nhìn đến. Người thấu suốt nỗi thống khổ mà anh đang phải gánh chịu. Đặc
biệt là Người thấy được niềm tin mạnh mẽ nơi anh và cả những người bạn của anh.
Chính vì thế mà phần thưởng lớn lao dành cho anh là “Này con, tội con được tha
rồi”. Một câu nói thật bất ngờ đối với mọi người và ngoài sức ngoài sức tưởng
tượng của anh. Bởi lẽ, anh đến với Đức Giêsu chỉ với hi vọng được chữa lành căn
bệnh thể xác anh đang mang mà thôi. Và, anh nguyện suốt đời sẽ làm những việc
lành phúc đức để đền đáp công ơn này. Nhưng giờ đây anh không những được chữa
lành thương tật thể xác mà còn được sạch cả về tâm hồn, đó là được tha hết mọi
tội lỗi, trả lại cho anh tước vị làm con của Thiên Chúa, làm công dân của nước
Trời, và cho anh được hưởng trọn vẹn giá trị của một kiếp người ở nơi dương thế
này.
Anh đứng dậy, vác chõng đi ra trước sự mừng rỡ hân
hoan của bạn bè và của mọi người. Từ trong sâu thẳm đáy lòng anh rộn lên một
niềm vui khôn tả. Anh vui vì từ nay mình có thể đi lại bằng chính đôi chân của
mình. Từ nay người ta không còn xem anh là người tội lỗi nữa. Anh có thể hoà
nhập với cộng đồng và sống cuộc sống bình thường như bao người khác. Anh cảm
nghiệm được tình thương yêu vô bờ bến mà Chúa đã dành cho mình. Anh nhận ra
được quyền năng vô biên của Đức Kitô sau những gì Người đã làm cho anh. Tất cả
những điều đó như tiếp lửa để anh mừng rỡ hân hoan và vững vàng tin tưởng để
bước vào đời sống mới.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Khi suy niệm về chặng đường đức tin của người bất
toại, chúng con cũng tự xét lại đời sống đức tin của mỗi người chúng con, để
xin lòng thương xót của Chúa. Một cách nào đó, chúng con đang là những người
bất toại, không phải về thể xác nhưng là về tâm hồn, vì đức tin chúng con được
đón nhận ngày chịu phép rửa giờ đây đã bị tổn thương. Nhiều lúc trong cuộc sống
chúng con vẫn hoài nghi vào quyền năng và tình thương của Chúa. Xưa Chúa phán
rằng chỉ cần chúng con có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù chúng con có
bảo núi này rời khỏi đây, qua bên kia nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà
chúng con không làm được. Vậy xin Chúa luôn gìn giữ đức tin yếu kém của mỗi
người chúng con để rồi dù gặp gian lao thử thách trong đới sống đức tin thì
chúng con vẫn trung kiên với Chúa mãi đến cùng. Amen.
6. “Xin lỗi… hoặc tôi không cần được tha thứ”
(Yvon Daigneault)
Tiếp cận
Một đề tài nổi bật trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay:
việc tha thứ tội lỗi. Ta gặp ngay những khó khăn lớn lao: ý thức về sự tha thứ
của Chúa đã giảm sút, người ta xác tín là không cần ơn tha thứ để tái tạo con
người: hơn nữa, chúng ta sống trong một xã hội không còn cần đến sự tha thứ
ngay cả trong ngôn ngữ: Kẻ còn nói “xin tha thứ cho tôi” xem ra như là một con
người đến từ thời xa xưa nào.
Làm sao nói về sự tha thứ đây? Dường như điều này đã
khó khăn với Chúa Giêsu cũng như đối với chúng ta vậy. Ta hãy bắt chước cách
thức của Ngài: bắt đầu bằng một hình ảnh lớn, cụ thể, có tính thách thức và gây
chú ý, như hình ảnh bệnh bại liệt! Từ đó ta có thể rút ra vài ý chính:
-
Còn bi đát hơn bại liệt thể xác, đó là bại liệt tâm hồn.
-
Tội lỗi của chúng ta, không phải tội của những tổ chức đa quốc gia nhưng là
chính tội lỗi của chúng ta là nguyên nhân gây nên thứ bại liệt này.
-
Thiên Chúa đến cứu vớt chúng ta khi giải thoát chúng ta, khi tái tạo chúng ta
bằng việc tha thứ.
Bị bại liệt
Nhưng chúng ta không biết bại liệt là như thế nào? Có
lẽ chúng ta đã có kinh nghiệm về một chi thể bất động do bởi bị bó bột trong
vài tuần lễ. Chúng ta đã làm cho những người xung quanh bực bội do những lời
than vãn và sự gắt gỏng, trong lúc chúng ta mơ ước mau chóng được hoạt động lại
như trước. So với việc toàn thân không thể nhúc nhích, không làm được những cử
động đơn giản nhất, những việc thiết yếu nhất cho cuộc sống, bởi lẽ không có
thuốc nào chữa được và các dây thần kinh không vâng theo sự điều khiển của bộ
não nữa, thì kinh nghiệm kia không là gì cả.
Chúng ta cũng có thể bị bại liệt trong tâm hồn và
trong lòng, vì đã cắt đứt một tình yêu hoặc một tình bạn, vì đã làm một việc
bất công khi hủy diệt một người về mặt tinh thần. Chúng ta có thể hủy hoại cuộc
sống bằng dối trá, hận thù, tham vọng.
Trước mặt Thiên Chúa
Người ta đưa một kẻ bất toại đến với Chúa Giêsu mặc
dù người này có vẻ lơ là đối với cơn bệnh của mình, nhưng Chúa Giêsu đề cập đến
điều chính yếu, đến thứ bại liệt thực sự, thâm sâu bóp nghẹt linh hồn con người
này, những tội lỗi đã tách lìa không thể thoát khỏi được. Dù tội lỗi của người
ấy thế nào đi nữa, tình trạng tội lỗi của anh ta cho thấy phần nào tình trạng
của chúng ta, cho thấy một điều tương tự mà chúng ta cảm nhận được: nỗi bất lực
hoàn toàn trước mặt Thiên Chúa!
Ơn tha thứ
Quan sát công việc một nhà vật lý trị liệu làm cho
một kẻ bại liệt thật là một điều lạ lùng: mátxa, tập lại những cử động, những
động tác đề nghị cùng với những lời khuyến khích, nâng đỡ sự cố gắng của bệnh
nhân. Rồi sau nhiều này tháng, người ta thấy một bệnh nhân dường như đã chết
nay được tái sinh. Tác động của Chúa đối với kẻ tội lỗi là chúng ta đây phần
nào cũng giống như thế.
Nếu Chúa nói với chúng ta: tội của con được tha rồi,
tức là Ngài thực hiện cho chúng ta một hành động sáng tạo và giải thoát, một
hành động mà nhờ đó chúng ta được đổi mới và có được phẩm chất sống, làm cho
chúng ta đi vào mối tương quan mới mẻ với Ngài. Việc tha thứ của Thiên Chúa
không phải là một thứ thủ tục tinh thần có thể tóm tắt ở việc nhìn nhận rằng
Chúa đã quên hay làm ngơ tội lỗi của ta. Việc Chúa tha thứ là tạo nên một con
người mới nhờ tất cả những gì mà Chúa ban cho chúng ta: sự tự do, tư cách làm
con cái Ngài, ân sủng và niềm vui trong tâm hồn.
Để kết luận
Khi đã bị liệt lâu ngày mà lại đứng dậy được nhờ sự
chăm sóc của một nhà vật lý trị liệu, chúng ta sẽ hết sức sung sướng ngỡ ngàng.
Vậy chúng ta không sung sướng ngỡ ngàng sao khi được liên lỉ tái sinh nhờ lòng
thương xót của Thiên Chúa?
7. Cung cách thần linh dẫn dắt cung cách nhân loại
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Có một số điều mà các bạn không thể làm. Các bạn
không thể làm cho chiếc xe hơi chạy mà trong thùng xăng chỉ có nước. Các bạn
không thể giữ thực phẩm lạnh và tươi trong một tủ lạnh mà nếu các bạn không cắm
điện vào và bật công tắc lên. Không người nào có thể tha thứ tội lỗi với quyền
lực của một con người.
Các luật sĩ quan sát Chúa Giêsu khi Ngài tuyên bố: “Tội
lỗi đã được tha thứ”, thì hoàn toàn đúng với sự bất bình của họ: “Ai
có thể tha tội ngoại trừ một mình Thiên Chúa”. Nhưng họ đã thiếu điều
cơ bản là họ không biết thân phận của Chúa Giêsu. Bởi vì Chúa Giêsu là thần linh,
ngang với Cha trên trời trong mọi sự, Ngài có thể tha thứ tội lỗi bằng chính
quyền năng của Ngài. Tuy nhiên, Ngài đã làm như vậy trong cách loài người. Chúa
Giêsu có thể tha thứ tội lỗi một cách dễ dàng cho người bại liệt bởi một hành
động đơn giản của Ngài. Thay vì thế, Ngài đã nhìn cách thương xót người bại
liệt và nói một cách quyền năng với lời của con người: “Này con, tội của con đã
được tha”. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy rằng cung cách thần linh đã dẫn dắt
cung cách của nhân loại.
Chúa Giêsu đã xác định sức mạnh nơi lời của Ngài bằng
một phép lạ. Bởi vì sự tha thứ tội lỗi thì vô hình, không thể chứng thực quyền
năng nơi lời Ngài nhưng khi ngài nói với kẻ bị bại liệt: “Hãy đứng lên cuốn chiếu và đi về
nhà”, mọi người đều nhìn về phía người bại liệt để xem những lời của
Chúa Giêsu có thành hiện thực không. Nhưng khi người đàn ông đứng lên thì đó là
một dấu hiệu cho mọi người thấy rằng, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành người đàn
ông với lời của Ngài mà Ngài thật sự có quyền tha thứ tội lỗi của ông bởi lời
của Ngài.
Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã làm một điều mới mẻ.
Trước đó chưa hề có bất cứ ai đã nghe một lời tha thứ nào giống như những lời
tha thứ của Chúa Giêsu. Những lời của Ngài và quyền năng của Ngài vẫn tiếp tục
xảy ra trong Giáo Hội, bởi vì cung cách thần linh của Thiên Chúa vẫn còn hiện
diện nơi cung cách của nhân loại.
Một linh mục không thể tha thứ tội lỗi dựa trên chính
mình. Ông cần được Giáo Hội “bật khóa” theo ý muốn của Đức Kitô, sự tha thứ trở
nên hữu dụng bằng cách của Giáo Hội. Đó là lý do vì sao mà những lời tha tội
của Bí ích giải tội gồm có những lời kinh quan trọng này: “Bằng thừa tác vụ của Giáo Hội,
xin Thiên Chúa ban cho con sự tha thứ và bình an”.
Nhưng ai là Giáo Hội có quyền tha thứ tội lỗi? Với
Chúa Giêsu, đó là câu hỏi về căn cước của Ngài. Giáo Hội thì cao hơn là một xã
hội, hoặc một nhóm người. Giáo Hội là một mầu nhiệm. Giáo Hội thật sự là chính
Đức Kitô, tiếp tục trong không gian, thời gian và được thông chuyển cho dân của
người (định nghĩa của Giám mục Bossuet) qua Giáo Hội, Chúa Giêsu đã chọn một
cách tự do để mang lấy cung cách nhân loại và sứ vụ giao hòa thần linh của
Ngài.
Người liệt hầu như bất ngờ với sự sung sướng khi lấy
lại được khả năng bước đi trên đôi chân của mình, ông ta đã hạnh phúc một cách
sâu xa khi thấy tội lỗi của mình đã được tha thứ và kinh nghiệm phép lạ một
cách nào đó sẽ củng cố sự giải thoát khỏi tội lỗi của ông. Giống như đám đông,
ông cũng bàng hoàng. Và cùng với họ, ông dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa.
Là những người Công giáo, một trong những ơn lớn nhất
của chúng ta nhận từ nơi Thiên Chúa là Bí tích giải tội. Chúng ta cũng được
chúc phúc để nghe tiếng của con người diễn tả sự tha thứ của chúng ta và cảm
thấy sự đụng chạm giao hòa của bàn tay con người. Khi chúng ta cảm nghiệm được
điều này với đức tin, chúng ta cũng sẽ cảm thấy bàng hoàng, dâng lời cám ơn và
tạ ơn Thiên Chúa vì sự quảng đại và đặc ân kỳ diệu từ lòng nhân từ lớn lao và
tốt lành của Thiên Chúa.
8. Bệnh trầm trọng, thì thuốc phải thật mạnh
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’ – Achille Degeest.)
Sự nghiên cứu về văn chương đoạn Phúc âm này của
Marcô đem đến nhiều tranh luận. Quả thật, khi biên soạn cuốn Phúc âm, Marcô dự
tính chứng minh dần dần rằng: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Vậy mà ở đây, thánh
sử kể lại một phép lạ mô tả Chúa Giêsu không những như một người có quyền năng
khác thường, có nền giáo huấn mới mẻ, nhưng còn như một Đấng có quyền tha tội.
Vậy là Chúa Giêsu tự quả quyết mình ngang hàng với Thiên Chúa. Do đó câu hỏi
được đặt ra là: bài này có phải đã trình bày một sự pha trộn giữa sự giải thích
với một sự kiện không? Sự kiện đó là sự chữa lành thể xác cho người tê liệt đã
xảy ra từ buổi đầu khi Chúa Giêsu ra đi thi hành sứ mạng. Sự giải thích sự
kiện, tức là sự trông thấy xuyên qua việc chữa lành kia, dấu chỉ chứng thực
rằng Chúa Giêsu có quyền tha tội, và như vậy, tức Người là Thiên Chúa, chỉ mới
có sau này. Như vậy có nên kết luận là thánh sử Marcô đã thuật lại những chuyện
sai lịch sử chăng? Trái lại, khi thuật lại câu chuyện thánh sử đã mô tả việc
này xảy ra với tất cả sự đứng đắn bằng cách tiết lộ cho ta thấy qua một phương
pháp hành văn hoàn toàn được chấp nhận, ý nghĩa và sự sâu sắc thực sự của sự
kiện xảy ra. Marcô chứng minh Chúa Giêsu đang dần dần mạc khải Người là Con
Thiên Chúa, nhưng ngay từ phần đầu của đoạn Phúc âm này, đó đây, thánh sử đã vẽ
lên những nét báo trước sự kết thúc. Ở đây, chúng ta có lẽ đứng trước 1 trường
hợp thường hay xảy ra trong Thánh Kinh, đó là trường hợp mà tương quan vật chất
của một sự kiện được phong-phú-hóa bằng sự chỉ dẫn cho thấy mầu nhiệm mà sự
kiện đó muốn nói lên. Sau khi xác định như vậy, chúng ta nắm vững được Chân lý
nếu chúng ta đọc đoạn Phúc âm này của Marcô bằng cách để cho sự đơn sơ cao đẹp
và tuyệt diệu của tác giả chinh phục chúng ta. Có hai chi tiết. Người ta nghĩ
rằng căn nhà trong đó Chúa Giêsu dừng chân khi từ Caphanaum về chính là căn nhà
của Phêrô. Đàng khác, chi tiết lạ lùng dỡ mái nhà cũng không có chi là khó tin.
Mái những căn nhà vào thời đó là 1 thứ sân thượng mà người ta lên được nhờ một
cầu thang bên ngoài, cho nên quả là tương đối dễ, khi muốn mở ra một lỗ bằng
cách cất đi ít viên ngói là xong.
Chúng ta hãy nêu lên hai giáo huấn quan trọng:
1) ‘Hỡi con, tội lỗi con đã được tha’. Chúa Giêsu mở đầu bằng câu
nói đó, có lẽ là vì Người muốn ghép mình vào não trạng quần chúng đương thời,
khi dân chúng quan niệm rằng: mọi bệnh tật đều là hậu quả của tội lỗi, hoặc là
tội lỗi của người bịnh, hoặc là tội lỗi của cha mẹ y. Nhưng mau mắn, Chúa đã đi
từ bình diện này qua bình diện kia. Chữa bịnh phần xác rồi, Chúa đặt ngay hành
động Người như một dấu hiệu của sự chữa lành về phần thiêng liêng mà Người mang
đến cho nhân loại. Sự đau ốm phần sâu xa gấp bội đang đục khoét con người trong
cả bản thể. Bịnh hoạn nói chung thật ra là hậu quả của thái độ xấu xa và bạc
phước trong đó con người đang đắm chìm, khi chống lại Thiên Chúa. Chính đó là
cái bất hạnh căn bản mà Chúa Giêsu muốn chữa và Người loan báo điều đó khi
phán: ‘Tội con được sạch’.
2) Tại sao lại có những tư tưởng ấy trong lòng các ngươi? Chúa Giêsu đặt câu hỏi đó
cho cử tọa của Người, là những kẻ không sẵn sàng chấp nhận ai ai ngược lại các
ý kiến của họ. Chúng ta đừng vội lên án họ… Vào địa vị họ khi đó, chúng ta đã
phản ứng thế nào? Hôm nay đây, Chúa cũng đặt câu hỏi ấy cho chúng ta mỗi khi
Người gặp một sự chống đối nào đó nơi chúng ta. Nhân danh những cái mà chúng ta
cho là ‘những nguyên tắc tốt’, chúng ta đặt lên những chướng ngại cho những
hồng ân mới lạ mà Thiên Chúa bất thần ban cho chúng ta hay Giáo Hội. Điều quan
trọng là chúng ta phải sẵn sàng đón nhận những cái mới lạ của Thánh Linh, song
dĩ nhiên điều quan trọng là chúng ta phải nhìn nhận những cái mới lạ đó thật sự
là của Thánh Linh. Chính là vấn đề: sự sẵn sàng đối với Chúa, và trên bình diện
các bảo đảm cho sự chân thật, sự tùng phục chung quyết đối với quyền hành của
Giáo Hội.
9. Quyền tha tội
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Người Do Thái vẫn coi mọi thứ bệnh tật là hình phạt
của tội lỗi. Ngay các môn đệ của Chúa Giêsu, khi gặp người mù từ khi mới sinh
cũng hỏi Chúa: “Thưa Thầy, do tội của ai mà người này bị mù vậy? Tội của anh ta
hay của cha mẹ anh ta?”.
Nếu quan niệm bệnh tật là hậu quả của tội lỗi, thì
không gì hợp lý và dễ dàng bằng tha tội trước rồi chữa bệnh sau. Bởi vì tiêu
diệt được nguyên nhân thì tự nhiên hậu quả sẽ biến mất. Đó là điều Chúa Giêsu
đã làm cho người bại liệt như bài Tin Mừng hôm nay kể lại:
Trong khi Chúa Giêsu giảng dạy tại nhà ông Phêrô, có
bốn người khiêng đến cho Chúa Giêsu một người bại liệt nằm bất động trên chiếc
chõng, nhưng đường phố đầy người nghẽn cả lối vào. Họ cố tìm cách chen vào
nhưng không được. Nhưng bốn người ấy không nản lòng. Nhà của ông Phêrô cũng như
mọi nhà người Palestin, chỉ có một tầng với mái bằng, phía ngoài có cầu thang
lên. Bốn người khiêng người bất toại vòng qua đám đông, lên mái nhà, họ dỡ mái
nhà làm thành một khoảng trống, rồi thòng dây thả người bại liệt xuống nhà,
ngay bên chân Chúa Giêsu. Họ chỉ đặt đó thôi, chứ không nói năng xin nài gì
hết. Ai cũng hiểu họ muốn gì. Hiểu ý họ. Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội. Họ muốn
một, Chúa cho hai. Thay vì chữa bệnh thể xác liền, Chúa chữa bệnh cho tâm hồn
người bại liệt trước. Ngài đi xa hơn sự mong chờ của mọi người. Bởi vì nếu quan
niệm bệnh tật là do tội lỗi, thì không gì hợp lý và dễ dàng cho bằng tha thứ
tội lỗi trước. Chúa Giêsu đã không lấy quyền của Ngài mà tuyên bố rằng Thiên
Chúa tha tội cho anh: “Tội anh đã được tha”, nhưng người Biệt Phái rất khó chịu
và nghĩ trong lòng rằng Chúa Giêsu là người lộng ngôn phạm thượng. Vì chỉ có
Thiên Chúa mới có quyền tha tội, còn ông chỉ là người mà dám tha tội cho kẻ
khác.
Để tỏ cho nhóm Biệt Phái biết Ngài là ai, Chúa Giêsu
đã làm cả hai việc: vừa tha tội vừa chữa bệnh. Việc này chứng minh cho việc
kia; việc chữa lành chứng minh cho việc tha tội. Bởi vì nếu người bại liệt
không được tha tội thì khó mà có thể được khỏi bệnh. Hay nói cách khác: nếu anh
bại liệt không khỏi bệnh thì đó là dấu tội lỗi anh ta vẫn còn y nguyên và Chúa
Giêsu thực là người lộng ngôn phạm thượng, lừa bịp dân chúng. Ngược lại, nếu
anh bại liệt được tha tội thì việc khỏi bệnh thể xác sẽ xảy ra ngay. Bởi đó,
khi Chúa Giêsu ra lệnh cho anh “hãy chỗi dậy vác chõng mà về” và việc đó thực
sự đã xảy ra như vậy, thì lời Ngài nói trước đó: “tội anh đã được tha” chắc
chắn cũng đã xảy ra đúng như lời Ngài nói, tuy dù người ta không cảm thấy,
không trông thấy ơn tha tội, nhưng đã có việc khỏi bệnh chứng minh cho việc tha
tội. Vì thế dân chúng chứng kiến đã ca tụng: “chúng tôi chưa từng thấy như thế
bao giờ”. Chúng tôi chưa từng thấy ai có quyền được tha tội trừ Thiên Chúa.
Chúng tôi cũng chưa từng thấy ai chỉ truyền một lời là bệnh nhân được bình
phục. Vậy đúng Ngài là Thiên Chúa, là: “Con Người có quyền tha tội”.
Trước kia, nguồn gốc tha tội ở trên trời cao, nơi
Thiên Chúa. Bây giờ, Chúa Giêsu quả quyết rằng: bởi vì Con Người đã đến trần gian,
nguồn ơn tha tội đã được chuyển từ trời xuống đất. Nguồn ơn tha tội đã đặt nơi
một con người lịch sử: Chúa Giêsu Kitô. Tha tội ở trần gian hôm nay là làm
trước công việc mà Ngài sẽ làm trong ngày: “Con Người sẽ hiện đến trên mây
trời” để phán xét vào ngày tận thế.
Thưa anh chị em,
Sách Tin Mừng đã ghi lại nhiều phép là Chúa Giêsu đã
làm: chữa bệnh tật, làm cho người chết sống lại, hóa bánh ra nhiều… Ngài đã làm
những phép lạ đó thường là vì lòng thương xót người ta. Thương người bệnh tật
đói khát, thương gia đình mất người thân yêu… Chúa Giêsu đã đến cho người ta
thấy Thiên Chúa yêu thương loài người chúng ta và Ngài đã chứng tỏ tình thương
đó bằng cách giúp đỡ loài người một cách cụ thể.
Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp
đỡ đời sống vật chất hay thể xác của con người, mà còn muốn cứu chữa con người
toàn diện, cả hồn và xác. Vì vậy, những phép lạ của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa
sâu xa hơn: đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại.
Chẳng hạn, khi làm cho người mù sáng mắt. Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật
cho chúng ta nhìn ra: “Đấng cứu độ”. Khi bánh hóa ra nhiều cho dân chúng ăn no,
Ngài cho thấy Ngài là: “Bánh hằng sống” đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Khi chữa người bại liệt như Tin Mừng hôm nay kể lại, Ngài cho thấy Ngài có
quyền tháo gỡ con người khỏi xiềng xích trói buộc của tội lỗi. Ngài đã chữa
bệnh tận căn. Ngài giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi là nguồn gốc phát sinh đau
khổ, bệnh tật và sự chết; đồng thời Ngài kêu gọi nhân loại đi theo đường lối đó
cùng với Ngài, để tiêu diệt tận căn gốc của mọi đau khổ, bệnh tật, chết chóc mà
con người gây ra cho nhau.
Với thiếu phụ ngoại tình được Ngài cứu cho khỏi bị
ném đá, Chúa đã căn dặn: “Thôi chị về đi, và đừng phạm tội nữa”. Với người bại
liệt 38 năm bên bờ hồ Bethsaida,
Chúa cũng chỉ có một lời nhắn nhủ: “Đó, con đã được lành mạnh rồi, đừng phạm
tội nữa, kẻo lại bị khốn khổ hơn” điều quan trọng là: “Đừng phạm tội nữa”.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa hay thương xót
và tha thứ. Sự thánh thiện và công bình đòi phải trừng phạt tội nhân, nhưng
lòng nhân từ lại thúc đẩy Ngài phải tha thứ. Đã được Chúa tha thứ, chúng ta
cũng phải biết tha thứ cho anh em và nhất là đừng phạm tội nữa. Sở dĩ chúng ta
còn: “cứ phạm tội nữa” là vì chúng ta chưa tin rằng Thiên Chúa yêu thương chúng
ta. Nếu đã tin Thiên Chúa yêu thương chúng ta thì chúng ta không thể cứ xúc
phạm hoài đến người mình yêu thương được. Niềm vui của chúng ta là tin rằng
Chúa yêu thương chúng ta và tội lỗi chúng ta đã được tha thứ. Chắc chắn chúng
ta sẽ sống xứng đáng hồng ân tha thứ ấy.
Chúa Giêsu đã không chỉ tha thứ một cách dễ dàng qua
lời nói, nhưng bằng chính sự hy sinh mạng sống mình trên thập giá. Kính nhớ
công cuộc cứu chuộc qua cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta hãy
cảm tạ Chúa Cha đã thương ban Con Một xuống cứu độ nhân loại. Tham dự vào mầu
nhiệm cứu chuộc này, chúng ta quyết tâm chiến đấu chống lại tội lỗi, đến với
Chúa Kitô, quyết tâm sống cho Thiên Chúa, Đấng đã cứu chuộc chúng ta.
10. Cần cứu chữa tâm hồn trước
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Khi thân nhân của người bại liệt khiêng anh ta đến
gần Chúa Giê-su, họ đụng phải một bức tường sống: quá đông dân chúng đang vây
bọc quanh Chúa Giê-su và không ai chịu nhường chỗ cho những người đang khiêng
nạn nhân đến với Người. Rốt cuộc, họ đành phải dỡ mái nhà ngay trên chỗ Chúa
Giê-su đang đứng, thòng người bất toại xuống để xin Người cứu chữa.
Có lẽ đây là ca bệnh khẩn cấp cần phải được cứu chữa
kịp thời không thể trì hoãn. Thế nên, những người khiêng đã nóng nảy tìm cách
đưa bệnh nhân tiếp cận Chúa Giê-su bằng mọi giá, dù phải tháo dỡ mái nhà.
Khi đã thòng bệnh nhân từ mái nhà xuống ngay trước
mặt Chúa Giê-su, lẽ ra, Chúa Giê-su phải ưu tiên chữa trị người nầy khỏi bệnh
đã, mọi chuyện khác sẽ bàn sau. Vậy mà Chúa Giê-su không chữa trị thân xác ngay
mà quan tâm đến việc chữa lành tâm hồn trước. Người ban ơn tha tội cho người
bệnh trước. Người phán: "Tội con đã được tha", dẫu biết rằng nói như
thế sẽ làm cho những người biệt phái bắt bẻ, sinh thêm rắc rối phiền hà.
Sau khi cứu linh hồn bệnh nhân khỏi tội, trả lại cho
tâm hồn anh sức khoẻ thiêng liêng, Chúa Giê-su mới xét đến việc cứu chữa thân
xác anh. Người phán: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về. Người bại liệt
đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng
sốt và tôn vinh Thiên Chúa."
Qua sự kiện nầy, Chúa Giê-su tỏ cho thấy cần phải ưu
tiên chữa trị tâm hồn trước khi chữa trị thân xác, vì những rối loạn, những tổn
thương trong tâm hồn là nguyên nhân đưa đến những tổn thương phần xác. Y khoa
xác nhận có nhiều bệnh tật thể xác (thân bệnh) phát sinh do những tổn thương từ
nội tâm (tâm bệnh). Thân bệnh là do tâm bệnh. Vì thế, muốn điều trị tận căn,
muốn trị dứt điểm căn bệnh thể xác thì phải chữa trị tận gốc, tức chữa trị
trong tâm hồn.
Minh hoạ: Hôm nọ, ông Năm
bị kỹ luật nặng tại sở làm và do đó tâm hồn ông bị tổn thương nghiêm trọng. Từ
vết thương tâm hồn đó, thân xác ông bắt đầu có những biểu hiện bệnh lý: bình
thường ông rất vui vẻ, cười nói huyên thuyên, hôm nay bỗng sa sầm nét mặt, lầm
lì ít nói.
Mang vết thương lòng ấy về
nhà, vừa bước qua ngưỡng cửa, vấp phải cái chổi nằm giữa đường, ông nổi giận co
chân đá nó văng ra xa và bắt đầu mắng vợ, điều mà từ trước tới nay chưa bao giờ
xảy ra: "Đồ làm biếng, đàn bà vô tích sự, cái chổi nằm chình ình ngay giữa
phòng khách mà cũng không biết cất dọn nó đi."
Kế đó, đứa con cưng đi học
mới về, thấy mặt ba hầm hầm, vội lảng tránh qua phòng khác, không vui vẻ chào
hỏi như mọi khi; ông liền quát tháo: "Nầy Thảo, mầy câm rồi ư? Sao thấy
tao mà mầy không ra chào? Thầy Cô dạy mầy thế hả? Mẹ mầy dạy mầy thế hả?"
Thế là chiến sự bắt đầu bùng nổ trong gia đình.
Một tổn thương trong tâm hồn có thể làm bùng lên một
trận chiến trong gia đình hay trong cộng đồng ta đang sống. Sóng gió trong lòng
sẽ tạo nên bão tố bên ngoài. Mất bình an nội tâm là nguyên nhân của những xung
đột với những người chung quanh.
Thế nên, muốn dập tắt sóng gió trong gia đình và cộng
đồng thì phải diệt trừ sóng gió trong tâm hồn trước; muốn có hoà bình thuận
thảo với tha nhân thì trước hết cần phải có an bình nội tâm; muốn tránh xung
đột với những người chung quanh thì trước hết hãy củng cố sự bình an tâm hồn.
Chính vì thế, trước khi chữa trị cho người bệnh về
phần xác, Chúa Giê-su cứu chữa tâm hồn anh ta đã. Người cứu chữa tâm hồn bệnh
nhân bằng ơn tha tội để tâm hồn anh được lành lặn và bình an, rồi sau đó mới
chữa trị phần xác. Tâm hồn và thân xác con người cũng chỉ là một. Hồn xác hoàn
toàn tuỳ thuộc vào nhau. Bệnh của tâm hồn (tâm bệnh) tất nhiên sẽ lan sang thân
xác (thân bệnh). Muốn chữa lành tận gốc thân bệnh, người thầy thuốc khôn ngoan
tìm cách chữa trị tâm bệnh trước.
Hiện nay, một số quốc gia đã lập nên những trung tâm
y tế dự phòng tiên tiến. Tại đây, thầy thuốc ân cần hỏi han trò chuyện với bệnh
nhân để truy ra gốc bệnh từ trong tâm hồn và đề ra những phương thức điều trị
rất hiệu quả mà không cần thông qua xét nghiệm lâm sàng và thậm chí không cần
cả thuốc men.
Tội lỗi như một thứ virus độc hại gây bệnh cho tâm
hồn và từ đó thân xác và cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng theo.
Vậy chúng ta hãy tìm đến với lương y Giê-su với bất
cứ giá nào như trường hợp người bại liệt được thuật lại trong Tin Mừng hôm nay,
để được Người tha thứ tội lỗi và chữa lành tâm bệnh cho chúng ta, và rồi thân bệnh
cũng sẽ nhờ đó mà được chữa lành.
11. Chữa người bất toại
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Một điểm trong phép lạ chữa người bất toại được ghi
lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu không nói
ngay: "Ta chữa lành cho con", nhưng Ngài nói với người bất toại:
"Con đã được tha tội rồi". Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên
Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa
Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ
thầm rằng: "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng".
Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa,
vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: "Sao trong bụng
các ông lại nghĩ những điều ấy?" Rồi Ngài nói với những kẻ không tin:
"Trong hai điều: một là bảo người bất toại: "Con đã được tha
tội", hai là bảo: "Đứng dậy, vác chõng mà đi", điều nào dễ
hơn". Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: "Để các
ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng
dậy, vác chõng đi về nhà", lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước
mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có
quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay
cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được
Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục
công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân
sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít
lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn
lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quí trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý
thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng
không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở về với tác vụ
chính của Chúa Giêsu ngay từ đầu: tác vụ tha tội, hòa giải con người với Thiên
Chúa. Ước gì chúng ta luôn ý thức về tội lỗi và quí trọng ơn tha thứ qua Bí
tích giải tội.
12. Ơn tha thứ
Có một chàng thanh niên mua
được một chú khỉ. Thế nhưng cứ mỗi lần anh ta đụng vào thắt lưng, chú khỉ lại
tỏ ra đau đớn và khó chịu. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, anh ta khám phá ra một vệt
sưng vòng quanh hông chú khỉ. Thì ra khi còn nhỏ, chú khỉ đã bị ngưới ta dùng
một sợi dây thép cột quanh hông và cho tới nay vẫn chưa được tháo ra. Chú khỉ
càng lớn, sợi dây càng lặn sâu vào da thịt.
Chiều hôm đó, anh ta cẩn
thận cắt sợi dây thép và kéo ra khỏi da thịt chú khỉ. Chú khỉ mừng quá, nhảy
tới nhảy lui rồi ôm chặt vai anh ta. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái, không
còn bực bội, khó chịu và đau đớn như trước nữa.
Câu chuyện trên khiến chúng ta nhớ tới lời Chúa Giêsu
nói với chàng thanh niên bại liệt được chữa lành: Tội con đã được tha. Chắc hẳn
chàng cũng vui mừng như thế, bởi vì chàng không còn bị sợi dây đau đớn ràng
buộc nữa. Chàng được tha tội và được chữa lành bệnh bại liệt, chẳng khác nào
chú khỉ được giải thoát khỏi sợi dây thép. Vì thế, chàng hết sức vui mừng và
dâng lời ngợi khen Thiên Chúa.
Hình như ai trong chúng ta cũng đã từng có kinh
nghiệm nhờ bí tích Hòa giải, chúng ta được giải thoát khỏi một ràng buộc nào
đó, đã từng làm cho chúng ta đau đớn.
Tuy nhiên muốn được giải thoát thì điều kiện đầu tiên
là phải khiêm nhường chấp nhận tội lỗi mình và xưng chúng ta với linh mục giải
tội, bằng tất cả tâm tình sám hối ăn năn.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay mời gọi chúng ta hãy bằng
lòng để cho Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta những gì mà ngày xưa Ngài đã làm
cho chàng thanh niên bại liệt. Chúng ta hãy trình diện với Ngài trong Bí tích
Giải tội và lắng nghe Ngài nói với chúng ta những gì Ngài đã nói với người bại
liệt: Tội lỗi của con đã được tha.
Tiếp đó, đoạn Tin Mừng còn mời gọi chúng ta cảm
nghiệm sự giải thoát mà chàng thanh niên bại liệt ấy từng cảm nghiệm sau khi đã
bị ràng buộc đớn đau quá lâu trong bệnh tật và tội lỗi của chàng. Cũng như
chàng trai phung phá, chúng ta hãy thành thực thú nhận cùng Chúa: Lạy Chúa, con
đã phạm tội nghịch với Cha, con không xứng đáng làm con Cha nữa, xin Cha hãy
nhận con như một tên đầy tớ của Cha mà thôi.
Với tâm tình sám hối, thì tội lỗi có nặng nề đến đâu
chăng nữa, chúng ta cũng vẫn được Chúa tha thứ, bởi vì tâm tình sám hối chính
là một thứ tiền thiêng liêng để mua lấy ơn tha thứ, chính là bước chân đầu tiên
trên con đường trở về cùng Chúa, chính là sự cộng tác nhỏ bé nhưng rất cần
thiết của chúng ta vào ơn cứu độ, như lời thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng
nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta,
Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
13. Lòng nhân từ của Chúa
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe cũng như qua từng ngày
trong suốt cả cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy nổi bật lên một tấm lòng
nhân từ và thương xót.
Thực vậy, trước khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để
nuôi đám đông trong hoang địa, Chúa Giêsu đã nói:
-
Ta thương dân này.
Chỉ một vài chữ ngắn ngủi này mà thôi cũng đã đủ tóm
lược tất cả cuộc sống và hành động của Chúa. Đúng thế, nhìn vào cuộc sống của
Chúa, chúng ta thấy Ngài luôn dành những tình cảm ưu ái cho những người khổ đau
và yếu đuối.
Trước hết là những trẻ nhỏ, đơn sơ và bé bỏng, bất
lực trước những hiểm nguy và khó khăn của cuộc đời.
Phúc âm đã kể lại: Ngày kia Ngài đã chúc lành cho các
em nhỏ và nói với các môn đệ:
- Ai tiếp đón một trong số những em nhỏ này vì danh Ta thì đó
là tiếp đón chính Ta vậy.
Ngày khác các bà mẹ dẫn con cái của mình đến với Chúa
để xin Ngài chúc lành. Các môn đệ đã xua đuổi vì không muốn Chúa bị quấy phá,
nhưng Chúa đã phán bảo:
- Hãy để cho các trẻ nhỏ đến cùng Ta.
Ngài đã lấy trẻ nhỏ làm gương mẫu cho chúng ta:
- Nếu các con không trở nên giống trẻ nhỏ, các con không được
vào Nước Trời.
Thứ đến, Ngài còn dành những tình cảm ưu ái đối với
những người nghèo khổ.
Ai là người đã được diễm phúc thờ lạy Chúa đầu tiên
nơi máng cỏ Bêlem, nếu không phải là thánh Giuse, Mẹ Maria và các mục đồng, tất
cả đều là những người nghèo hèn và túng thiếu.
Sau này trong bài giảng trên núi Ngài cũng đã cầu
chúc
- Phúc cho những người nghèo khổ, vì Nước Trời là của họ.
Trái lại, bọn Biệt phái và Pharisêu giàu có thì lại
coi nghèo túng là một tai họa, là một lời nguyền rủa.
Chúa Giêsu còn đặc biệt chăm sóc đến những người đau
yếu bệnh tật. Thực vậy mà Ngài đã làm biết bao phép lạ để xoa dịu những nỗi
thống khổ mà họ phải chịu. Như vậy cũng đã đủ để chứng tỏ rằng Ngài luôn lưu ý
và dành cho họ những tình cảm đặc biệt. Nhưng quan trọng hơn cả Ngài đã xót
thương và tha thứ cho những kẻ tội lỗi. Ngài thường lui tới với họ:
Chẳng hạn Ngài đã đến dự tiệc tại nhà ông Giakêu.
Ngài đã gọi họ làm môn đệ của mình như trường hợp của Matthêu, của Phêrô. Ngài
không kết án nhưng sẵn sàng tha thứ, chính vì thế Ngài đã cứu người đàn bà
ngoại tình mà chiếu theo luật Do thái là sẽ bị ném đá cho chết.
Trong những lời giảng dạy Ngài đã sánh ví mình như
người mục tử lang thang tìm kiếm con chiên bị lạc mất, Ngài đã sánh ví mình như
người đàn bà tìm kiếm đồng bạc đánh rơi, hay như người cha mòn mỏi trông chờ
đứa con hoang đàng và Ngài đã kết luận:
-
Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi kẻ
tội lỗi…Không phải người khỏe mạnh mà là kẻ đau yếu mới cần đến thày thuốc…Một
kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín nươi chín người
công chính không cần sám hối ăn năn.
Còn chúng ta thì sao? Chúa Giêsu đã làm gương cho
chúng ta. Sống giữa một xã hội đầy hận thù và oán ghét, điều cần thiết chúng ta
cần phải làm ngay, đó là hãy noi theo, hãy bắt chước Chúa, thực hiện những hành
động bác ái, để nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên những chứng nhân cho tình thương
của Chúa. Chúng ta hãy ghi nhớ lời khuyên nhủ của Chúa.
Hơn thế nữa:
- Mỗi lần chúng ta thực hiện một hành vi bác ái cho một trong
những kẻ hèn mọn nhất là chúng ta đã làm cho chính Chúa.
Phải chăng Chúa đã chẳng hứa ban hạnh phúc Nước Trời
trong ngày sau hết cho những người đã thực thi giới luật yêu thương của Chúa đó
sao?
14. Chữa lành
Trong những thời kỳ xa xưa, ở vùng quê Ái Nhĩ Lan,
khi có người ngã bệnh thì vị linh mục là người đến trước tiên, kế đến có lẽ là
bác sĩ. Ngày nay thì hầu như ngược lại. Nhưng đối với người Kitô hữu, cả bác sĩ
lẫn linh mục đều có vai trò trong việc săn sóc người bệnh. Điều này không nhằm
ám chỉ thân thể thuộc phạm vi của bác sĩ, linh hồn thuộc phạm vi của linh mục.
Nói như thế tức là cho rằng cả bác sĩ lẫn linh mục đều nhìn thấy có một nửa
thực tại.
Khi người bị liệt được đưa đến trước mặt Người. Đức
Giêsu thấy ngay người ấy cần được chữa lành về phần xác. Nhưng Người đã thấy
một việc khác. Người liệt cũng phải được chữa lành về phần hồn. Và Người đã
quyết định bắt đầu công việc này.
Người bắt đầu cứu chữa người liệt với việc tha thứ
tội lỗi cho người ấy. tại sao? Người không ám chỉ tội của người bệnh là nguyên
nhân gây bệnh. Người cũng không cho rằng tội của người ấy lớn hơn những người
khác có mặt trong phòng. Đơn giản Người chỉ muốn khẳng định rằng người ấy cũng
là một tội nhân như mọi người khác. Khi khởi sự như thế, Đức Giêsu muốn nói
rằng tội cũng là một căn bệnh, một căn bệnh của linh hồn. Đức Giêsu không phân
biệt chính xác giữa bệnh phần xác và bệnh phần hồn, nhưng coi chúng như những
biểu hiện khác nhau của một căn bệnh thiêng liêng của nhân loại.
Ngày nay, nhiều nhà điều trị bệnh đồng ý với phương
pháp của Đức Giêsu. Nhiều căn bệnh của thân xác do tác động hoặc xuất phát từ
những căn bệnh của linh hồn. Ngày nay, người ta nói về một “sức khỏe lành
thánh”. Điều này có nghĩa là chúng ta phải xem xét không chỉ khía cạnh thể chất
của một con người, nhưng cũng phải xem xét các khía cạnh tâm lý và tâm linh. Ý
định của Đức Kitô là phải chăm sóc đến con người toàn diện.
Khi khước từ những khía cạnh khác của căn bệnh ngoài
khía cạnh thuần về thể chất thì việc yêu cầu tư vấn cũng hóa ra vô ích. Trong khoa
điều trị, vấn đề luôn luôn là con người toàn diện, chứ không bao giờ là một
triệu chứng duy nhất. Cảm giác đau đớn không chỉ trong thân xác, mà còn tâm
trí, cảm xúc và tinh thần. Xem ra, thể chất có thể chỉ là biểu hiện bên ngoài
của một sự khó chịu bên trong.
Như chúng ta đã thấy, Đức Giêsu bắt đầu cứu chữa con
người từ chỗ tâm linh “Này con, con đã được tha tội rồi”. Điều này làm cho các
kinh sư phẫn nộ. Nhưng Đức Giêsu dĩ nhiên sẽ chứng tỏ cho họ thấy Người có
quyền năng tha thứ tội lỗi qua việc chữa lành những bệnh tật phần xác của con
người.
Đức Giêsu đã đến để cứu con người toàn diện, hồn và
xác. Vì thế giờ đây Người nói với người bại liệt: “Hãy đứng dậy vác lấy chõng
của con mà đi”. Và người ấy đã ra khỏi căn phòng trên đôi chân của mình. Người
ấy không cần người ta khiêng đi nữa, linh hồn của anh trở nên trong sáng và
bình an.
Đây quả là một kỳ công mới mẻ và vĩ đại. Ngay lập
tức, người ta nhận ra điều đó. Họ sửng sốt và khen ngợi Thiên Chúa: “Chúng tôi
chưa thấy nhu vậy bao giờ”.
Ngay lúc này đây, chúng ta có thể chưa cần sự chữa
lành phần xác nhưng chắc chắn chúng ta cần sự chữa lành tâm linh. Đây là cách
áp dụng phép lạ này cho chúng ta. Tội lỗi có thể được xem như một bệnh liệt
thiêng liêng ảnh hưởng đến toàn bộ chúng ta. Nó ảnh hưởng đến tâm linh chúng
ta, làm suy yếu khả năng yêu thương của chúng ta. Nó ảnh hưởng đến ý chí chúng
ta: Chúng ta không thể cương quyết từ bỏ điều xấu và cam kết vĩnh viễn với điều
tốt. Nó ảnh hưởng đến tinh thần chúng ta: Chúng ta không thể sống trong tự do,
hy vọng và vui mừng.
Chúng ta cần sự tha thứ và chữa lành của Thiên Chúa.
Chúng ta cần đem tội lỗi và bệnh att của chúng ta đến cùng Người với lòng khiêm
tốn và trông cậy. Rồi Người sẽ nói với chúng ta: “Con đã được tha tội rồi. Giờ
đây hãy đi và sống trong tự do và vui mừng như một người con của Thiên Chúa”.
Và khi nghe được những lời này, chúng ta cũng sẽ khen ngợi Thiên Chúa và bước
đi trong tự do của con cái Thiên Chúa.
15. Sự tha thứ
Chúng ta sống trong một thời đại của những điều thú
nhận. Người ta trở lại những câu chuyện về mình, bóc trần tâm hồn yếu đuối của
mình, không chỉ kể lại một cách riêng tư với các bác sĩ tâm lý, nhưng một cách
công khai trong sách báo và truyền thanh, truyền hình. Tuy nhiên, trong lúc có
nhiều lời thú nhận, thì lại không có sự xá tội – ít nhất là xá tội nhân danh
Đức Kitô.
Đến với bác sĩ trị liệu không làm người ta nhẹ bớt
cảm thức phạm tội. Một đôi lúc, các bác sĩ trị liệu nói một cách máy móc. “Được
rồi, không hại gì đâu, nhiều người làm như thế và bạn đã chịu một áp lực, và
vân vân…” Người ta cảm thấy được các bác sĩ trị liệu nâng đỡ nhưng không cảm
thấy được tha thứ.
Sự tha thứ của con người thường đến quá rẻ và quá dễ
dàng. Vả lại, Thiên Chúa quan niệm tội lỗi của chúng ta một cách nghiêm trọng
nhưng Người yêu thương chúng ta đủ để tha thứ những tội lỗi ấy. Người như muốn
nói với chúng ta. “Dù cho con có làm gì và nhiều đến đâu, thì Ta cũng tha cho
con”.
Điều mà người ta cần là một cảm thức về sự tha thứ
triệt để. Sự tha thứ này vừa cho người ta nhận thức mình có tội trong việc mình
đã làm, vừa khẳng định người ta xứng đáng được quan tâm. Con người không thể
ban cho loại tha thứ đó vì chỉ Thiên Chúa mới làm được.
Tha thứ là một điều kỳ diệu. Khi tha thứ rồi người ta
không còn bị công kích. Mọi sự đều bỏ qua. Người được tha thứ không còn bị cảm
thức tội lỗi làm tê liệt. Họ bước đi tự do, thân mật với Thiên Chúa và với
những người mà họ đã xúc phạm.
Trung tâm sứ vụ của Đức Giêsu là sự tha thứ. Mà Người
đã trao quyền bính ấy cho các tông đồ khi Người nói với họ “Anh em tha tội nào
thì tội ấy được tha; anh em cầm giữ tội nào thì tội ấy sẽ bị cầm giữ”. Quyền
tha tội nhân danh Người là một ơn rất lớn mà Đức Giêsu để lại cho Giáo hội
Người, và chủ yếu được thực thi qua Bí tích Giải tội.
Nhiều người trong chúng ta đến với phép Giải tội với
mọi danh sách các tội đã được chuẩn bị trước. Những tội giống nhau xuất hiện
trên danh sách nhiều lần thường có cả những vấn đề tầm thường mà chúng ta thấy
không cần phải ăn năn, hối hận. Trong lúc xưng tội chúng ta đọc lướt qua danh
sách ấy rồi chăm chú lắng nghe những lời linh mục nói, để rồi thấy rằng cách
sống của chúng ta sau đó không có gì khác trước. Người ta không làm một nỗ lực
nào để đi sâu vào căn nguyên của mối quan hệ với Thiên Chúa và người khác.
Chúng ta phải phân biệt tội lỗi như một biến cố, một
hành động và tội lỗi như một điều kiện. Loại thứ hai quan trọng hơn. Bạn có thể
làm một điều gì đó sai lầm, nhưng điều đó không làm cho bạn thành một người làm
điều sai thường xuyên. Có một sự khác nhau lớn giữa người sai phạm một đôi lần,
và người sai phạm như một cách để sống. Một người có thể ăn cắp một lần do bị
cám dỗ hoặc kinh tế khó khăn. Hoặc một người có thể ăn cắp đều đặn, do đó việc
trộm cắp trở thành một cách sống.
Tình trạng tội lỗi không giống với tội lỗi. Cái đầu
là căn bệnh, cái sau là triệu chứng. Chúng ta là những người có tội, sa ngã –
đó là một thực tế. Vì thế chúng ta ra khỏi đời này với một danh sách các tội.
Bí tích Giải tội đòi hỏi chúng ta xét mình vì tội lỗi của chúng ta chỉ là một
biểu hiện bên ngoài của sự bất ổn bên trong.
Tội lỗi không phải là một vật mà chúng ta có thể vứt
một lần rồi xong như một cái áo cũ. Đúng hơn, nó là một điều kiện trong đời
sống chúng ta. Chúng ta là những người có tội và luôn luôn cần có sự cứu chuộc.
Điều quan trọng không phải là những khiếm khuyết của chúng ta mà là cuộc chiến
đấu của chúng ta cho sự thiện hảo. Mục tiêu của một đời sống tốt lành không
phải là thắng trận mà là tiến hành cuộc chiến đấu không ngừng.
Bí tích Giải tội không phải là một dịch vụ giặt tẩy
vô ngã. Nó là một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, Đấng lôi kéo chúng ta tiến đến tự
do của con cái Thiên Chúa.
Người bại liệt đứng dậy, vác lấy chõng của mình để về
nhà. Khi chúng ta được tha thứ, chúng ta được giải thoát quá khứ của mình, và
có thể lại tiến lên trên vai vác gánh nặng và những trách nhiệm của mình.
16. Tại sao?
Sự tha thứ của Thiên Chúa có thể tìm thấy qua tác vụ
của bất cứ linh mục nào, chính linh mục cũng mang trong mình vết nhơ tội lỗi và
cần được tha thứ. Nhưng khi chia sẻ quyền bính của Đức Kitô mỗi linh mục trở
thành người chữa trị thương tích. Tuy nhiên không phải linh mục tha thứ, nhưng
Đức Kitô hành động qua linh mục.
Nhiều người đặt vấn đề: Tại sao xưng tội với một linh
mục mà không xưng trực tiếp với Thiên Chúa? Theo quan điểm của Thiên Chúa, câu
trả lời rất đơn giản: Vô lý. Chúng ta thường tìm lý lẽ cho mình. Không còn là
sự tha thứ đơn giản nữa.
Việc xưng tội tốt cho linh hồn. Điều xấu người ta làm
mà không thể nói ra sẽ là một con sâu đục khoét tâm hồn người đó. Chúng ta có
nhu cầu nói về điều quấy rầy chúng ta. Khi xưng tội, chúng ta có thể nói hết
mọi việc về mình và biết rằng chúng sẽ không bao giờ bị tiết lộ. Vì thế nó hoàn
thành một nhu cầu sâu xa của con người là muốn cởi mở tâm hồn mình. Chúng ta
cũng có nhu cầu hướng dẫn. Việc xưng tội đáp ứng nhu cầu này.
Đi xa hơn nữa, chúng ta cần ngoại giới hóa – bằng
chữ, dấu chỉ, động thái – điều ở trong tâm trí chúng ta. Chúng ta cần một biểu
lộ rõ ràng sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta cần nhìn, nghe và cảm nhận sự
tha thứ chứ không chỉ nghĩ về nó. Chúng ta cần có những người khác giúp chúng
ta ngoại giới hóa điều ở bên trong và mở lòng mình ra trước mặt Thiên Chúa.
Những người khác giúp chúng ta cảm nghiệm và công bố lòng thương xót của Thiên
Chúa trong đời sống chúng ta.
Chúng ta không trực tiếp đến với Thiên Chúa khi có
những bệnh tật của thân xác. Vậy tại sao chúng ta đến trực tiếp với Người khi
có bệnh linh hồn? Không đi xưng tội, lừa dối chính mình, tránh né, hoãn lại
ngày đền tội xem ra dễ dàng hơn. Ngày đó với chúng ta là quá muộn. Xưng tội có
nghĩa là đối diện với thực tại về chính mình.
Nhưng chỉ đi xưng tội không chưa đủ. Người trưởng
thành có thể xưng tội như lúc ở tuổi mười hoặc mười hai. Người ta thường khước
từ nhìn xa hơn những lỗi phạm của cá nhân. Dù sao sự phạm lỗi cũng tự nó đã là
một sự đoạn tuyệt hay một triệu chứng. Chúng ta phải quan niệm toàn thể con
người mình. Chúng ta phải xem xét công việc, sự đau khổ, những cám dỗ, cuộc
chiến đấu cho điều thiện hảo và những thiếu xót trong cuộc chiến đấu ấy.
Việc xưng tội bao hàm một sự xét mình đau đớn. Chúng
ta phải đi đến cùng khía cạnh đen tối của chính mình. Chúng ta phải nhớ rằng
Đức Kitô không muốn lên án chúng ta, nhưng muốn cứu chúng ta. Chúng ta được mời
gọi tự phán xét mình, nhìn lại chính mình. Thừa nhận sự nghèo nàn, yếu đuối,
tội lỗi của mình không phải là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta muốn tìm thấy sự
sạch sẽ, nguyên vẹn và bình an.
Một số người giữ mãi tội lỗi của họ trong quá khứ như
thể họ không thật sự tin rằng Thiên Chúa đã tha thứ cho chính mình. Những người
như thế có thể học tập thánh Phêrô. Tôi chắc chắn rằng thánh Phêrô không bao
giờ quên sự kiện ông chối Đức Giêsu. Nhưng tội ấy không ám ảnh ông như kiểu một
số người bị tội lỗi của họ ám ảnh.
Phêrô đã học được nhiều điều từ sự vấp ngã của ông.
Ông khám phá sự thật rất đau đớn về chính mình. Ông không mạnh mẽ, can đảm và
quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng ông cũng đã học một sự thật tuyệt vời
về Đức Giêsu. Ông học được rằng cho dù ông chối Người, Đức Giêsu vẫn yêu thương
ông. Chính sự yêu thương này có thể làm một giờ đau khổ và hổ thẹn của ông
thành một giờ của ân sủng và cứu chuộc.
Chúng ta cũng có thể học từ tội lỗi của chúng ta.
Chúng ta học biết sự yếu đuối của chúng ta. và chúng ta học biết sự thiện hảo
của Thiên Chúa, bởi vì chúng ta cảm nghiệm được tình yêu và lòng thương xót của
Người trong tội lỗi của chúng ta. Khi chúng ta học từ sự vấp ngã, và khi nhớ
lại điều đó thì điều thích đáng nhất là biểu lộ lòng biết ơn Thiên Chúa thay vì
dằn vặt chính mình.
17. Chúa thấy họ có lòng tin mạnh
Đức cha Camara (Helder
Camara) có một người anh hơn ngài năm tuổi. Hồi mới thụ phong linh mục, ngài
sống chung với anh và một bà chị. Lúc đó ông anh đã hoàn toàn mất đức tin,
không còn tin điều gì siêu nhiên nữa. Mỗi lần cha Camara đi giảng hay chuẩn bị
dâng lễ ông anh lại hỏi:
- Hôm nay chú định giảng gì
đó?
Cha Camara khiêm tốn cắt
nghĩa cặn kẽ cho ông anh những điều cha sắp giảng. Tình trạng kéo dài hơn tám
năm như thế. Sau đó ông anh ngã bệnh nặng. Ông kêu cha Camara tới bên giường và
nói: “Tôi biết chú thông minh, học rộng hiểu nhiều. Mấy năm rồi tôi thấy chú
trung thành tuân giữ và sống theo lời chú giảng dạy, nghĩa là chú có lòng tin
vững mạnh. Vậy tôi hỏi chú xem tôi có thể nhờ lòng tin của chú mà được cứu rỗi
không?
Cha Camara trả lời: Em thấy
anh rất khiêm tốn và cũng có lòng tin. Chắc Chúa thương anh và anh được cứu
rỗi.
Ông anh xúc động, xưng tội
rước lễ và chết bình an trong tình thương của Chúa.
Câu chuyện làm ta nghĩ tới trường hợp người bất toại
trong Tin Mừng hôm nay. Cũng vậy, Chúa thấy những người khiêng bệnh nhân có
lòng tin và Chúa đã thương chữa lành người bệnh. Lòng tin là một quà tặng Chúa
trao ban, nhưng nhiều khi lòng tin được tiếp nhận và nuôi dưỡng do các chứng tá
chung quanh, nhất là do những người thân như cha mẹ, vợ chồng, con cái. Chuyện
người bất toại trong Tin Mừng hôm nay cũng thế. Những người khiêng bệnh nhân
thấy không cách nào tới gần Chúa, vì người nghe giảng quá đông, họ đành phải
đưa bệnh nhân lên sân thượng, rỡ mái nhà, thòng giây thả anh xuống trước mặt
Chúa Giêsu. Hành động của họ đã gây bao phiền hà cho gia chủ, có thể gây chống
đối trong đám đông, những người chưa tin Chúa, họ cho đó là vớ vẩn mất công vô
ích. Tuy nhiên, chắc những người khiêng bệnh nhân đã tin tuyệt đối vào quyền
năng và tình thương của Chúa, họ mới có thể làm như vậy. Lòng tin của họ làm
Chúa hài lòng. Người nói với anh bất toại: “Hỡi con, tội của con đã được tha”.
Trong khi bệnh nhân chỉ cầu mong được lành bệnh thì Chúa lại ban cho anh một ân
huệ lớn hơn: đó là ơn tha tội. Vì tội là nguyên nhân của mọi bệnh tật, nếu ta
quan niệm bệnh tật như là dịp đền tội. Lời tuyên bố tha tội cũng là một thử
thách lòng tin. Tội là thứ vô tình, không thấy rõ như thấy bệnh. Và một khi
người bất toại và những người khiêng chấp nhận lời tha tội của Chúa, là họ
chính thức nhận Ngài là Chúa Cứu Thế, là Thiên Chúa thật. Còn đối với Chúa, đây
là việc quan trọng, là cơ hội Chúa mạc khải về thân thế và sứ mệnh cứu chuộc
của Người: Chúa là “Con Người” mà ngôn sứ Daniel đã loan báo.
Vậy sau khi tuyên bố tha tội, Chúa đã cho người bất
toại được lành. Việc chữa lành bệnh nhân như bằng chứng lời tha tội thực sự có
công hiệu, một hiệu quả mọi người đều thấy rõ, khiến họ thấy được hiệu quả vô
hình của lời tha tội.
Lạy Chúa, xin tăng cường lòng tin cho chúng con và
cho những người thân thương của chúng con. Xin ban ánh sáng lòng tin cho những
người chúng con có bổn phận cầu nguyện cho. Chúng con xin hợp lời ngợi khen tạ
ơn Chúa.
18. Bí tích Giải tội
Tissot là một bác sĩ nổi
tiếng ở Thụy sĩ. Mặc dù là người Tin lành, nhưng ông vẫn kính trọng và công
nhận sức chữa bệnh của Bí tích Giải tội, được thực hành trong Giáo Hội Công
giáo.
Ngày kia, ông được mời chữa
bệnh cho một vị phu nhân trẻ ngoại quốc. Vì bà ta là một tín hữu Công giáo, nên
ông đã mời một linh mục đến ngồi tòa và ban Bí tích Giải tội cho bệnh nhân. Tức
thì, bà ta cảm thấy thay đổi và dễ chịu. Lúc trước bà ta hốt hoảng vì sợ chết.
Còn bây giờ bà ta cảm thấy bình an và trầm tĩnh.
Sáng hôm sau, bác sĩ thấy
cơn sốt giảm dần và bệnh nhân được bình phục. Vì thế ông thường hay nhắc lại sự
việc này và bao giờ cũng thêm một lời cảm phục chân thành:
- Nhờ sức mạnh của tòa giải
tội của người Công giáo.
Dĩ nhiên, là người Công giáo, chúng ta đã biết rằng
Bí tích Giải tội tha thứ tội lỗi, chữa lành tâm hồn và trả lại sức sống của
Thiên Chúa cho những ai trót lầm lỡ phạm tội nặng. Chúng ta tin rằng Bí tích
Giải tội hữu ích cho linh hồn, nhưng chúng ta chưa nhận thấy bí tích này còn
hữu ích cho cả thể xác nữa.
Thực vậy, chúng ta vừa nghe Chúa Giêsu chữa một người
bại liệt, được bốn người thả xuống từ một khoảng trống trên mái nhà để được gần
Chúa Giêsu, Đấng chữa lành tâm hồn bệnh nhân:
-
Này con, tội con đã được tha.
Vì những kẻ đứng bên cạnh chất vấn Ngài về quyền tha
tội, nên Ngài nói với bệnh nhân:
-
Con hãy đứng lên, vác giường mà về.
Và người bệnh đã làm được như thế. Dĩ nhiên, tôi
không muốn nói rằng mỗi người Công giáo khi mắc bệnh hay đau yếu về phần xác,
đều được chữa lành nơi tòa giải tội. Tôi chỉ muốn nói rằng tòa giải tội có thể
giúp cho thể xác cũng như cho tâm hồn. Chắc chắn tòa giải tội chữa lành và
phòng ngừa những chứng bệnh tâm thần.
Đó là điều các bác sĩ đã công nhận, bởi vì Bí tích
Giải tội tẩy xóa lỗi lầm là nguyên nhân chính gây nên rối loạn và suy nhược tâm
thần. Đi xa hơn một chút chúng ta thấy: Tâm hồn bình an chắc chắn cũng sẽ ảnh
hưởng tốt tới thân xác.
Thế nhưng có người sẽ bảo:
- Vậy chỉ cần thổ lộ với bác sĩ tâm thần cũng sẽ có được hậu
quả tương tự.
Đúng thế, nếu hiểu theo một góc cạnh nào đó, nhưng
thổ lộ với bác sĩ tâm thần thì làm gì có được lời xá giải, thì làm gì có được
lòng thống hối ăn năn, thì làm gì có được sự tha thứ của Chúa. Chỉ Bí tích Giải
tội mới đem lại cho chúng ta những sự ấy mà thôi.
Hơn thế nữa, những tội như say sưa, giận hờn, oán
thù, đánh lộn… đã gây nên những tổn hại cho thể xác, nhưng khi chúng ta sám hối
và xưng thú, thì đó cũng là một cách thức chúng ta đem lại sự an bình và khoẻ
mạnh cho thân xác chúng ta vậy.
19. Phép lạ
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật phép lạ Chúa
Giêsu chữa người bại liệt ở Caphácnaum, nhưng Đoạn Tin Mừng Maccô mang một sắc
thái tự nhiên, sống động, khiến sự việc xảy ra như trước mắt chúng ta. Chúng ta
có thể diễn lại trình thuật này như sau:
Chúa Giêsu vừa về tới Caphácnaum sau mấy tuần lễ vắng
mặt, tin Ngài về lan ra và rất đông người tìm đến gặp Ngài, họ theo Ngài vào
nhà Phêrô, nơi Ngài tạm trú. Căn nhà chật ních người, những kẻ đến sau tụ tập
trước cửa rất đông. Trong nhà, Chúa Giêsu rao giảng như thường lệ, phần đông
người ta nghe Ngài cách thiện cảm và phấn khởi. Tuy nhiên, vì hoạt động và ảnh
hưởng của Chúa chấn động cả miền Galilê, không khỏi làm cho nhóm Pharisêu và
kinh sư ở Giêrusalem để ý và lo ngại, vì Chúa không xuất thân ở trường của họ,
cũng không đứng trong phe phái của họ, nên trong nhà của Simon hôm nay, trên
hàng đầu, có những thầy thông luật từ Giêrusalem đến để tìm cơ hội bắt bẻ Ngài.
Trong khi Chúa đang giảng, có bốn người khiêng tới
một chiếc chõng trên có người bại liệt nằm bất động, nhưng đông người quá,
không cách nào vào được, nên họ đưa bệnh nhân lên mái nhà, lật ngói làm thành
một khoảng trống, rồi dòng dây thả chiếc chõng cùng với người bại liệt xuống
ngay trước mặt Chúa, họ chỉ đặt đó thôi, không nói năng nài xin gì hết, nhưng
ai cũng hiểu họ muốn gì. Hiểu ý họ, Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội, họ muốn một Chúa
cho hai, đồng thời Ngài tỏ ra cho nhóm Pharisêu và kinh sư biết Ngài là ai,
Ngài có quyền phép hơn họ tưởng. Thay vì chữa bệnh thể xác liền, Chúa chữa bệnh
thiêng liêng cho anh ta trước, Ngài đi xa hơn sự mong chờ của mọi người, bởi vì
nếu quan niệm bệnh tật là hậu quả hay hình phạt do tội lỗi thì không gì hợp lý
và dễ dàng bằng cất nguyên nhân tự nhiên đi thì hậu quả cũng biến mất, làm
ngược lại là một điều khó khăn và không hợp lý.
Vì là một mặc khải bất ngờ, các đối thủ chưa kịp nói
lên những ý nghĩ trong trí của họ, phần Chúa Giêsu, để minh chứng Ngài đồng bản
tính với Thiên Chúa, Ngài đọc rõ những ý nghĩ còn trong tâm trí mỗi người và
hỏi nhóm Pharisêu mấy câu thật hóc búa. Nghe Chúa nói: “Này con, tội con được
tha rồi”, Pharisêu và kinh sư đặt ra trong trí họ một lưỡng đạo luận: hoặc là
ông này phạm thượng, vì chỉ là người mà dám tha tội cho kẻ khác, hoặc là ông có
quyền như Thiên Chúa. Nếu chấp nhận giả thuyết một thì làm sao Thiên Chúa phò
ông để làm phép lạ? Nếu chấp nhận giả thuyết hai thì tín điều “chỉ có một Giavê
độc nhất mà thôi”, làm sao có thể dung hòa?
Chúa Giêsu lại thách họ: “Điều nào dễ hơn?” Sự thực
cả hai điều đều quá sức con người, nhưng Chúa Giêsu đã làm được cả hai, Ngài đã
làm một công hai việc: vừa cho thấy thái độ mâu thuẫn của họ vừa chứng minh
Ngài là Thiên Chúa, Ngài tuyên bố tha tội cho người bại liệt, rồi lại chữa anh
ta khỏi bệnh, vậy Ngài là Thiên Chúa.
Nhân bài Tin Mừng này, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa các
phép lạ Chúa Giêsu làm và từ đó chúng ta tìm ra một thái độ trước những sự việc
khác thường được nghe kể lại hoặc chứng kiến. Tin Mừng ghi lại nhiều phép lạ
Chúa Giêsu đã làm, tất cả chỉ vì lòng thương người ta, nhưng tình thương của
Chúa không phải chỉ cứu giúp về đời sống vật chất của con người mà còn muốn cứu
giúp con người toàn diện, vì thế, những phép lạ của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa
sâu xa hơn, đó là dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại, chẳng
hạn, khi chữa người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người
khỏi xiềng xích ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho
thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Con Người cứu độ”. Khi hóa
bánh ra nhiều cho đám đông ăn no, Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại
sự sống muôn đời cho loài người…
Chúa Giêsu làm phép lạ, nhưng các sách Tin Mừng cũng
cho thấy Ngài có một thái độ dè dặt. Trước hết, nhiều khi Ngài từ chối không
làm phép lạ mà ma quỷ hay một số người yêu cầu với ý hướng khiêu khích hoặc tò
mò, thử thách chứ không vì lòng tin. Chúa từ chối, vì Ngài không làm phép lạ để
biểu dương lực lượng, phô trương, hoặc vì những người đó không có thái độ sẵn
sàng đón nhận. Cũng chính vì thế ngay cả khi bị treo trên thập giá, người ta
thách thức Ngài làm phép lạ xuống khỏi thập giá cho họ tin, Ngài cũng không
làm.
Mặt khác, nhiều khi làm phép lạ chữa một người nào,
Chúa cấm họ không được nói ra cho người khác biết, Ngài đòi hỏi những người đó
phải kín miệng như vậy là vì người ta có thể hiểu lầm ý nghĩa của những phép
lạ, cho rằng Ngài đến để cứu người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi
sứ mạng của Ngài không phải ở chỗ đó, Ngài cũng không muốn người ta ỷ vào phép
lạ để trốn tránh trách nhiệm của mình.
Hơn nữa, Tin Mừng Gioan còn nói: nhiều người tin vào
Chúa Giêsu vì thấy những phép lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tín nhiệm họ, bởi
vì lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu kém và bồng
bột, dễ thay đổi, lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt
thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, vì thế, sau khi sống lại, Chúa Giêsu nói với
ông Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Ngày nay thỉnh thoảng chúng ta nghe có phép lạ xảy ra
ở chỗ này chỗ kia, trước những sự kiện lạ đó, chúng ta phải biết khảo sát,
không thiên kiến, chủ quan, phải hoàn toàn vô tư để nhận ra đâu là tác động
thần linh, đâu là sự kiện khoa học hoặc đâu là dàn cảnh. Giáo Hội dạy chúng ta
hãy luôn dè dặt trước những cái gọi là “phép lạ” để không bị phê phán là nhẹ
dạ, dễ tin, cuồng tín hoặc mê tín.
20. Bốn người khiêng
John Donne đã nói: “Không
ai là một hòn đảo”. Tất cả chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau. Chúng ta cần tương
trợ nhau để sống, không những về thể lý, vật chất, mà còn về tình cảm và tinh
thần nữa.
Mục sư Martin Luther King
khi tranh đấu cho nhân quyền và sự bình đẳng của mọi người, nhất là những người
da mầu trên đất Hoa Kỳ, ngài đã kêu gọi chính những người da mầu hãy sống chung
hợp tác chặt chẽ lại với nhau “Chúng ta đã học vất vả để bay trên không như
loài chim và bơi lội dưới biển như loài cá. Chỉ có một điều đơn giản chúng ta
đã không học đó là sống với nhau”.
Trong câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, bốn anh bạn
khiêng một bệnh nhân bị liệt đến với Chúa Giêsu. Họ đã có sáng kiến rất độc đáo
bằng cách dỡ mái nhà, thả anh liệt xuống ngay căn phòng nơi Chúa Giêsu đang
giảng dạy. Đây là một bài học sáng giá và cao quý của tinh thần bác ái và lòng
tương trợ lẫn nhau.
Theo nhà chú giải thánh kinh William Barclay diễn tả,
mái nhà của người Do Thái sống ở vùng Palestine
được xây cất như sau. Mái nhà gồm những cây xà ngang bằng phẳng đặt từ bờ tường
này sang tường bên kia. Mỗi xà ngang cách nhau khoảng một mét. Khoảng giữa hai
cây xà được đổ đất sét trộn lẫn với những nhánh cây. Ở lớp trên cùng lại được
tráng thêm một lớp đất sét nữa. Do đó, mái nhà rất bằng phẳng. Thường có cỏ mọc
xanh tươi, và người ta dùng chỗ này để nghỉ ngơi, rất yên tĩnh. Bình thường nó
có một cầu thang ở phía ngoài để lên xuống.
Cách dễ nhất cho bốn anh bạn thả người bất toại xuống
là họ đục khoét đất sét ở vào giữa hai cây xà. Làm như vậy tránh được sự hư hại
cho chủ nhà, sau này dễ sửa chữa lại. Nhìn thấy thiện chí và đức tin của bốn
anh bạn này: “Thấy lòng tin của họ”, Chúa Giêsu đã chữa lành người liệt, cả
phần hồn lẫn thể xác. Đức tin làm cho khỏi bệnh ở đây chính là đức tin và sáng
kiến của bốn anh bạn.
Chúa Giêsu chữa người liệt bằng cách nói: “Hỡi con,
tội lỗi của con đã được tha”. Theo quan niệm của người Do Thái, đau khổ, bệnh
tật là hậu quả của tội lỗi. Đây là hình phạt của Thiên Chúa giáng xuống trên
tội nhân. Vì thế, tha tội là điều kiện để được chữa lành. Theo Paul Tournler
cho biết, ngày nay nhiều bộ lạc của những sắc tộc thiểu số vẫn còn suy nghĩ như
vậy. Ông nói rằng theo báo cáo của những vị truyền giáo, đối với nhiều dân
thiểu số, bệnh tật là sự ô uế. Người bị bệnh sẽ bị người khác xa tránh để khỏi
bị lây nhiễm. Có nhiều người Kitô hữu, khi bị bệnh, họ không dám lên rước lễ,
vì họ tự coi mình đã bị khinh bỉ bởi Thiên Chúa, không dám hiệp thông với cộng
đoàn!
Sách Giáo lý Công giáo số 1108 diễn tả sự tương trợ
và hiệp thông của các Kitô hữu như sau: “Trong mỗi hành động phụng vụ Chúa Thánh
Thần được sai đến để mang chúng ta vào sự hiệp thông với Chúa Kitô và để tác
tạo nên thân thể của Ngài. Chúa Thánh Thần như nhựa sống của cây nho của Chúa
Cha, sinh hoa kết quả nơi các ngành nho… Giáo Hội là bí tích vĩ đại của mối
hiệp thông thần linh quy tụ các con cái của Thiên Chúa đang bị tản mác. Hoa
trái của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ là sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, gắn
liền với sự hiệp thông huynh đệ giữa chúng ta với nhau”.
Quả vậy, nhờ những lời cầu
nguyện, cùng những giọt nước mắt hy sinh đau khổ của người mẹ, bà thánh Monica
mà thánh Augustinô đã được ơn trở lại. Bà thánh Monica đã cầu nguyện đêm ngày
liên lỉ, cộng với các việc làm thánh thiện suốt cuộc đời của bà cho đứa con
trai đang đi sai lạc trong đường tội lỗi. Sau cùng Augustinô đã trở lại và chịu
phép rửa tội trước khi bà chết chỉ một năm. Tất cả những âu lo và đau khổ kéo
dài suốt đời của một người mẹ đầy tình thương mến dành cho con đã trở nên nguồn
vui lớn lao không sao tả xiết. Sau khi chứng kiến con mình chịu phép rửa tội tại
Ý, trên đường trở về quê nhà ở Numidia Phi Châu, bà Monica tâm sự với con:
“Con yêu dấu, mẹ không còn
điều gì phải lo lắng trên cuộc đời này nữa. Mẹ không biết sẽ phải làm gì và tại
sao mẹ có mặt trên cuộc đời này. Nhưng chỉ có một lý do mẹ xin được trì hoãn,
được sống thêm một thời gian nữa trên trần gian này là để được nhìn thấy con
trở thành một người Kitô hữu Công giáo trước khi mẹ chết. Đây là ơn lành vô
cùng lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho mẹ. Được chứng kiến con từ bỏ thú vui
trần thế mà trở nên tôi tớ của Ngài. Bây giờ mẹ còn muốn ở đời này để làm gì
nữa bây giờ?”
Nếu không có những lời cầu nguyện và hy sinh của bà
Monica, liệu thánh Augustinô có được ơn trở lại và làm thánh không? Nếu không
có sự giúp đỡ của bốn anh bạn và có lẽ của nhiều người khác nữa, liệu người bị
bại liệt có cơ hội gặp Chúa Giêsu, được tha tội và chữa lành không? Thế nhưng,
trong cuộc sống chúng ta vẫn thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những nhu cầu cần
giúp đỡ của những người khác bằng từ ngữ: “Đó không phải là việc của tôi!”
Người lính thủy quân lục
chiến Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam
đang trên đường trở về nhà. Khi đáp xuống phi trường ở San Francisco, anh gọi điện thoại về nhà báo
cho cha mẹ hay: “Ba mẹ ơi! Con đang trên đường về nhà! Nhưng con muốn ba mẹ
giúp con một điều. Con có một người bạn cùng đi với con”. “Được rồi! Ba mẹ cũng
muốn được gặp bạn con”. Người cha trả lời. “Nhưng con có một điều cần được hỏi
ý kiến ba mẹ trước đã. Anh bạn của con bị thương rất nặng trong chiến trận. Anh
ta đạp phải mìn, mất một cánh tay và một chân. Anh ta không có chỗ nào để ở cả.
Không gia đình, không bạn bè! Và con muốn anh ta về ở chung với gia đình chúng
ta được không ba mẹ “? Người cha tỏ ý bất bình: “Nè con, rất tiếc là ba mẹ phải
nghe đến điều đó! Có lẽ chúng ta sẽ giúp anh ta bằng cách tìm một chỗ nào đó để
anh ở!” Người con cố gắng nài nỉ: “Không được! Ba mẹ à! Con muốn anh ta sống
chung với gia đình chúng ta cơ!” “Con ơi!” người cha khuyên con, “Con không
hiểu điều con đang yêu cầu. Người tàn phế tật nguyền là một gánh nặng khủng khiếp
cho gia đình mình. Chúng ta có đời sống riêng để sống. Con không nên đặt một
gánh nặng như thế lên gia đình. Ba nghĩ “đó không phải là việc của con!” Anh ta
phải tự lo cho mình! Con cứ về nhà và quên anh ta đi!”
Cuộc đàm thoại đến đây thì
người con gác ống điện thoại lên, không nói nữa. Cha mẹ anh cũng chẳng nghe gì
thêm nữa về anh. Tuy nhiên vài ngày sau đó, ông nhận được một cú phôn gọi từ
trạm cảnh sát ở San Francisco.
Con của ông bà đã chết sau khi rơi xuống từ một nhà lầu rất cao. Cảnh sát tin rằng
anh ta đã tự tử.
Hai ông bà buồn rầu bay qua
San Francisco.
Họ được dẫn ngay đến nhà xác của bệnh viện thành phố để nhận diện con mình. Họ
nhìn xác con và vô cùng kinh ngạc khi khám phá ra rằng chính họ không hề biết
rằng người con chỉ còn có một cánh tay và một cái chân. Người bạn thương binh
tàn tật đó chính là con trai của họ!
Phúc âm hôm nay giúp chúng ta ý thức về sự cần thiết
của tinh thần tương trợ lẫn nhau trong đời sống Kitô hữu. Đời sống tinh thần và
đạo đức của chúng ta cũng có lúc sẽ bị bệnh tật, và ở vài khía cạnh nào đó cũng
sẽ bị liệt. Và vấn đề là ai sẽ có đủ lòng từ tâm, quảng đại và can đảm như bốn
người bạn của anh bị bại liệt. Ai có sáng kiến leo lên mái nhà của căn phòng
bệnh tật, u tối của chúng ta mà khoét trần nhà đưa ta đến với Đức Giêsu Kitô.
Nếu ai cũng nói: “Đó không phải là việc của tôi!” thì chuyện gì sẽ xảy ra? Câu
chuyện bi đát của anh lính thương binh Mỹ giúp chúng ta nhìn thấy hậu quả tai
hại của cá nhân chủ nghĩa và sự ích kỷ.
21. Bại liệt tinh thần
Qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta có thể ghi nhận
được ba bài học: Một nơi Chúa Giêsu, một nơi người bại liệt và một nơi các kinh
sư.
Bài học thứ nhất: Ai cũng biết bại liệt là
bất lực, vừa là nỗi khổ cho chính mình vừa là gánh nặng cho thân nhân, họ hàng.
Chắc chắn Chúa Giêsu thấy nơi người bại liệt nỗi đau khổ về thể xác. Nhưng tại
sao câu đầu tiên Chúa nói với anh ta lại là lời tha tội? Anh ta có tội gì chăng
nên mới bị bại liệt như vậy? Người Do thái có quan niệm như thế: Bệnh tật là
hậu quả của tội lỗi. Ai mắc bệnh tật đều là người có tội. Bệnh tật càng nặng
tức là tội lỗi càng nhiều và càng nặng, nên mới bị phạt ra bên ngoài bằng bệnh
tật như thế.
Ở đây, Chúa Giêsu không đồng ý hay đồng tình với quan
niệm ấy, bởi vì chủ trương của Chúa là: Tội lỗi là tội lỗi, bệnh tật là bệnh
tật. Đây là hai vấn đề riêng biệt, không có liên quan với nhau. Có thể có người
vừa có bệnh vừa có tội. Nhưng cũng có người có bệnh mà không có tội, hoặc ngược
lại, có tội mà không có bệnh tật gì. Cho nên, khi Chúa nói: “Này con, tội con
được tha rồi” là Chúa muốn minh chứng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền tha
tội. Vì đối với người Do thái, chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Nhưng tha
tội mà không được khỏi bệnh thì người Do thái không tin. Trái lại, khỏi bệnh
không thôi thì bình thường quá. Vì vậy, Chúa đã thực hiện cả hai: Vừa tha tội
vừa chữa bệnh. Đây là một hành động của Thiên Chúa toàn năng, đầy thương xót cả
xác lẫn hồn.
Bài học thứ hai, người bại liệt được Chúa
Giêsu chữa lành, vì anh có một lòng tin mạnh mẽ vào quyền phép và tình thương
của Chúa, đúng như người ta vẫn thường nói: Tin là tín nhiệm, tin thì không sợ.
Người nào còn sợ là người chưa đủ tin. Người bại liệt đã có một lòng tin như
thế. Anh để cho người ta khiêng lên mái nhà, dỡ mái thòng xuống mà không phản
đối và không sợ hãi gì hết. Và nhất là khi đã được đặt trước mặt Chúa, anh
không xin gì, không nói gì cả. Bởi vì anh tin rằng Thiên Chúa biết mọi sự, Ngài
biết anh đang cần gì. Anh biết rằng Thiên Chúa thương anh hơn chính anh. Anh
chỉ ngước mắt nhìn Chúa và chờ đợi. Rồi câu nói đầu tiên của Chúa lại là lời
tha tội chứ không phải là lời chữa bệnh. Anh vui lòng chấp nhận, bởi vì anh
biết Thiên Chúa bao giờ cũng có lý hơn anh. Chính do lòng tin mạnh mẽ đó anh đã
được Chúa Giêsu cứu chữa.
Bài học thứ ba, những kinh sư là những
người chứng kiến phép lạ ấy. Họ không bại liệt về thể xác, nhưng họ lại bại
liệt về tinh thần. Có thể nói: Họ có một chứng bại liệt trong trái tim, bởi vì
họ không cảm nhận được nỗi khổ của người bại liệt, và cũng không cảm nhận được
niềm vui của người ấy khi được chữa khỏi. Họ còn mắc chứng bại liệt trong trí
khôn, bởi vì họ không hiểu được, hay đúng hơn, họ không muốn hiểu lời Chúa cắt
nghĩa. Chúa bảo họ rằng: Ngài có quyền tha tội. Lời Chúa thật rõ ràng. Một trí
khôn bình thường có thể hiểu ra ngay, nhưng họ không muốn hiểu. Rồi họ còn mắc
chứng bại liệt trong lương tâm, bởi vì họ quyết tâm làm hại Chúa mà lương tâm
họ không áy náy gì. Đúng lý ra khi thấy Chúa nhân lành, cư xử tốt, cứu giúp
người bệnh tật, thì họ phải vui, phải ca ngợi Chúa. Nhưng không, họ bực tức, họ
khó chịu.
Tất cả chúng ta không bị bại liệt về thể xác nhưng
chúng ta có lòng tin mạnh mẽ của người bại liệt được Chúa chữa lành không? Và
rất có thể chúng ta đang mắc chứng bại liệt tinh thần trong trái tim, trong trí
khôn hay trong lương tâm chăng? Đừng cố chấp, chai lì như những kinh sư và
Pharisêu, trái lại, hãy khiêm nhường, tin tưởng vào quyền phép và tình thương
của Chúa.
Báo chí đã thuật lại rằng:
Vào đêm kia, một đám cháy bùng lên tại một ngôi nhà. Tức khắc trong ngọn lửa
phừng phừng bốc cao, người ta thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con chạy ra
sân. Bất chợt họ nhận ra thiếu thằng con trai út 5 tuổi. Ngay sau đó họ nghe
tiếng nó kêu cứu và ló đầu qua cửa sổ trên lầu. Thấy nó, ông bố quát to: “Nhảy
xuống đây”. Đứa bé chỉ thấy khói lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó
liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Ông bố lại quát: “Ba thấy con, con
cứ nhảy xuống có ba đỡ, đừng sợ”. Và đứa bé đã nhảy xuống bình an vô sự, vì ông
bố đã kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé trong ngôi nhà bốc cháy ấy là hình ảnh diễn tả
người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa. Trong cơn khốn quẫn, người ấy nghe ra
tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”. Và
người Kitô hữu ấy rất nhiều phen đã muốn trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa
đâu cả” và đã tưởng rằng Thiên Chúa bỏ rơi mình. Không, Thiên Chúa không bao
giờ quên ai cả, chỉ có người ta quên Chúa mà thôi.
22. Đức Giêsu chữa lành người bại liệt
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giê-su có chứng tỏ Ngài có quyền tha tội không? Chứng tỏ
bằng cách nào? Nếu chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội thì ta phải kết
luận thế nào về Đức Giê-su?
2. Các kinh sư đã cố tình không nhận ra Đức Giê-su chính là
Thiên Chúa khi Ngài tỏ ra có quyền năng tha tội. Có bao giờ chúng ta cũng cố
tình không nhận ra Thiên Chúa hay Đức Giê-su trong tha nhân sống chung quanh ta
không? hay trong những người Ngài đang dùng để hoạt động cho thế giới hay trong
Giáo Hội không?
3. Nếu có ai xúc phạm đến bạn, nhưng lại có ai đó - cha mẹ,
thầy dạy, v.v... - tha tội cho người ấy thay cho bạn, thì bạn nghĩ thế nào?
Người ấy làm như thế có đúng không? Bạn nghĩ thế nào về việc Đức Giê-su tha tội
cho người này người kia khi họ xúc phạm đến một người khác nữa không phải là
Ngài.
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giê-su có quyền tha tội
Khi nghe Đức Giê-su nói với người bị bại liệt: «Này
con, con đã được tha tội rồi», lập tức các kinh sư Do Thái cảm thấy câu nói ấy
có vấn đề. Họ chỉ thắc mắc thầm trong bụng: «Sao ông này lại dám nói như vậy?
Ông ta phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?» Phải nói
rằng thắc mắc như vậy là rất hợp lý, vì tội là điều phạm đến Thiên Chúa, là vi
phạm luật lệ do Thiên Chúa ban hành, nên chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền
tha tội mà thôi. Tôi nghĩ rằng thắc mắc như thế hoàn toàn không có gì đáng
trách, mà trái lại còn đáng khen nữa. Trước thắc mắc ấy, nhiệm vụ của Đức
Giê-su là phải chứng tỏ cho họ thấy câu nói của mình vừa rồi là đúng hay sai.
Và Ngài đã chứng tỏ bằng một sự kiện hết sức ngoạn mục là làm cho «người bại
liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người», sau khi ra lệnh
cho anh ta: «Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác chõng mà về!»
Như vậy, Ngài đã chứng tỏ cho các kinh sư có mặt ở
đấy rằng Ngài có quyền tha tội bằng một phép lạ mà chỉ có thần linh mới có thể
làm được. Nếu chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, mà Ngài đã chứng tỏ
bằng một sự kiện trước mắt là mình đã tha tội một cách hữu hiệu, thì kết luận
hợp lý chỉ có thể là Ngài chính là Thiên Chúa, hay Thiên Chúa với Ngài là một
(lập luận số 1).
2. Thiên Chúa có thể mặc lấy những hình dạng ta không
ngờ
a) Thiên Chúa hiện thân
trong tha nhân của ta
Trước sự kiện ấy, đáng lẽ các kinh sư phải nhận ra
Ngài là ai, nhưng họ lại cố tình không nhận ra điều ấy. Có lẽ tâm lý của họ là
không thể nào tưởng tượng được một Thiên Chúa toàn năng cao cả lại có thể mặc
lấy hình dạng một con người rất bình dị, thậm chí có vẻ thuộc một giai cấp kém
hơn họ, học hành hay bằng cấp không bằng họ. Đặt mình vào địa vị của họ, chắc
hẳn rất nhiều người trong chúng ta - cả tôi nữa - cũng sẽ suy nghĩ và hành động
như họ. Chính vì thế, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải rút ra bài học cho mình:
Thiên Chúa có thể mặc lấy hình dạng mà trí tưởng tượng ta không ngờ tới được.
Đặc biệt nhưng cũng thông thường nhất, Ngài mặc lấy hình dạng của những tha
nhân sống chung quanh ta, bên cạnh ta, nhất là những người đang chịu đau khổ,
bị khinh rẻ và áp bức bất công vì nghèo hèn mà không nói lên được...
b) Thiên Chúa hiện thân nơi
những người Ngài sai đến
Một trong những lỗi thông thường nhất của chúng ta -
tương tự như lỗi của các kinh sư nói trên - là chúng ta khó có thể chấp nhận
những người đại diện cho Thiên Chúa ở trần gian lại là những người kém hơn mình
mặt này mặt nọ, thậm chí rất nhiều mặt. Còn các nhà lãnh đạo xã hội hay tôn
giáo cũng khó có thể nhận ra các ngôn sứ của Thiên Chúa trong thời đại mình khi
thấy họ thuộc giai cấp kém hơn mình, hoặc nói những điều mà theo sự hiểu biết
của mình thì khó mà chấp nhận được.
Thật ra, nếu các ngôn sứ mà nói đúng như mọi người
vẫn nghĩ, vẫn quan niệm, thì có bao giờ họ lại bị bách hại, bạc đãi? Nhưng theo
Đức Giê-su, ngôn sứ đích thực thì hầu như bao giờ cũng bị thế gian bạc đãi (x.
Lc 6,23), vì họ luôn luôn đến để nâng cao trình độ tâm linh của con người lên.
Điều đó buộc mọi người phải thay đổi quan niệm cũ. Điều này là nguyên nhân
chính khiến các ngôn sứ bị người đồng thời bách hại vì họ hiểu lầm các ngôn sứ
là phá hoại. Những người chấp vào quan niệm cũ chắc chắn sẽ bị vấp phạm và gây
vấp phạm (x. Lc 20,18; Mt 11,6; 15,12; Mc 6,3). Nếu đọc kỹ Lời Chúa, chúng ta
sẽ rút ra được những tiêu chuẩn đúng đắn để phân biệt và nhận ra ngôn sứ thật.
Người ta nhận lầm ngôn sứ giả là ngôn sứ thật và ném đá hay kết án những ngôn
sứ thật chính vì người ta đã dựa vào những tiêu chuẩn của con người. Đương
nhiên không phải ai nói khác với quan niệm chung của mọi người cũng đều là ngôn
sứ.
3. Đức Giê-su có thể tha cả những tội ta phạm tới tha
nhân
Trở lại việc Đức Giê-su có quyền tha tội. Trên nguyên
tắc, tội phạm tới ai, thì chỉ có người ấy mới có quyền tha. Thật là phi lý khi
A xúc phạm hay gây thiệt hại cho B, mà C - một người khác - lại thay cho B để
tha lỗi cho A. Cho dù C là cha mẹ hay chủ nhân của B, thì việc tha lỗi dùm như
thế khó có thể chấp nhận được đối với những ai đòi hỏi sự hợp lý. Ta thấy tòa
án ngoài đời không hề có quyền tha tội cho ai khi người ấy thật sự có tội. Nếu
tòa án tuyên bố bị can trắng án là do tòa án chứng minh được người ấy vô tội.
Nếu bị can có tội mà tòa án vẫn tha là tòa án đã vi phạm luật pháp. Vậy ta phải
giải thích thế nào về việc Đức Giê-su tha cho ta những tội hay sự xúc phạm ta
làm cho người khác chứ không phải làm cho Ngài?
Có hai điều có thể giả định: một là Ngài làm như thế
là phi lý, hai là Ngài làm như thế là hữu lý. Là Ki-tô hữu, chắc chắn chúng ta
không thể chấp nhận Ngài phi lý được. Ngài không thể phi lý! Vì thế, nếu ta
thấy việc Ngài-tha-tội-dùm-cho-người-khác là phi lý thì chính vì ta chưa thấy
được sự hợp lý của nó mà thôi. Sự hợp lý đó nằm ở chỗ nào?
Lập luận sau đây (số 2) cũng tương tự như lập luận
trên (số 1). Nếu chỉ có người bị xúc phạm mới có quyền tha cho người xúc phạm
mình, mà chính Đức Giê-su lại cho rằng mình có quyền tha như vậy, thì kết luận
hợp lý phải là: Ngài chính là người bị xúc phạm, hay nói rõ hơn người bị xúc
phạm và Ngài chỉ là một. Nói cách khác, khi ta xúc phạm đến tha nhân của ta, là
ta xúc phạm đến chính Đức Giê-su: chính Ngài bị xúc phạm, thậm chí còn nhiều
hơn cả người đang được coi là bị xúc phạm nữa. Thật vậy, nhiều lần trong Tin
Mừng Ngài đã tự đồng hóa Ngài với tha nhân của ta, chẳng hạn: «Ta bảo thật các
ngươi: mỗi lần các ngươi làm (hay không làm) như thế cho một trong những anh em
bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm (hay không làm) cho chính Ta vậy»
(Mt 25,40.45).
Rất có thể chúng ta cũng hành động tương tự như những
kinh sư Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay: cố tình không nhận ra Thiên Chúa
hay Đức Giê-su ở trong hình dạng của những người anh chị em đang sống chung
quanh ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, lời của Đức Giê-su thật là rõ ràng cho con
thấy tha nhân chung quanh con chính là hình ảnh, là hiện thân của Cha, của Đức
Giê-su. Nhưng than ôi, con cũng cứng lòng không kém gì các kinh sư xưa, cố tình
không nhìn nhận như vậy, chỉ vì họ nhiều khi khó thương quá, hèn kém quá. Xin
cho con nhận ra sai sót của con và tu sửa lại.
23. Tin Chúa có quyền làm phép lạ và tha tội
Trong khi Chúa giảng dạy thì dân chúng đến vây quanh
Người. Mỗi người đều có nhu cầu để xin Chúa, vì họ nghe biết Chúa làm nhiều
phép lạ. Một người trong họ xin Chúa chữa khỏi bất toại. Chúa dùng cơ hội này
để dạy đám đông, cho họ cái nhìn sâu hơn về sứ mệnh của Chúa giữa loài người.
Chúa dùng việc chữa lành như một cơ hội để nói về việc tha tội. Không những
Chúa ban cho người bất toại điều anh ta xin, nhưng còn ban cho anh ta điều anh
ta cần, không những ban cho anh ta được phục hồi khỏi bất bệnh phần xác, mà còn
ban cho anh ta được phục hồi khỏi tội linh hồn. Chúa dùng lời quyền thế để nói
với người bất toại: "Tội con đã được tha rồi" (Mc 2,5). Bằng lời nói
đó Chúa Giê-su đồng hoá với Thiên Chúa. Và đám đông lấy làm vấp phạm về lời
Chúa nói: Làm sao ông ta dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ngoài một
mình Thiên Chúa ra, ai có quyền tha tội? (Mc 2,7).
Tuy nhiên Chúa Giê-su đi guốc trong bụng họ, biết họ
đang nghĩ gì nên quyết định làm chứng lời Người nói bằng hành động:" Để
các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất, Ta truyền cho anh chỗi dậy,
vác chõng mà về "(Mc 2,10-11). Đám đông càng lấy làm sửng sốt hơn nữa, bởi
vì ngoài việc chữa bệnh phần xác, Chúa còn chữa trị bệnh phần hồn, ban cho anh
ta sự bình an, và đời sống mới trong ơn thánh, hơn cả cái điều anh ta xin.
Bài trích Sách tiên Tri Isaia hôm nay cho thấy, Thiên
Chúa dùng miệng lưỡi vị Tiên Tri để loan báo Người sẽlàm mới lại lời giao ước
trên núi Sinai. Mặc dầu dân riêng của Chúa thường bất trung, Chúa vẫn muốn đưa
dẫn họ trở về nhà Chúa: "Ta sẽ xoá bỏ sự gian ác của ngươi, và sẽ không
còn nhớ đến tội ngươi nữa "(Is 43,25). Theo Thánh Phao-lô trong thư gửi
tín hữu Corintô thì lời Chúa hứa đã được thực hiện nơi Đức Giê-su. Sau khi sống
lại từ cõi chết, Chúa Giê-su hiện ra với các tông đồ và phán: Hãy nhận lấy Chúa
Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Bằng những lời này,
Chúa Giê-su ban quyền tha tội cho các tông đồ và những người kế vị trong Giáo
hội. Lời Chúa tha tội cho người bất toại cũng thường được nói với ta. Đó là lời
ban ơn tha tội và chữa lành, lời ban bình an và sự sống mới. Phúc Âm hôm nay
ghi lại Chúa Giê-su động lòng trắc ẩn vì đức tin quả quyết và sắt đá của người
bất toại và của bạn hữu anh ta. Trèo lên mái nhà, rỡ mái để hạ người bất toại
xuống là một việc làm quyết tâm và tin tương vào quyền năng và quyền phép của
Thiên Chúa. Phúc âm không ghi lại nhà đó là của ai, cũng không nói người chủ
nhà có đòi bồi thường vì mái nhà của họ bị rỡ hay không. Có lẽ ngày xưa mái nhà
đục lợp đơn giản và dân làng quen biết nhau cho nên họ thông cảm với người bất
toại, mà không đòi bồi thường.
Để đáp ứng lòng tin của người bất toại và của các bạn
hữu anh ta, Chúa đã chữa lành cho anh. Đám đông ngạc nhiên và ca tụng Thiên
Chúa vì người đã làm một việc trọng đại qua Người Con. Phép lạ của Chúa là dấu
chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa chứ không hẳn chỉ là việc làm do lòng thương
xót. Bất cứ khi nào làm phép lạ, Chúa đều nại đến đức tin: đức tin đưa đến phép
lạ, đức tin đem ơn chữa lành. Khi người Pha-ri-siêu xin Chúa một dấu lạ trên
trời để thử Người, Chúa đã từ chối vì họ thiếu lòng tin. Phúc Âm Marcô có ghi
lại: "Chúa thở dài và nói: Tại sao thế hệ này lại xin điều lạ? Quả thật,
Ta bảo các ông hay: sẽ chẳng cho thế hệ này điều lạ nào. Rồi Người bỏ đi."
Như vậy ta thấy, nếu không có đức tin, sẽ không có phép lạ.
24. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Ơn tha thứ cho một kẻ bại liệt
Với hình thức chúng ta hiện có, trình thuật về việc
Chúa Giêsu chữa lành người bại liệt đặt trọng tâm nơi cuộc tranh luận giữa Chúa
Giêsu và các luật sĩ về quyền tha tội (c. 5b-10).
Khởi đầu là quang cảnh hiền hòa (c.1). Ở đây chúng ta
đang trở về Caphanaum là nơi Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ của Ngài (1,21). Căn
nhà Ngài đang ngụ có thể là nhà của Simon và Anrê (1,29). Maccô nhấn mạnh đến
làn sóng người và nhất là tình trạng kẹt cứng vây quanh chỗ Chúa Giêsu ngồi
(c.2). Đám dân xô lấn tới nghe Ngài đông quá đến nỗi nhà cửa bị tắc nghẽn. Vị
Đạo Sư trông chẳng khác gì đang bị đám quần chúng nhốt kín. Và đám quần chúng này
gây trở ngại nghiêm trọng cho bất cứ ai ở ngoài muốn gặp Chúa. Vậy mà này đây
có bốn người khệ nệ khiêng một bệnh nhân bại liệt đến. Rõ ràng đây là trường
hợp khẩn cấp. Kẻ bại liệt này vừa bị “khai trừ” khỏi đám người khỏe mạnh, bị
khai trừ khỏi cộng đoàn đang vây quanh Chúa Giêsu. Chiến thuật tinh vi dỡ nhà
do các tay khiêng cáng rất gây khả năng cho độc giả. Chiến thuật này mặc khải
rõ về cách thức xây nhà vào thời đại đó. Nhà cửa ở Palestin thường không có
tầng lầu, mái nhà bằng phẳng nên rất dễ leo lên, và mái làm bằng cành cây và
đất nện vì thế dễ dàng bị đục thủng lỗ. Quả đây là một “phát minh” đáng khâm
phục: Chúa Giêsu nhận ra ngay đức tin của những kẻ xâm nhập này. Họ dám cắt
ngang cuộc trò chuyện giữa vị Đạo Sư và quần chúng của Ngài (c. 5a). Tuy nhiên
điều mà mọi người sửng sốt lại chính là những lời thốt ra từ miệng vị Đạo Sư.
Lúc đó hẳn người ta ai cũng mong chờ Ngài thốt ra một lời công bố chữa lành
người bệnh. Điều này mãi sau mới được ghi nhận (c. 11). Thay vào đó, Chúa Giêsu
lại tuyên bố với người bại liệt: “Con đã được tha tội rồi” (c.5b). Ngài cố tình
đưa ra công thức trên ở thể thụ động theo đúng lối nói của mọi người Do Thái
đàng hoàng là tránh đề cập đến danh xưng của Chúa. Tuy nhiên rõ ràng Chúa Giêsu
muốn cho cử tọa hiểu rằng chính Ngài ban phát sự tha thứ đó!
Ngay khi Chúa Giêsu thốt ra lời tuyên bố chủ chốt này
thì lập tức cuộc tranh cãi đã khơi mào. Trong tâm trí các luật sĩ hiện ra lời
buộc tội: “Ông này quả đã phạm thượng khi dám cho mình quyền tha tội, điều mà
chỉ riêng Thiên Chúa mới được quyền làm” (c.6-7). Phản ứng của các “chuyên gia”
Kinh Thánh này cũng dễ hiểu thôi. Theo Thánh Kinh, chỉ mỗi mình Thiên Chúa nắm
quyền tha tội cho người ta. Tuy nhiên lời cáo buộc Chúa Giêsu là kẻ phạm thượng
đã mang độc giả vào bầu khí sâu độc của cuộc xử án vị Đạo Sư để đưa Ngài đến
cuộc tử nạn (14,63-64).
Lúc này đây, Chúa Giêsu muốn vạch trần các tư tưởng
đang nhởn nhơ trong tâm trí đám đối thủ Ngài. Ngay trước khi giải nghĩa cho họ
rõ, Ngài đã dùng những câu hỏi thích đáng dồn đám luật sĩ kiêu hãnh về kiến
thức của họ vào chân tường (c.9). Chắc chắn tuyên bố ra một lời tha tội thiêng
liêng, hiệu quả không kiểm chứng được rõ ràng, thì dễ hơn làm cho một kẻ bị bại
liệt đứng lên đi được. Tuy nhiên cuộc tranh luận này đạt tới đỉnh cao trong lời
công bố long trọng của Chúa Giêsu rất đáng mọi người ghi nhớ (c. 10). Lần đầu
tiên trong Tin Mừng của mình, Maccô đã đặt vào miệng Chúa Giêsu thành ngữ “Con
Người”. Ý nghĩa của thành ngữ này xem ra khó hiểu và gây tranh luận. Trong
tiếng Hy Bá Lai cũng như tiếng Aram, từ ngữ “một con người” chỉ đơn giản ám chỉ
“một người” (x. Ed 2,1; 3,1-4 v.v…). Tuy nhiên vào thế kỷ II trước Chúa Giêsu
Kitô ra đời, người ta thấy xuất hiện trong sách Đanien thành ngữ: “Giống như
một CON NGƯỜI” huyền diệu được Chúa ủy thác cho mọi vương quyền trên trái đất
(Đn 7,13-14). Và trong truyền thống Do Thái mãi cho đến thời Chúa Giêsu, khuôn
mặt kỳ bí này đã công khai mang ý nghĩa nói về Đấng Mêsia. Con người chính là
Đấng Mêsia được Thiên Chúa ủy thác trọn vẹn quyền lực để xét xử và cứu độ hoàn
vũ vào thời chung cuộc.
Như vậy ở đây Chúa Giêsu tự khoác lên mình tước hiệu
“Con Người” cũng như quyền lực thần linh của Ngài để biện minh chi hành vi Ngài
tha thứ tội lỗi cho người bại liệt nọ. Ngài tự trình bày mình là Đấng Mêsia
thông dự trọn ven vào quyền năng của Thiên Chúa. Quả là sự tự nhận đáng mọi
người chúng ta lưu ý! Trước kia các tiên tri đã loan báo việc tha tội là một
trong những sự cố dành riêng cho thời kỳ cứu độ (Gr 31,31-34; Ed 36,25-29). Sự
tha thứ tội lỗi được xem như hành vi nền tảng của ơn cứu độ, là trọng tâm của
Giao Ước mới bởi vì Chúa Giêsu sẽ hiến dâng mạng sống mình để tha thứ tội lỗi
chúng ta (x. Mt 26,28). Và điều chắc chắn làm các luật sĩ cực kỳ khó chịu là
Chúa Giêsu đã dùng một lời nói đơn giản giữa đám đông thế này đang khi lẽ ra
hành vi “hiến dâng để tha tội” phải được thực hiện đúng chỗ nơi đền thánh
Giêrusalem (Lv 6,17-23). Chữa người bại liệt này rõ ràng là Chúa Giêsu muốn
chứng tỏ Ngài nắm trong tay quyền tha tội (c. 11-12a). Bệnh nhân lúc đầu nằm
sóng soài trên chõng khác gì một xác chết. Thế mà giờ đây chẳng những đã đứng
dậy mà lại còn vác chõng đi nữa chứ. Khi bảo anh ta: “Hãy đứng dậy” Chúa Giêsu
đã sử dụng động từ sau này sẽ được dùng để nói về cuộc Phục Sinh của Ngài
(16,6). Lệnh Chúa truyền cho anh ta có thể được nói như sau: “Hãy sống lại!”.
Qua điều này, chúng ta thấy rõ Maccô đã đọc lại biến cố trên dưới ánh sáng Phục
Sinh nhằm động viên các Kitô hữu thời đại ông. Thêm vào đó “căn nhà” nơi Chúa
giảng dạy đã trở nên nơi tụ họp thường xuyên của cộng đoàn Kitô giáo trong thời
Giáo Hội sơ khai (Cv 12,12). Ngay từ đầu, Maccô đã ghi nhận Chúa Giêsu chọn nơi
đó để “loan báo lời Ngài” (c. 2b). Trong Giáo Hội đang trưởng thành, thành ngữ
“loan báo lời Ngài’ là từ chuyên môn để chỉ sự công bố Tin Mừng (Cv 4,29-31;
8,25). Và ở đây (cũng như ở 1,21-27), theo Maccô, đáng ghi nhận là lời giảng
dạy tuyệt vời nhất của Chúa Giêsu lại chính là hành vi cứu độ của Ngài. Ơn cứu
độ liên quan đến toàn bộ con người cả hồn lẫn xác. Trong Cựu Ước, bệnh tật, đặc
biệt bệnh bại liệt, là dấu chỉ chứng tỏ người bệnh đã phạm tội (Lv 21,16-21).
Chúa Giêsu đến kéo con người ra khỏi bệnh tật và tội lỗi. Ý nghĩa sâu xa của
tất cả các phép lạ Ngài làm đã được thấy rõ qua trình thuật trên. Chuỗi tranh
luận bắt đầu với trang này sẽ vẫn còn tiếp diễn (2,13-3,6).
Cuộc tranh luận đầu tiên này với đám luật sĩ khơi
ngòi cho thấy quyền năng siêu nhiên nơi Chúa Giêsu. Ngài đến làm đảo lộn mọi hệ
thống hy tế được nhà cầm quyền Do Thái lập nên với mục đích cầu ơn tha thứ của
Thiên Chúa. Hành vi cứu độ và tước hiệu nhiệm mầu nơi Ngài đã nêu lên mãnh liệt
vấn nạn về nhân cách sâu thẳm của Ngài: Người này là ai vậy?
Đoạn cuối trình thuật (.12b) rõ ràng cho thấy đám cử
tọa im thin thít trước thái độ của vị Đạo Sư.
25. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu trở lại thành Caphácnaum. Hay tin Người ở nhà, dân
chúng kéo tới rất đông, đến nơi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng.
Chúng ta còn nhớ, Đức Giêsu đã sống "ngày đầu
tiên" lời tác vụ của Người tại Caphácnaum. Sau vài ngày rảo quanh tại
Ga-li-lê, Người lại trở về. Người ta xì xào: "Người đang ở nhà".
Máccô cảm thấy không cần phải nói rõ. Nhưng ta có thể tin rằng đó là căn nhà
của Phêrô và Anrê.
Đức Giêsu cố tìm sự yên tĩnh "trong nơi hoang
vắng" (Mc 1,13 - 1,34 - 1,45) . Đám đông cứ đeo bám quấy rầy Người. Điều
này chứng tỏ niềm mong đợi Đấng Mê-si-a của lân chúng thật mơ hồ. Có thể nói,
họ còn hoàn toàn mơ hồ ngay cả việc kiếm tìm Thiên Chúa nữa: chúng ta kiếm tìm
Thiên Chúa nào đây? Đức Kitô đã tỏ ra là một người có sức hấp dẫn, lôi cuốn...
nhưng điều đó cũng không minh chứng bao nhiêu. Nói rằng ta "ủng hộ Đức
Giêsu “, cũng không có nghĩa gì cho lắrn. Đức Giêsu thường ngờ vực về thái độ
bốc đồng đó. Thế nên, khi từng đoàn lũ dân chúng tụ họp lại.. Đức Giêsu cũng
không dễ gì bị lừa: sự kiện đó không hứa hẹn điều gì giá trị cả... bởi vì người
ta chỉ chờ đợi nơi Người những ân huệ trước mắt. Đừng quên rằng, thỉnh thoảng
cũng có những người cuồng tưởng đứng lên, tuyên bố mình là Đấng Mê-si-a mọi
người đang mong đợi, và cũng lôi cuốn được nhiều đám dân chúng. Như thế, ta có
thể hiểu rõ hơn, tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra nghi ngờ những cuộc tụ họp đông
đảo của dân chúng. Còn tôi thì sao? Tôi nghĩ thế nào về Thiên Chúa?
Người giảng Lời Thiên Chúa cho họ nghe
Đối với Đức Giêsu, đó là điều cốt yếu cho dù dân
chúng có đến để "nhìn xem dấu lạ", để có cảm giác mạnh và phi thường
về một việc làm mang tính thần thiêng giả tạo, thì Đức Giêsu vẫn cương quyết
giữ đúng sứ vụ của mình: Huấn luyện và giáo dục một con người mới. Và để thực
hiện công việc đó, phương 'tiên hay nhất không phải là việc kỳ diệu nhưng rất
đơn thuần chỉ là "lời nói", lời nói bình thường của con người, coi
như "phương tiện truyền thông và đối thoại" giữa người này với kẻ
khác, một "tiếng gió nhẹ nhàng, một làn sóng bé nhỏ từ một tâm hồn này đến
một tâm hồn kia, để tạo lập giữa họ một sự "thông hiệp" thiêng liêng.
Tôi dành nhiều thời gian để chiêm ngắm Đức Giêsu đang
nói. Bản văn Hy Lạp của Máccô ghi rõ: "Người nói với họ Lời". Khi
viết câu đó Máccô có thể đã nghĩ đến những bài giáo lý thâm sâu, là phần cốt
thiết trong những buổi họp mặt đầu tiên của các Kitô hữu, để cùng nhau cử hành
phụng vụ. Vâng, "việc làm đầu tiên" của Đức Giêsu, khi Người quy tụ
chúng ta mỗi Chúa nhật, " Ngày của Người", đó là, “nói với chúng ta
Lời". Các Kitô hữu đến tham dự thánh lễ chậm trễ, có nhận ra rằng họ để
mất một điều quan trọng không. Họ bỏ lỡ một việc mà Đức Giêsu quan tâm nhất,
một việc mà Người luôn làm trước tiên: Họ bỏ phần Phụng Vụ Lời Chúa! Thiên Chúa
nói, thế mà họ lại không hiện diện ở đó! Họ đã có việc gì quan trọng phải làm,
đến nỗi đã không đến đúng hẹn? Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sốt sắng hiện
diện và chăm chú lắng nghe khi Chúa ngỏ lời.
Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ tê liệt, có
bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần
Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, dỡ xong, họ thả người
tê liệt đang nằm trên chõng xuống.
Cả ba thánh sử Máccô, Mát-thêu và Luca đều thuật lại
hình ảnh trên. Nhưng chỉ có Máccô là ghi đầy đủ chi tiết Nhà của người phương
Đông thời đó đều có sân thượng. Người ta có thể leo lên "mái" bằng
một cầu thang phía ngoài. Trần nhà đulợc làm bằng những cây sậy đặt trên những
xà và được trát phủ lên trên bằng một lớp bùn khô. Do đó, "bốn" người
khiêng chõng đã quyết định khoét một lỗ trên sân thượng, cầm bốn đầu dây thừng
thòng người bệnh xuống. Phải làm như thế mới được! Và việc làm cầu kỳ ngộ
nghĩnh này, hình như đã làm cho Maccô rất cảm kích. Đối với chúng ta, thì đây
là một đoạn phim hay, quay rất khéo, một cảnh "giật gân"! Ta cứ tưởng
như các nhà báo đang cầm máy hình trên tay. Nhưng Máccô đâu có quan tâm đến yếu
tố lịch sử như con người hiện đại kiếm tìm một tài liệu. Đối với ông, những chi
tiết cụ thể trên là một "hình tượng", một bức tranh mang ý nghĩa tín
lý: Đức Giêsu "thấy đức tin của họ" đã nói... Đúng vậy, cảnh thòng
người từ trên mái nhà xuống, minh chứng lòng tin của những kẻ khiêng người
bệnh. Đức tin là điều kiện để Chúa làm phép lạ: đó là một tư tương quan trọng
đối với Mác-cô. Đến nỗi, ông nói, Đức Giêsu "không thể làm phép lạ"
khi người ta thiếu lòng tin (Mc 6,5 - Mc 9,21-24). Còn tôi thì sao? Đức tin của
tôi thế nào? Đức tin đã thôi thúc tôi làm gì?
Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người tê liệt:
"Này con, con đã được tha tội rồi”.
Kỳ thật! Người ta đang mong chờ một phép lạ . Thế mà
Đức Giêsu lại không thể hiện. Nào, thử xem Người có chịu chữa lành anh ta
không, khi mà lòng tin của những người khiêng anh ta đã vượt qua biết bao trở
ngại? Đối với Đức Giêsu, đây còn là một điều cốt yếu nữa. Thay vì để cho người
ta lôi kéo mình đóng vai trò một pháp sư một "Đấng Mê-si-a làm phép
lạ", một "người gây ấn tượng mạnh". Đức Giêsu đã nhấn mạnh tới
đức tin của con người và Người chỉ thực hiện một việc thiên sai hoàn toàn nội
tâm: Người tha tội? ở đây không có sự thú tội, xưng tội, hay lời xin tha tội. Những
người này tuôn đến không nhắm tội điều đó! Thế nhưng, vì thói quen, Thiên Chúa
ban tặng nhiều hơn là con người chờ mong.
Người không bị ràng buộc vào những trông chờ, nài xin
của con người? Người trao ban nhiều hơn! Người cho đi hết khả năng mình, cách
nhưng không, không kể gì công nghiệp của ta.
Chúng ta có chú ý những gì đã xảy ra lúc đó trong bối
cảnh như thế: người tê liệt nài xin được chữa lành vẫn còn nằm đó, vẫn bị liệt
như trước! Đó cũng là tình trạng thường xảy ra cho ta. Chúng ta gặp một tình
huống gây khổ sầu. Ta nài xin Chúa giải gỡ. Nhưng bề ngoài, mọi sự vẫn như
trước. Có thể ta tưởng rằng Thiên Chúa không nhậm lời ta xin. Thế nhưng nếu ta
nhìn trong lãnh vực đức tin mà đức tin làm ta thấy được cả những gì vô hình (Dt
11,1), thì mọi sự đã biến đổi, nhưng ở bên trong.
Do đó, cảnh Tin Mừng trên chất vấn ta: chúng ta xin
gì với Đức Giêsu?
Mấy kinh sư ngồi đó nghĩ bụng rằng: "Sao ông này lại
dám nói như vậy? ông ta nói phạm thượng. Ngoài một mình Thiên Chúa ra ai có
quyền tha tội?".
Đức Giêsu mới chỉ công khai rao giảng được ít ngày.
Thế mà đã có những người hâm mộ, những kẻ kình chống và cũng có những người
dửng dưng "không tin". Máccô tiếp tục trình thuật của ông để làm nổi
bật thái độ chống đối đó Năm cuộc "tranh luận" gay gắt sẽ làm cho Đức
Giêsu phải đương đầu với nhóm kinh sư và Pharisêu:
- Vấn đề tha tội (Mc 2,1-12).
- Vấn đề ngồi dùng bữa với kẻ tội lỗi (Mc 2,13-17).
- Vấn đề không ăn chay (Mc 2, 18-22).
- Vấn đề vi phạm ngày Sa-bát (Mc 2,22-28).
- Vấn đề vi phạm Luật (Mc 3,1-6).
Đức Giêsu là hiện thân lòng nhân từ của Thiên Chúa,
ấy thế mà chung quanh lại gặp toàn đối thủ. Ngay khi vừa khởi sự Tin Mừng đã
hiện lên cuộc thương khó . Đức Giêsu sẽ bị kết án bởi chính nhóm kinh sư này,
những nhà thông suốt về đạo, cũng vì lý do "nói phạm thượng" (Mc
4,64).
Tôi chiêm ngắm Đức Giêsu đang bị kẻ thù vây quanh và
canh chừng. Cuộc sống hằng ngày của Người sẽ thực sự bi thảm. Người ta rình rập
từng lời của Người. Đức Giêsu luôn bị đưa ra tòa. . . cho đến tận thế.
Vậy để các ông biết: "ở dưới đất này, Con Người có
quyền tha tội".
Lần đầu tiên, Đức Giêsu tự khẳng định mình như “Con
Người", như thế Người chấp nhận một lời sấm về Đấng Mê-si-a mà mọi người
lúc đó đều biết. Thực vậy, Đa-ni-el đã diễn tả một Con Người đến trên mây trời:
"Này đây, với mây trời, như thế một Con Người đi đến!...
Người được ban tạng quyền bính (tiếng Hy Lạp là
exousia), vinh dự, vương triều. Tất cả các dân, các nước, các tiếng nói phải
làm tôi Người. Quyền bính của .Người sẽ không bị hủy" (Đn 7,13-14.). Ta
nên để ý tới việc lập lại từ "quyền bính": đó là một từ chủ chốt.
Mác-cô đặt nơi môi miệng Đức Giêsu đúng cùng một từ và trong cùng một bối cảnh
"Con Người có quyền tiếng Hy Lạp là exousia) tha tội". Quyền này là
quyền của vị Thẩm phán cánh chung, Đấng phán xét ngày tận thế.
Sau này Đức Giêsu sẽ hai lần trích lại cùng một lời
sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en trên: một lần để loan báo Đền Thánh sẽ bị phá hủy (Mc
13,26), và lần khác trong khi Người bị kết án tước Thượng Hội Đồng Do Thái (Mc
14,6). Vâng, chúng ta tin rằng, Đức Giêsu có "quyền" của vị Thẩm phán
ngày cánh chung, nhưng ta cũng cần ghi nhận, hình như quyền này không dùng
"để phạt", nhưng "để tha thứ" Và kinh Tin kính của người
Kitô hữu chúng ta, không buộc ta phải tin vào tội nhưng vào "ơn tha
tội".
Ngay từ đầu Tin Mừng, chúng ta đã được yêu cầu cần
thay đổi quan niệm về Thiên Chúa: ta phải thấy rằng, tội lỗi trước hết không
thể là điều khiến ta xấu hổ, khó thú nhận, khó sửa sai... nhưng đó là yếu tố
tạo cho Thiên Chúa có dịp biểu lộ tình yêu của Người cho ta. Ngay cả khi không
có một chút ăn năn nào trong tâm hồn con người, thì Chúa đã thứ tha cho ta, và
đặt trước mọi giá trị nơi đó. Người cũng "đoán trước" lời xin tha tội
của ta: "Quả vậy, khi chúng ta còn yếu, không có sức làm được gì, thì theo
đúng kỳ hạn. Đức Kitô đã chết vì chúng ta, là hạng người nghịch cùng Thiên
Chúa" (Rm 5,6).
Tôi truyền cho anh: "Hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà”
Dưới
ngòi bút của Máccô, ta gặp lại từ "égeirô" trên đây, vừa có nghĩa là
"chỗi dậy", "thức dậy", vừa là "sống lại". Và
chính vào chiều tối Ngày Lễ Vượt qua, chiều tối Phục sinh Đức Giêsu sẽ ban cho
con người quen tha tội (Ga 20,23). Đó là quyền năng thực sự của Người.
Ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau:
"Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ”.
Mọi Phụng vụ sám hối đều kết thúc bằng một Phụng vụ
ban ơn.
26. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Người bất toại được tha tội và chữa lành
1. Chúa Giêsu thán phục niềm tin của người bất toại
cũng như của những kẻ khiêng anh ta đến: vì muốn gặp Chúa, họ đã vận dụng mọi
cách để làm cho kỳ được. Ngày nay ai muốn gặp Chúa, cũng phải biết hy sinh dẹp
bỏ mọi chướng ngại vật quanh mình và trong bản thân mình.
2. Một mình người bất toại không thể đi gặp Chúa
Giêsu, vì anh chẳng có sức cất bước. Anh phải để kẻ khác đỡ nâng, khiêng vác
mình. Nhìn nhận các giới hạn, khiếm khuyết của ta, khiêm tốn chấp nhận sự giúp
đỡ cộng tác của anh em là phương thế chắc chắn nhất giúp ta đi gặp Chúa. Và một
khi được kẻ khác giúp đỡ đến lượt ta cũng hãy mau mắn giúp kẻ khác như vậy.
3. Chúa Giêsu đã làm phép lạ và tha tội cho bệnh nhân
ngay trong nhà của Phêrô. Trong bài đọc Cựu ước, ngôn sứ Isaia tiên hứa việc
giải phóng cộng đoàn Israel
khỏi kiếp sống lưu đày Tin mừng cho thấy rõ ý nghĩa của tập đoàn: chính tập thể
bệnh nhân tụ họp trong nhà của Phêrô (x. Mc 1,29) đã được chữa lành và được ơn
tha thứ. Chính. Giáo Hội, nhà của các sứ đồ do Chúa Giêsu dựng nên, là nơi ban
ơn tha thứ. Vậy ta hãy đến lãnh lấy bí tích giải tội mà Chúa đã ban qua Giáo
Hội.
4. Như xưa đã cho dân Do thái xuất hành khỏi Ai cập
để đi về miền Đất hứa, ngày nay Thiên Chúa cũng dùng phép giải tội như cuộc
xuất hành thứ hai đưa ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi để được vào sống trong tình
yêu và gia đình của Ngài.
5. Nghe tin Chúa Giêsu đang ở trong nhà, nhiều người
tấp nập kéo đến (Mc 2,2). Họ là những ai? thôi thì đủ thứ: hạng tò mò, hạng
theo dõi để báo cáo, hạng đến nghe giảng, người đến xin ban ơn ... họ tới bên
Chúa Giêsu với những niềm vui, nỗi buồn của cuộc sống. Thánh lễ chính là lúc Chúa
chiêu tập mọi người đến bên Chúa để bồi dưỡng, nuôi ăn. Đèn không sáng nếu hết
dầu, xe không chạy nếu cạn xăng hồn tông đồ sẽ suy mạt nếu không đến với Thánh
Thể: ai không ăn thịt Ta và uống máu Ta, chẳng được sống đời đời" (ĐHV
360).
6. "Ai nấy đều sửng sốt, ngạc nhiên và ngợi khen
Thiên Chúa" (Mc 212). Bỡ ngỡ ngạc nhiên và thán phục là tâm trạng của
những kẻ thấy mình bất xứng mà lại được Chúa đoái đến viếng thăm, là thái độ
của những tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, cởi mở dễ dàng khám phá ra các dấu chỉ của
thực tại của thời đại mình đang sống, mau mắn nhận ra tiếng kêu mời của Thiên
Chúa, sứ điệp của Tin mừng, việc Nước Trời đang đến, người tự mãn, tự kiêu
chẳng có tâm tình đó, vì họ không thể và không muốn nhận ra các "việc diệu
kỳ của Thiên Chúa” trong đời của họ”.