Niềm khao khát sống thân mật
được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao.
Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự
thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao
giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có
cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao.
Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình
thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi
cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư,
thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY B
Lời Chúa: St
22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10
MỤC LỤC
1. Đau khổ
Việc Chúa Giêsu chịu
đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi
mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự
điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi
người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi
nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của
mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật
là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc,
đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh
truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông
thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham
là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình
và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự
như Abraham, đó là không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả
chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công
chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó
Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã
trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc
chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho
các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một
cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của
Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa
đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn
cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn,
cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân
với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc
các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin
và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý
nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước
những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi,
chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình
thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí,
trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành
động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra
thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau
thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là
đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
2. Biến hình
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong đời, có những
giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió
thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã
được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ
thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người
diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ
nhất: lên núi
Theo quan niệm của
người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên
núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của
cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình.
Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi
leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng
thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một
gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng
ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối
thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong
thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu
của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ
hai: biến hình
Trên núi cao, Đức
Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên
trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều
biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp
xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân
chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần
ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta.
Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu
dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của
Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm
hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch
mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi
mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết
hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba:
xuống núi
Khi đã hưởng nếm
hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô,
trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh
viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn
đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng
nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết
rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu
đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao
giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái
chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống
người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp
xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là
những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để
đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải
phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa
sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người
và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến
hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi
quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào
trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những
khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm
hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên
đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta
chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn
mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa
Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim
Chúa. Amen.
Kiểm điểm đời sống
1- Một số bạn trẻ
tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương
quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể
làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi
sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh
nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn
có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
3. Sống thân mật với Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là tình
yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa
vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy
là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và
đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi.
Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của
Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống
thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi
cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân
mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn
với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng
tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình
thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên
nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần
tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu
Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp
gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người.
Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình
yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch
sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn
những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi,
vĩnh viễn không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm
nhìn dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu
dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi
mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và
Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của
Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách
được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa
chúng ta” (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta
hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh
chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con
Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta
nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều
mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người
dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu
chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho
ta hiểu biết về bản thân mình.
Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu
dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi,
ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của
Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận
với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự
thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế
giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như
thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành
cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng
sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ
sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với
Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh
tẩy tâm hồn con. Amen.
Câu hỏi gợi ý:
1) Bạn đã có kinh
nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với
Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay
này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?
4. Hãy lắng nghe
(Rolland Dionne)
Tha hồ lựa chọn
“Hãy hoán cải, hãy
tin vào Tin Mừng”. Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như
Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải
chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc? Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên
Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không?
Sự lựa chọn mà đức
tin đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ
mang đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái
lui được. Có vô số những vị “giảng đạo” xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui
tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày một
nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa
và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tự hỏi:
Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho chúng
ta biết điều này?
Tầm quan trọng của việc lắng nghe
Một trong những nỗi
bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe,
hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này,
chúng ta được mời gọi lắng nghe: “Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời
Ngài”. Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là để
cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người chống
lại luật của Ngài: “Chúng không nghe lời Ta”.
Cũng như những kẻ
được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi
đi vào sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta
đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình
sống. Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ
cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái
Một khẳng định không
chút do dự, không chút giảm thiểu: “Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời
Ngài”. Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là
Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta
bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và
có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là
người duy nhất đã thể hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.
Việc lựa chọn bao
giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến
đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải
theo là con đường giúp chúng ta tái sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh
đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và
phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để làm cho chúng ta trở nên những kẻ
“được ưu ái”.
Tin tưởng
Chương trình dẫn
chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá
ngắn đối với chương trình của cả một đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ
như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì
Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta
những điều tuyệt vời nữa.
Về phía Ngài, Ngài
ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự
sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc
tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống
ấy.
Chúng ta có sẵn sàng
chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn không? Chúng ta có sẵn sàng “lắng
nghe” không? Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài
dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi
người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền được gọi là “Con yêu dấu”.
5. Được biến đổi hình dạng
(Trích trong
‘Manna’)
Suy niệm
Đức Giêsu mê những
ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi
trong cuộc đời Đức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài
biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở
thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan
vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính
được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài
như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của
núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn
khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một
hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức
Giêsu được Cha biến hình. Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt,
và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con
Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa,
sau khi lên núi gặp Đức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên
Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp
thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải
là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại
với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép
Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp
nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và
phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18). Chúng ta phải trở thành
điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là
một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày. Cần cảm nếm được sự dịu
ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải
xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa
Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám
đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên
núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có
khi thấy cần lên núi.
Gợi ý chia sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất
nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa
vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể
làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai
đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu nguyện
Khi bị bao vây bởi
muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì
trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan
Chúa.
Khi bị xao động bởi
những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe
lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi
đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của
sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu
nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con
người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
6. Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Để có thể minh định
vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn Phúc Âm về sự Biến hình này của
Chúa, chúng ta hãy nhớ lại, những tâm tư nào có thể có nơi các môn đệ là các
Tông đồ tương lai khi Chúa Giêsu loan báo cho họ lần đầu cuộc khổ nạn của
Người. Là người dân Do Thái tốt như họ, các môn đệ Chúa cũng chia sẻ niềm hy
vọng chung của dân Israel. Họ hy vọng một Đấng Cứu Thế toàn thắng và vinh
quang. Nhưng đến một lúc mà Chúa thách đố họ hãy có một hành động đức tin. Nhân
danh họ, Phêrô nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Nhưng sự tuyên xưng ấy chưa
bao trùm được hết tất cả số mệnh của Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng đức tin vào
CON NGƯỜI của Chúa Giêsu, song Phêrô không tưởng tượng nổi là Thiên Chúa lại có
thể trải qua thảm kịch cuộc Khổ nạn. Thành thử cần phải gợi lên dần dần trong
trí óc các môn đệ sự mạc khải điều mà dưới con mắt họ, sẽ là một gương xấu
khủng khiếp, một sự thử thách rất lớn lao cho đức tin của họ. Cũng cần phải
củng cố đức tin họ trước. Giai thoại Biến hình tượng trưng một thời kỳ quan
trọng trong việc giáo dục các môn đệ. Đây là những con người đang chờ đợi một
Đấng Cứu Thế vinh quang. Vậy mà Chúa Giêsu lại mạc khải cho họ biết rằng Chúa
Cứu Thế là người Tôi tớ đau khổ và bị hạ nhục. Làm cách nào giúp họ vượt lên
được khỏi sự trái ý họ cảm thấy? Chúa Giêu muốn giúp họ điều này bằng cách cho
họ thấy là Con Thiên Chúa, mặc dầu chịu đau khổ, sẽ được vinh quang. Và đó là
việc Chúa Biến hình hôm nay.
Chúng ta ghi nhận
rằng cho đến cùng các môn đệ vẫn còn vấp phải gương xấu của cuộc khổ nạn và cái
chết của Chúa Giêsu. Cần phải có sự Sống lại và ngày lễ Ngũ tuần họ mới thực
hiện được những gì mà Thiên Chúa muốn nơi Con Chí Ái của Người.
Chúng ta hãy lưu ý
điều này:
1) Đây là Con Chí Ái của Ta
Điều quan trọng là
vào một lúc trang nghiêm Chúa Cha lên tiếng quả quyết rằng Chúa Giêsu là con
người mà các môn đệ bắt đầu đi theo quả thật là Con của Ngài. Chúng ta đừng
tưởng tượng rằng: vào giây phút đó, các môn đệ quan niệm tiếng ‘Con’ như chúng
ta quan niệm ngày nay, vì ngày nay chúng ta đã được biết mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi. Họ nhận ra là qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra và hành động. Họ linh
cảm thấy Chúa Giêsu có một nguồn gốc và số mệnh vượt xa các giới hạn loài
người. Tiếng từ Trời phán: này là Con Ta yêu dấu, điều đó cũng có nghĩa là Con
duy nhất. Họ nhận ra cách sâu sắc giữa Thiên Chúa và Chúa Giêsu có mối tương
quan phụ tử thật là độc đáo. Họ ý thức rằng Chúa Giêsu tuỳ thuộc vào Thiên
Chúa, đặc mệnh như một người Con. Tiếng lại phán thêm: Hãy nghe lời Người.
Trong trí óc các môn đệ là những người đang mong đợi Đấng Cứu thế, mấy tiếng đó
có nghĩa là: Hãy nghe lời Người như lời đáp lại sự chờ mong của các ngươi vào
Đấng Cứu Thế, ở cả những ngày mà Người trải qua thảm kịch Khổ nạn.
2) Hãy nghe Lời Người
Lời huấn dụ đó (hay
mệnh lệnh đó) từ trời cao cũng ngỏ cùng chúng ta ngày hôm nay. Nhưng hiện giờ
mỗi người trong chúng ta đều đã biết những phản kháng của bản tính con người
chống lại lời mời gọi hãy theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta đều biết
rằng, qua Chúa Giêsu, số phận chúng ta là một số phận quang vinh, nhưng Thiên
Chúa buộc phải giáo dục chúng ta như những người môn đệ và đưa chúng ta dần dần
vượt qua chướng ngại vật của sự đau khổ và sự chết. Thỉnh thoảng Người trợ lực
chúng ta trong công cuộc này, bằng cách ban cho chúng ta những giây phút hoan
lạc nội tâm, nó có tác dụng biến đổi đức tin của chúng ta. Nói chung thì những
giây phút ấy khá hoạ hiếm. Điều quan trọng là chúng ta biết ‘nghe’ Chúa Giêsu.
Chúng ta có thực hiện được điều mà Người trả lời cho tất cả những thắc mắc, chờ
mong, ước muốn sâu xa nhất của chúng ta không?
Sự Biến hình của
Chúa được các Phúc âm trình bày như một giai đoạn trong tiến trình của Chúa tới
Giêrusalem, nơi mà Chúa sẽ phải chết và sẽ Phục Sinh. Trong nhịp độ cuộc Khổ
nạn và Vinh quang đánh dấu cho những bước đi của Chúa tiến tới đích, sự Biến
hình là một âm điệu khải hoàn. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Người
tiếp tục đến cùng con đường của Người. Trên đường đời mà dần dà mỗi ngày chúng
ta một đi sâu vào, chúng ta cũng ý thức được cho chính chúng ta, nhịp điệu khổ
nạn và vinh quang, thử thách và hy vọng. Gương mẫu nào, sức mạnh nào sẽ giúp
chúng ta đi đến cùng? Chúng ta hãy “NGHE” Chúa Giêsu; Đấng đi trước chúng ta,
dìu dắt chúng ta đến sự biến hình bất diệt của chúng ta.
7. Hai khuôn mặt một tình yêu
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức
những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể
phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác
xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này,
cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân bình to lớn, thông thạo võ thuật
và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu
vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn
nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ
các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho
tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một
tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con
cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh
tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo,
không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một
tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một
Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường
như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu
mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba
môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn
mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục
sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác
âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay,
sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế
Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính
Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha
chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban
cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban
cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá
trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho
sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi
tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình
huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một
lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con
trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó
để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa
nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh
tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng
trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta
phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang
với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ
có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và
cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để
sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được
biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích
kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy
Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các
Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như
khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng
vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, “Người
Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín
vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi
chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý
Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi
cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã
được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong
thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự
Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng
yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng
ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới
trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
8. Suy niệm của Noel Quesson
CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI
“Đừng kể lại cho ai nghe… cho
tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng
y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức
giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong
phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức
hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào
ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”.
Đã hẳn bao giờ Thiên
Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng
một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó,
thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của
các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là
an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ
ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức
niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta
phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các
Tông đồ lên một đồi cao.
Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất
hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không
nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm
hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao
nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng
thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao… và tránh đám
đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến
Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết
được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (Mc
5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp
hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên
Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông
thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.
Một điều kiện nữa để thành môn
đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta
yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng
tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa
trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một
mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải
được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi chút
vinh quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại
với ai ‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết rằng chỉ sau
cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích
thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình
yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt
lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc
sống chúng con.
9. Vinh quang thập giá
Qua đoạn Tin mừng
vừa nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái
ngược hẳn với những gì đã xảy ra trong sa mạc khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của
bốn thày trò hôm nay thật là thú vị, đến nỗi Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thày,
chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thày, một
cho Maisen và một cho Êlia. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc
hơi cám dỗ Ngài mà không được, thì hôm nay chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ,
đó là vinh quang của Con Thiên Chúa. Vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai
nhân vật lịch sử của Cựu ước: Maisen và Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng
lại bật mí cho các môn đệ. Tôi xin thưa, chìa khóa của vấn đề được tìm thấy
trong chỉ thị của Ngài ngăn cấm các môn đệ không được tiết lộ điều mắt thấy tai
nghe cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là
Con Thiên Chúa bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã
từ chối, để rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì
chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành
bánh hay nhảy từ trên cao xuống một cách an toàn thì rồi con người cũng có thể
làm được. Nhưng sống lại từ cõi chết thì chỉ mình Thiên Chúa mới thực hiện được
mà thôi. Bởi vì cho đến ngày hôm nay chưa một ai đã thoát khỏi cái chết, thế
nhưng chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết và đó mới là
cuộc biểu dương đích thật quyền năng tuyệt đối của Con Thiên Chúa.
Đức Kitô không những
đã chẳng màng đến của cải, danh vọng thậm chí cả đến quyền năng có sẵn Ngài
cũng chẳng sử dụng và hơn thế nữa Ngài lại còn chấp nhận cho thiên hạ cười chê:
là bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi, là kẻ phạm thượng, điên khùng. Do
đó mà Ngài đã bị kết án và chết như một phạm nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ
nhờ hạ mình thẳm sâu như thế và quên mình tới mức thánh Phaolô đã coi như là
một sự tự hủy, mà Ngài đã đạt được danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu,
đó là Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ
đạt được trong mầu nhiệm thập giá thì hôm nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được
thấy với mục đích là để các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế,
nghĩa là ước mơ rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được chia
nhau mỗi người một địa vị. Đồng thời Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán
nản và tuyệt vọng khi thấy Ngài bị bắt bị kết án và bị giết chết trên thập giá.
Vì thế, biến cố Taborê gắn liền với biến cố Canvê. Sự biến hình gắn liền với
thập giá. Cùng với cuộc khổ nạn và Phục sinh, thì sự biến hình hôm nay sẽ là
một điềm báo trước cho vinh quang của Ngài, một khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng
vậy, nếu hôm nay chúng ta dám chấp nhận khổ đau, dám vác thập giá mà bước theo
Ngài thì trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được tham dự vào vinh quang Phục
sinh với Ngài.
10. Tabor với Đức Giêsu
Bộ phim Một Người Chết Đang Bước Đi kể lại
câu chuyện của một nữ tu (Sơ Helen Prejean), trong nhiều tháng, bà hộ tống một
người đàn ông (Robert) đến chỗ bị hành hình ở Lousiana. Chúng ta hãy ghi chú
cách Robert cố gắng thu phục được lòng tin của một trong những người giám sát,
đó là một hình ảnh tử tế và nhân hậu của người cha, sơ Helen đã phản ánh lại
hình ảnh này như sau:
Không bao giờ Robert thực sự có một người
cha. (Trong số 53 năm tuổi đời của anh, cha anh đã sống 27 năm tại một nhà tù).
Điều này làm cho tôi nghĩ đến cha tôi. Thật là một trong những cảm giác quí giá
nhất trong cuộc đời, khi biết rằng cha bạn tự hào về bạn. Tôi là một môn sinh
của cha tôi, là người lưu giữ cho ông cuốn nhật ký cuộc hành trình nghỉ mát của
gia đình. Ông luôn luôn có một giọng nói đặc biệt, mỗi khi giới thiệu tôi với
các bạn bè và đồng nghiệp của ông: “Đây là Helen, con gái nhỏ của tôi”. Trước
sự hiện diện của những người xa lạ, tôi cứ im lặng, nép sát vào người ông, nắm
chặt bàn tay ông. Sau đó, tôi sẽ siết chặt bàn tay của ông hơn bao giờ hết, và
một lần nữa, có đầy rẫy những câu hỏi và ríu rít nói chuyện với ông. Một đứa
trẻ có thể ngây ngất cảm giác an toàn bên một người cha.
Câu chuyện này có
thể giúp chúng ta hiểu được một số nét nào đó về cảm nghiệm núi Tabor đối với
Đức Giêsu. Trong cuộc đời của Người, có một thời điểm rất khó khăn, một thời
điểm không biết chắc chắn và lo sợ về tương lai. Người đã tiến về Giêrusalem,
tại đó, Người cảm nhận được rằng cùng một số phận giống như tất cả các ngôn sứ
đang chờ đợi Người – một cái chết khủng khiếp. Tự nhiên, Người muốn thoái lui
khỏi số phận đó. Để suy niệm và cầu nguyện, Người đã lên núi Tabor.
Chúng ta không biết
chính xác điều gì xảy ra trên núi. Nhưng dường như Người có một cảm nghiệm sâu
sắc về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nghe được những lời nói tuyệt vời
“Đây là Con Cha yêu dấu”. Trên núi Tabor, Đức Giêsu đã được an ủi và xác nhận.
Người biết rằng Cha Người hài lòng về Người, và sẽ ban cho Người sức mạnh để
đương đầu với một tương lai tối tăm và đầy đe dọa. Với Thiên Chúa đứng về phía
mình, Người có thể đương đầu với tất cả mọi sự.
Đôi khi, cuộc sống
có thể trở nên tối tăm với tất cả chúng ta. Có rất nhiều tiếng nói đối với
chúng ta “Chỉ khi nào thành công, hoặc nổi tiếng, thì bạn mới là một người
tốt”. Nhưng vẫn có một giọng nói thì thầm trong tâm hồn chúng ta “Con là đứa
con trai / con gái yêu dấu của Cha”. Chúng ta cần phải chú ý đến giọng nói này.
Chúng ta phải nhận ra rằng mình là những người con yêu dấu của Thiên Chúa, và
cố gắng sống cuộc đời của mình nhờ ánh sáng chân lý của Người.
Jean Vanier đã thiết lập nhiều cộng đoàn dành
cho người bị bệnh tâm lý. Ông kể lại rằng ở một trong những cộng đoàn đó, có
một người đàn ông tên là Pierre, bị mắc bệnh tâm lý. Ngày kia, có người hỏi
Pierre “Anh có thích cầu nguyện không?”
Anh trả lời “Có chứ”.
Người kia hỏi “Anh làm gì mỗi khi anh cầu
nguyện?”
Pierre trả lời “Tôi lắng nghe”.
“Và Thiên Chúa nói gì với anh?”
Người nói “Hỡi Pierre, con là con trai yêu
dấu của Ta”.
11. Đức tin và đau khổ
Đức tin như một con
mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và
cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa
muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một
thí dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc 1. Khi gần trăm tuổi, ông được
Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con
duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã
là một sự lạ lùng đối với Abraham và Sara, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau
đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy
nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ
đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao
giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham,
vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con
và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức
sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn
giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo
khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Abraham,
chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của một người cha phải
cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin
giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến
thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng,
khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa,
nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một
niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu
muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh
quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này,
để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến
trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn
đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi
Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là
khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự
hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ
rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ
rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một
hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên
Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh
nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi
để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua
thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn
quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa
chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ
là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng kín
cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra
những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta
không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong
cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra
khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận
những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm
nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời
Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời
chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản,
thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn
bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi
Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường
nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy
của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một
điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị gì không? Tự nó
chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc
chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta
đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân
trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau,
nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì
Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng
đỡ bổ sức cho”.
12. Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
(Suy niệm của Lm
Trần Bình Trọng)
Chúa Giêsu nhận thức
rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương
cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người sẽ chứng
kiến cảnh sầu khổ của Chúa trong vườn cây dầu. Vì thế Chúa đưa ba tông đồ lên
đỉnh núi để biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Chúa biến
hình có mục đích là củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong cái viễn
tượng của cuộc khổ hình và thánh giá. Sau cảnh biến hình, Chúa ra lệnh cho các
tông đồ không được thuật lại cho ai những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con
người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng
vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
Trong Mùa Chay ta
cùng với các tông đồ suy gẫm ý nghĩa của lời Chúa: Từ cõi chết sống lại nghĩa
là gì? Các tông đồ bày tỏ nỗi buồn sầu khi Chúa Giêsu tiên báo, Con người sẽ
phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị lên án
tử hình, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mc 8:31). Các ông không thể nào quan niệm
được rằng Thày mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Đức Kitô đi theo đường
lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá. Vì thế Phêrô đại diện cho
các tông đồ kéo riêng Người ra và trách Người (Mc 8:32).
Từ đó các tông đồ
quan sát và suy niệm những cảnh: Thày mình bị bách hại trong vườn cây dầu, bị
dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng
chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bách hại
và lăng nhục Thày mình phải chịu làm các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản
lòng vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ
khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được loan tin là Thày mình
đã sống lại họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư. Chỉ sau khi đối
diện với Chúa phục sinh họ mới trở nên xác tín. Và từ đó họ ra đi để làm chứng
cho việc Chúa sống lại. Để chia sẻ cái niềm vui phục sinh của Thày mình, họ
cũng đã phải trải qua những bách hại, chịu tù đày và chịu khổ hình trên thập
giá. Đúng như lời Chúa phán: Đày tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách
hại Thày, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy các tông đồ dần dần
đã hiểu được từ cõi chết sống lại như thế nào? Các vị tử đạo trong đó có tiền
nhân Việt Nam, 117 vị anh hùng tử đạo, cũng đã hiểu đuợc từ cõi chết sống lại
là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử.
Đối với ta, tư cõi
chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng
xẩy ra trong đời sống ta, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích
Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta cũng được sống lại từ cõi chết. Cái
tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi
từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại
nho nhỏ, không phải như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo. Khi ta
sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất
dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã
chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn
sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam,
ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu, ta sẽ đuợc tham dự vào
đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa: Nếu hạt
lúa miến rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu
mục nát đi, nó sẽ sinh nhiều bông trái (Ga 12:24). Khi ta chịu cắt tỉa những
tính mê nết xấu, ta sẽ được vươn lên về đời sống tinh thần, đời sống thiêng
liêng. Bấy giờ ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: chết đi sống lại
như thế nào.
13. Chúa biến hình
Tại sao ba môn đệ
thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng
Chúa biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú giải cho rằng vì Chúa muốn củng
cố niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy
ngày trước đây khi Ngài loan báo về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu,
thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy, không thể như thế được. Và Chúa
Giêsu đã quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút đi, con chỉ làm cản trở đường đi
nước bước của Thầy, vì những tư tưởng của con không xuất phát từ Thiên Chúa, mà
chỉ xuất phát từ con người.
Sau lời quở trách
ấy, thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó
chúng ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta có thể xác quyết: hành trình của
đức tin giống như hành trình của một chiếc tàu đi biển. Có lúc được nâng lên
cao, có lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những điểm cao và những điểm thấp của
nó. Có lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống đồi. Có những lúc bùng sáng, thì
cũng có lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị tông đồ thân tín nhất của Đức
Kitô và chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin
của các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc trong đêm tối, nhưng có những lúc
ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ một vài tháng sau, tại vườn cây dầu
tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê, các ông người thì chối Chúa, kẻ thì
bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta cũng vậy, có những lúc lên cao và có
những lúc xuống thấp… Khi lên cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng
ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của
Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta
cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không còn đón nhận những lời chúng ta kêu
xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm
trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị
xuống thấp như thế chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa, hãy
noi gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ
khi Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa con duy nhất là Isaac, đem nó lên
núi mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm cho ông đau khổ và bối rối. Thế
nhưng ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không
để cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc và ban cho ông nhiều hồng ân hơn
cả lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử thách đức tin của chúng ta. Tâm
hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay, bản thân chúng ta thì khổ đau buồn
phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi
vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng
ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử
thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự
sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Ngài.
14. Sống với Chúa
Có những lúc chúng
ta phải đương đầu với một tình huống mà khi ấy chúng ta không thể thốt lên lời
được. Có lẽ không phải tất cả chúng ta đều đã trải qua kinh nghiệm về những
khoảnh khắc như vậy một cách có ý thức. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu chúng ta
thường xuyên phản tỉnh về cuộc sống của mình, chúng ta sẽ nhận ra có rất nhiều
khoảnh khắc như thế trong cuộc đời của mình. Khả năng nhận ra những khoảnh khắc
kinh ngạc và đáng sợ ấy phù thuộc vào tình trạng thanh tĩnh và thinh lặng của
tâm hồn chúng ta.
Có những lúc trong
cuộc đời, chúng ta sống và làm việc như cái máy, không có chút phản tỉnh nào về
cuộc sống của mình. Chúng ta có quá nhiều việc phải làm. Vì thế, sự bận rộn
liên lạc này dễ bị Satan lợi dụng để lôi kéo chúng ta ra xa ơn gọi căn bản của
mình, là ơn gọi sống trong mối liên hệ gắn bó với Thiên Chúa. Hầu có thể sống
gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, chúng ta cần dành thời giờ để phản tỉnh trong
sự bình an và thinh lặng của tâm hồn. Sự bận rộn thái quá ngăn cản chúng ta
thực hiện việc này.
Chúng ta xin Chúa
Thánh Thần ban ơn soi sáng để nhận ra và xác tín chúng ta cần có những khoảng
thời gian thoát ra khỏi sự bận rộn của đời sống thường ngày, và can đảm đi đến
một nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy nghĩ. Các sách Tin Mừng cho chúng ta
biết chính Chúa Giêsu cũng thường xuyên làm như vậy. Chúa Giêsu biết rõ việc
cầu nguyện giúp mình giữ được sự sáng suốt và gắn bó với Chúa Cha. Chỉ khi nào
chúng ta sống trong thinh lặng với Thiên Chúa và phản tỉnh về ý nghĩa sâu xa
của cuộc đời mình, lúc đó những việc chúng ta làm trong thế giới này mới có giá
trị. Nếu hành động của chúng ta không dựa trên việc chúng ta sống gắn bó với
Thiên Chúa thì rồi cuộc đời của chúng ta có lẽ cũng chỉ như “Dã tràng xe cát
biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.
Xã hội ngày hôm nay
làm cho con người có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại để sống trong thinh
lặng và suy nghĩ phản tỉnh. Đó là một nguy cơ làm cho sự liên hệ giữa chúng ta
với Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta, bị buông lỏng và dần dần bị
cắt đứt hoàn toàn.
15. Biến hình
Trong Mùa Chay, Giáo
Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên
là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục
sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác
không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu
thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ
hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý
hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ
bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta
gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế
nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây ít lâu, trên đài truyền
hình thành phố, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ
Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn
có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những
chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là
một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa
thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng
bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa
chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã
được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được
chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực
của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con
người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa
Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài:
Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và
là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên
khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo
Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế
nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày
tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm
một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững
lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài
sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây
thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước
mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các
ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì
vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ
các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà
giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của
tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà
không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà
tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái
nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung
thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không
còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi
tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc
nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những
viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi
cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta
những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ
thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa,
Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì
tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao
cả hơn.
Quả thực, ở đâu và
bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến
bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã
để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm
được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và
cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã
vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con
đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của
Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy
ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu
mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và
thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng
ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt,
bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của
lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ
đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc
nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc
đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ,
và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa
sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
16. Giây phút tột đỉnh
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu
chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: "Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn
bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con
của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con
út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm
thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng
nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói được."
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó
là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông
thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng
của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy
mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút
tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm
nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột
đỉnh.
Chỉ trong một vài
phút quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác
biệt. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người
bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã nhìn thấy một thế giới
vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện
của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và
tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một
câu hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại đặt
giữa những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay? Tại sao nó không được đặt giữa
những bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm
trong ý nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho
các môn đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa
Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên: "Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó
sẽ không xảy ra cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói
với Phêrô: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý
tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và
Gioan cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng
chính là lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình giữa những bài sầu buồn của
Mùa Chay. Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính tinh thần này trước khi
xoay sự chú ý của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần
Thánh.
Giáo Hội muốn cho
chúng ta một sự gì đó để nhìn vào trong những giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của
Chúa Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người
chúng ta, cũng có một phần của Adong và một phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên
Núi Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút ngây ngất, khi Thiên
Chúa chiếu sáng qua chúng ta gần như làm cho ta bị loà luôn. Trong những giây
phút này, chúng ta cảm thấy thật là gần gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta
cảm thấy chúng ta có thể với tay chạm đến Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm
nghiệm được những giây phút lo buồn, khi phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến
nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy
xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay
không.
Trong những giây
phút ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời Thiên Chúa Cha phán với chúng ta
những gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển
chọn." Những lúc lo buồn, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu
đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
17. Trên đỉnh Taborê
Sau khi nghe đọc
đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi: - Tại sao Chúa Giêsu lại
tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín nhất.
Tôi xin trả lời: -
Đó là để soi sáng và củng cố đức tin cho các ông.
Đúng thế, các tông
đồ, những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã không muốn hiểu và không muốn chấp
nhận những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm,
Chúa Giêsu cũng đã nói với các ông: - Con Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó sẽ
bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra
một chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời: - Hãy cút đi
hỡi Satan, ngươi chẳng hiểu gì về những việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những
công việc của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói
xa nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng
của các ông bị chao đảo và mối cậy trông của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau
cùng đứng trước nỗi thống khổ của thập giá, các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá
sản, không còn hy vọng, không còn can đảm, không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ
vinh quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và
giúp các ông chiến thắng trong những giờ phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các
ông sẵn sàng đón nhận những bắt bớ, những cấm cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc
tiếp Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó trong cuộc tử nạn các ông, người thì
chối bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai,
khi đã nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong
mọi cơn gian nguy thử thách và sẽ hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình
yêu của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu
biến hình đã tạo được một tiếng vang cho đến tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ
đem lại cho chúng ta một bài học, một niềm an ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp
phải những khổ cực đớn đau, những đắng cay chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng:
Nếu chúng ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được nhìn thấy vinh quang Ngài
trong cõi sống ngàn thu. Vinh quang ấy không phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc
của một kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian,
chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi đất khách quê người, chúng ta không bao
giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng
ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như trên một tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ
hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé
của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều
chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh
Phaolô cũng bảo:
- Những đau khổ đời
này thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung
thành yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần thưởng bội hậu sẽ được dành để cho
chúng ta. Lúc bấy giờ, thân xác của chúng ta, người bạn tâm phúc của linh hồn,
cũng sẽ được dự phần vinh quang, cũng sẽ được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là
đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn
tới phục sinh.
18. Thiên Chúa về phía…
Thánh Phaolô nói với
chúng ta rằng Thiên Chúa đứng về phía chúng ta. Do đó, gian truân, đau khổ, và
cả sự chết cũng không thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa,
một tình yêu mà chúng ta nhận thấy nơi Đức Kitô.
Maya Angelu, một thi sĩ và tác giả người Mỹ,
là một người phụ nữ khôn ngoan và cũng có đời sống thiêng liêng. Chị kể là vào
một ngày kia, chị đã được thức tỉnh về mặt tôn giáo. Điều này xảy ra theo một
cách thức rất đơn giản. Chị ngoài 20 tuổi, và vừa mới di chuyển đến San
Francisco. Chị nói rằng lúc đó, chị là một người tích cực theo thuyết bất khả
tri. Điều này không có nghĩa là chị không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa, mà
chỉ là dường như Thiên Chúa không còn ở nơi những người sống chung quanh mà chị
thường hay giao du với. Thế rồi có một giáo viên giới thiệu với chị một cuốn
sách tựa đề là Những Bài Học về Chân Lý. Chị kể rằng vào một ngày kia, người
giáo viên đó yêu cầu chị đọc cuốn sách đó cho ông ấy. Tôi lên 24 tuổi có học
thức và cũng rất trần tục. Thầy giáo của tôi yêu cầu tôi đọc một phần trang
sách chấm dứt bằng câu “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Tôi đã đọc đến đây rồi gấp
sách lại, nhưng thầy giáo bảo tôi “Cứ đọc lại đi”. Tôi mở sách ra, và đọc một
cách mỉa mai “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Ông bảo “Đọc nữa đi”. Sau đến 7 lần
đọc đi đọc lại tôi bắt đầu cảm thấy rằng câu nói đó có thật, và có thể Thiên
Chúa đã thực sự yêu thương tôi. Vâng, Người yêu thương tôi, Maya Angelu.
Đột nhiên, tôi bắt đầu khóc to. Tôi biết rằng
nếu Thiên Chúa yêu thương tôi, thì tôi có thể làm được những điều kỳ diệu, tôi
có thể làm được những điều vĩ đại, học hỏi, hoàn tất được bất cứ thứ gì. Bởi vì
cái gì có thể chống lại tôi, nếu Thiên Chúa ở với tôi, bởi vì bất cứ người nào
ở với Thiên Chúa, thì đều tạo được ưu thế.
Đối với Maya Angelu,
mặc dù chị vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa, nhưng dường như Người quá xa vời và
không có thật. Chỉ đến khi chị tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương mình, thì
Thiên Chúa mới có thật đối với chị. Thế rồi niềm tin đó đem lại năng lực cho
chị. Đột nhiên, chị cảm thấy rằng mình có thể làm được tất cả mọi sự, đương đầu
với bất cứ thứ gì, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chị và ở với chị. Đức Giêsu vừa
mới bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem của Người. Cho đến thời điểm này,
chủ yếu Người làm việc ở Galilê. Ngay cả ở đó, khu vực mà Người lớn lên. Người
đã gặp nhiều sự chống đối từ phía các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng khi lên
Giêrusalem, Người cảm nhận được rằng một cái chết khủng khiếp chờ đợi Người tại
đó. Tự nhiên, Người thoái lui trước số phận. Dường như Người phải suy niệm và
cầu nguyện về điều này, và phải đi lên đỉnh núi Tabor.
Đức Giêsu có một
kinh nghiệm tuyệt hảo trên ngọn núi đó. Người lắng nghe những lời nói tuyệt vời
này “Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về Con”. Nói cách khác, Người biết
rằng Thiên Chúa yêu thương Người. Lời xác nhận này sẽ ban cho Người sức mạnh để
đương đầu với tương lai, bất kể nó tiếp diễn ra sao. Vấn đề của chúng ta là
ngay khi gặp rắc rối, lòng tin của chúng ta bị lung lay. Chúng ta nghĩ rằng
Thiên Chúa bỏ rơi mình. Nhưng nếu cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên
Chúa không hề bỏ rơi chúng ta, nhưng Người hằng ở với chúng ta trong khi chúng
ta gặp gian khổ.
Trong tất cả mọi
lúc, đặc biệt trong những lúc khó khăn, chúng ta nên ghi nhớ lời thánh Phaolô
“Thiên Chúa đứng về phía chúng ta”. Và khi Thiên Chúa đứng về phía chúng ta,
chúng ta có thể đương đầu với bất cứ điều gì.
Cách nhận biết rằng
không gì có thể chia cách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, đó là sức mạnh
trong những lúc yếu đuối, và niềm hy vọng của chúng ta những khi gặp nghịch
cảnh. Khi gặp đau khổ, tất cả điều chúng ta phải làm là phó thác thân mình cho
sự chăm sóc của Người. Giống như Đức Giêsu trên núi Tabor, chúng ta cũng có thể
cảm nghiệm được những giây phút hiếm hoi của ánh sáng và niềm vui. Chúng ta
được thoáng nhìn thấy đất hứa mà chúng ta đang tiến tới trong lòng tin. Trong
tình yêu của Người đối với chúng ta, ngay trên trái đất này. Thiên Chúa cho
phép chúng ta nếm được những niềm vui của thế giới sắp đến.
19. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Điều các tông đồ
thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi
Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?
2. Chúng ta cần hành
xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta
thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?
3. Bản chất đích
thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có
hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức
tin hay theo con mắt xác thịt?
Suy tư gợi ý:
1. Bản chất và
hiện tượng
Khi cứu xét một sự
vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào,
đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản
này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là
những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi,
nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những
gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng
(trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư
tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa),
v.v…
– Bản chất: là cái
sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ,
và tương đối không thay đổi.
2. Khi Đức
Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài
Khi sống với Đức
Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân
xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v…
Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo
vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến,
là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ,
chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự
đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa
phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.
Nhưng vào thời điểm
của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình
qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng
giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ,
là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có
nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ
– biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán
xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: «Đây là Con Ta yêu dấu,
hãy vâng nghe lời Người». Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông
thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của
Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của
Ngài.
3. Chúng ta
cần thấy được bản chất của mình và tha nhân
Trong đời sống,
chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người
này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản
chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng
bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể
sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc
đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất
nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được
nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay
đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền
lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến
thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ
được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ
thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu
nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất
đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. Bản chất
đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng
nên giống như Ngài
Sự hiển dung của Đức
Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh
Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của
những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng
«theo hình ảnh của Ngài» (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), «giống như Ngài» (St 1,26;
5,1), để trở thành «con cái Ngài» (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26;
1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa «ban tặng một điều rất quý báu và
trọng đại» là «được thông phần bản tính của Ngài» (2Pr 1,4). Mà bản tính của
Ngài là thần linh, nên khi «được thông phần bản tính của Ngài», một cách nào
đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga
10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật
hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo
những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi
người chung quanh ta biết bao!
Coi trọng bản thân
đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao
quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà
còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó,
đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn
hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu
hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người
đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ
ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào
trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có
những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng
kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước
nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt
nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi
đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của
con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Kitô hữu,
đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều «hiển dung» trước con mắt đức tin
của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi
người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải
tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ
thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất
hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những
hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là
một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa"
mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người
anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông
thấy» (1Ga 4,20).
Cầu nguyện
Lạy Cha, việc Đức
Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích
thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn
trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con «hiển dung»
trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của
Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua
việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ
là người thế nào.
20. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan
Phụng vụ Lời Chúa
hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh
truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thì thật là
vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra
sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không
có người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn
cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu
cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào
Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa
bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên
Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng
phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón
nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin
của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được
Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều
khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được,
hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng,
như cái chết của người thân yêu làm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại
càng cần tín thác vào Lời Chúa. Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không
phải bằng đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói
và Chúa làm, không phải vì chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh
của Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay
mô tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên
Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị 'hớp hồn' khi được nhìn thấy vinh quang Đức
Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là
ai: "Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe Lời Người."
Biến cố hồng phúc
hôm nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng
kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp
"đâu vào đấy" thì rất hiếm hoi và họa hoằn "năm thì mười
họa". Không ai có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình,
nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư
sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu
xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi vào trong vinh quang phục
sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương tích của chúng ta và làm cho chúng
ta rập khuông với thân xác vinh hiển của Người, thì con đường chúng ta đi chính
là con đường thương khó của riêng Chúa thôi.
Biến cố Biến Hình
hôm nay nói với chúng ta không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của
chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là
chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông,
không bao giờ ngã lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng
ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình với những an toàn giả tạo mà chúng
ta cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc
nhở chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt xét lại thì không đáng sống. Để
cho Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ
thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống của
thế gian bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ không ai trong chúng ta
sẽ được kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham xưakia, nhưng phần đông
chúng ta được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của mình và tránh xa những
lời nói việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc cuộc sống cộng đồng. Để
thắng vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người trưởng thành chín chắn,
chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì không có gì đáng giá mà lại
đơn giản và dễ chiếm đoạt.
21. Chú giải của Noel Quesson
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các
ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình
Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày" trên.
Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo
cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với
Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là
thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa:
"Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi
Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"...
"Môsê"... "đám mây"... "núi "... Trình thuật của
Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý
nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel
lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ
lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh
trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con
người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một
nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi
tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý
đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái
12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại
Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ
là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin
cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều
nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để
thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng với
Người, lên một ngọn núi cao...
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên
Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà!
Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác
nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó
thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh
24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một
núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng
những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu
không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao,
nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí
loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.
Và Người biến đồi hình dạng
trrớc mắt các ông
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ
luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
Một quan niệm "bi quan": Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận
thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh,
Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian này" là
Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm
nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo,
thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng, xác thịt
là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của
Chúa, nhưng đó chỉ là "hình ảnh", là "họa ảnh" tương tự của
Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt",
nhưng cần được "biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng
từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh
sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng,
trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là
đại “Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua.
Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ
hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có
khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó
là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ
mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này
có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa
đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm
cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng
ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến
hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu
vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên
giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động
của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự
biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên,
sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng
tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên
Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện
với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực rỡ,
trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta.
Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí
thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm
phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng
không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng
nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu
tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh
được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên
trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi
chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh
mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được mặc lấy
Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử"
(l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người
mới" (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm
đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong
"lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ
không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì". Đó là khuôn mặt tiêu biểu,
đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang
nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng
chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá
cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một "cửa
ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc
khái cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở
lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại
theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa
Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.
Bấy
giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá!
Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông
sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài
hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (Mc 8,27-33).
Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm
nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng" không vẽ vời điều
gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông.
Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo
léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi
chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại
đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng
làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra,
ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông
phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao
phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy
vâng nghe lời Người".
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên
Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là
tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó
chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng
"những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những nghiên cứu
Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình trên
núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết
được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con
người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm
các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người
từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu
"từ cõi chết sống lại" nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính
đích thực của Chúa Giêsu.
22. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU HIỂN DUNG TRÊN NÚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn
Đáp lại câu hỏi thúc
ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố Thầy là Đấng Messia”. Đức Giêsu liền
dẫn các môn đệ vào con đường khổ nạn và chết mà Người sẽ phải đi để hoàn thành
sứ mạng của Người. Maccô viết: "Rồi Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết
Con Người phải chịu đau khổ nhiều, các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ,
bị giết chết và sau ba ngày sống lại”. Viễn tượng kinh hoàng như thế đi ngược
với tư tưởng Người thời đó. Về Đấng Cứu thế. Nghĩ rằng Đấng Cứu thế mà cũng
phải trải qua đau khổ và sự chết là điều không ai dám nghĩ, cả những người Do
Thái thời đó cũng như các môn đệ của Đức Giêsu: Bởi đó Phêrô tức tốc phản ứng,
ông liền kéo riêng người ra và bắt đầu trách Người”. Cử chỉ đó đã làm cho Phêrô
bị một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: "Satan, lui ra đàng sau thầy!
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài
người”. Sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình mà theo”. Con đường mà Con Người đi cũng là con đường
bắt buộc đối với các môn đệ Người.
2. Cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên núi.
Maccô đã đặt tường
thuật hiển dung của Chúa trong tương quan với việc công bố lần thứ nhất cuộc
khổ nạn, việc này đã
vấp phải sự không
hiểu nơi các môn đệ và khiến bọn họ kinh hoàng. Giống như Matthêu và Luca, tác
giả Tin Mừng thứ hai diễn tả bằng một lối văn tượng trưng, mượn những yếu tố
chính từ cuộc thần hiện (cuộc Thiên Chúa tỏ mình) ở núi Sinai ("Jésus,
l'histoire vraie", Centurion, trang 330).
Ngày xưa, trong cuộc
xuất hành qua hoang địa, Môsê đã công bố cho con cái Israel rằng: "Đức
Chúa, Thiên Chúa của người, sẽ cho nổi lên giữa các người một vị ngôn sứ giống
như Ta, các người hãy nghe lời Người”. Hôm nay Maccô đã bật mí: vị ấy đã đến rồi,
đây là thời gian hoàn tất, một kỷ nguyên mới đã khai sinh.
Maccô viết:
"Sáu ngày sau" mà lại không chỉ rõ sau cái gì, nhưng rất có thể là
ông muốn nói về biến cố Xuất Hành.
+ Hoặc là nói về sáu
ngày mà sau đó, theo Xh 24,1 6, "Thiên Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây
lên núi Sinai”. Nếu thế, theo Maccô, đó là một cách giới thiệu biến cố hiển
dung như một Sinai mới và đồng thời giới thiệu Đức Giêsu như một Môsê mới.
+ Hoặc là nói về sáu
ngày chuẩn bị cho đại lễ Lều Trại, lễ đó người ta dựng lều bằng cành cây (như
người Do Thái còn làm ngày nay) để tưởng nhớ cuộc xuất hành, với hy vọng vào
thời đại cứu thế mà Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ mãi mãi ở giữa dân Người. Nếu thế,
theo Maccô đó là một cách côgn bố thời đại mới đã khởi đầu.
Cũng như ngày xưa
Môsê lên núi Sinai, thì Đức Giêsu cũng dẫn các bạn hữu của Người lên một ngọn
núi cao. Nhưng ngọn núi nào? Từ ngữ này mang ý nghĩa thần học nhiều hơn là địa
lý: núi ở trong Kinh Thánh là địa điểm đặc tuyển cho việc mặc phải thần linh. Ở
đây nói về một Sinai mới, một cuộc mặc khải quyết định của Thiên Chúa.
- Cũng như Môsê, lúc
lên núi nhận giao ước, chỉ đem theo Giousê, Đức Giêsu chỉ gọi riêng đi theo
Người có "Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Cũng ba người đó, những người bạn thân
nhất được theo Chúa vào phòng bé gái chết mà được Người làm cho sống (5,37-43);
ba người đã chứng kiến cuộc hấp hối của Người trong vườn cây dầu: Đức Giêsu đã
liên kết họ với Người trong những thời điểm mạnh của mặc khải, để họ trở nên
những trụ cột của Hội Thánh Người.
- Cũng như da mặt
của Môsê ngời sáng, vì ông đã đàm đạo với Thiên Chúa và cũng như dân Israel xem
thấy mặt ông chiếu sáng (Xh 34,29-35), Đức Giêsu "hiển dung" trước
các môn đệ, vinh quang Thiên Chúa, cái vinh quang mà Đức Giêsu chiếu toả vào
buổi sáng Phục sinh, lúc này đang xâm chiếm bao phủ Người.
Vào lúc đó ông Môsê
và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đó là hai vị có thần thế trong Cựu ước.
Cả hại vị đều đã trèo lên núi: Môsê lên để lập giao ước, Êlia lên để nhận sứ
mạng cải tổ giao ước. Hai vị tượng trưng cho toàn bộ Cựu ước: Lề Luật và các
Ngôn sứ (Êlia) giờ đây được thực hiện: thời đại cứu thế đã khởi đầu.
Phêrô đề nghị
"Chúng ta hãy làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”.
Thực ra, ông không biết mình nói gì do quá kinh hoàng, Maccô giải thích. Phêrô
đã lầm lẫn vì nghĩ rằng đã đến giờ mà Thiên Chúa cư ngụ vĩnh viễn ở giữa dân
Người và họ có thể ở đó miên trường.
Sau cùng, cũng giống
như khi lập giao ước ở núi Sinai, một đám mây, dấu chỉ hữu hình của sự hiện
diện Thiên Chúa, đã bao phủ ngọn núi, thì ở đây một đám mây che phủ các ông.
Rồi cũng giống như ở Sinai, có tiếng nói phát ra tử đám mây. Những lời này gần
giống như tiếng vang của những lời đã phán lúc chịu phép rửa ở sông Giođan.
Nhưng, lúc xưa tiếng đó nói với Đức Giêsu: "Con là Con Ta yê u dấu, Cha
hài lòng về Con" (1,11), còn ngày nay tiếng đó nói với ba môn đệ: Tiếng đó
soi sáng các môn đệ cho biết căn tính của Đấng mà Phêrô mới đây đã tuyên xưng
là Đấng Thiên Sai (Mêsia): “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Tiếng đó xác nhận giáo
huấn của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn - phục sinh của Con Người: "Các ngươi
hãy vâng nghe lời Người".
J.Hervieux quảng
giải: "Giờ đây dường như qua tia chớp loè sáng, họ đã thoáng thấy Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa", và vượt qua khỏi sự chết, Người được Thiên Chúa
dành cho một cuộc sống vinh quang. Lẽ nào họ không giữ niềm hy vọng và không
tiếp tục theo Thầy trên con đường thập giá?" (L’evangile de Marc",
Centurion p.125).
- Bỗng chốc, Maccô
kết luận: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn
Đức Giêsu với các ông mà thôi ở trên núi xuống Đức Giêsu truyền cho các ông
không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi
chết sống lại”. Chúng ta lại thấy ở đây một lần nữa "bí mật thiên sai”, mà
Maccô rất quí trọng: điều mà ba môn đệ vừa thấy vượt quá sức tưởng tượng quá
đỗi, nó làm xáo trộn tận cùng hình ảnh Đấng Thiên Sai của các ông, nên tốt hơn
các ông nên giữ im lặng ít lâu. Sau này, dưới ánh sáng của Phục Sinh, các ông
sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Lúc đó, các ông sẽ có thể làm chứng.
Bài đọc thêm
1. "Mọi sự chứng tỏ một
khởi đầu mới”.
(Célébrer, tạp chí
C.N.P.L. số 266, trang 26).
Cuộc hành trình này
kêu mời chúng ta từ bỏ một số hình ảnh Thiên Chúa. Ông Apraham đã khám phá dung
mạo của một Thiên Chúa, không chấp nhận máu của tế vật và không đòi hy lễ nào
khác ngoài sự vâng phục toàn tâm con người. Người Kitô hữu còn có thể khám phá
một Thiên Chúa không đòi hỏi hy sinh "vượt sức người" (siêu phàm), mà
chỉ đòi tin tưởng và phó thác.
Phêrô, Giacôbê và
Gioan, cả các ông cũng vậy, phải loại bỏ một thứ hình ảnh Thiên Chúa, để khám
phá ra một hình ảnh khác nơi Đức Giêsu Kitô. Loại bỏ thứ quan hệ dựa trên sự sợ
hãi, họ phải cảm nghiệm được một Thiên Chúa, Đấng đã không dung tha con ruột
mình, và chấp nhận sự mạc khải đau đớn một Đấng Thiên Sai chịu khổ nạn, Đấng ấy
sẽ lôi kéo họ đi theo Người.
Và còn hơn nữa,
Người còn đề nghị ta khám phá rằng nhân loại là con đường tới Thiên Chúa. Mà
không phải một Thiên Chúa không có thân xác, nhưng một Thiên Chúa trong xác
thịt hẳn hòi. Một thân xác được mời gọi để biến đổi hình dạng. Đó là con đường
do Đức Giêsu vạch ra.
Người Do Thái trông
đợi sự biến dạng sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Khi trình bày điều đó đã thực hiện
nơi Đức Giêsu, Maccô muốn tuyên báo rằng ngày tận thế đã khai mào. Thực vậy,
mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới: Một hy vọng đáng nể cho tất cả những gì đang
rên xiết "chuyển dạ sinh ra”.
2. “Điều kinh ngạc trong Đức
Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình rất phàm nhân”.
(Thư gởi các người
Công giáo Pháp, Cerf, trang 49-50).
"Thiên Chúa yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Cả cuộc đời của Đức Giêsu, từ
lúc sinh ra cho tới ngày chịu. chết và sống lại, luôn tỏ ra quy hướng về Chúa
Cha; Người lãnh nhận tất cả mọi sự từ Chúa Cha, và dấn thân hoàn toàn vào công
trình cửu độ theo mệnh lệnh của Chúa Cha.
Nhưng điều kinh ngạc
không phải chỉ là việc nhập thể của Chúa Con, Đấng đến cư ngụ ở giữa chúng ta
để bày tỏ tình thương của Chúa Cha.
Điều kinh ngạc còn
là trong Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra quá phàm nhân.
Trước hết, người phàm vì Người tỏ mình phàm hơn chính người trần: Chúa đi đến
với những người lạc mất trong số người trần, kẻ bé nhỏ và kẻ bị loại trừ, kẻ
đau yếu và kẻ tội lỗi. Người phàm, bởi vì Người chia sẻ hết mọi sự của bản tính
nhân loại, đau khổ và bạo lực, bất công và chết chóc, chết trên cây thập tự.
Hoàn toàn người phàm, đến độ ban tặng cho ta được thông công sự sống của Người.
"Lạy Cha, Con muốn rằng, con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng
ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban
cho Con " (Ga 17, 24).
Lòng tin vào Đức
Giêsu, Chúa con bao gồm sự bạo dạn dám đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa
vào sự sống người phàm của ta. Nếu chúng ta trình bày Lời Chúa và các Bí tích
cho người khác, ta làm cũng vì mục đích đó: là để chúng ta biết được niềm vui
sống và yêu mến như con thảo của Thiên Chúa, theo bước chân của Chúa Con, trong
sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
23. Gợi ý suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
SỨ ĐIỆP CỦA TRÌNH THUẬT
Các lời mời gọi bản văn Biến Hình đưa ra có vẻ như dành cho con người
hiện đại, nhất là Maccô.
Biết bao ý thức hệ triết học, tôn giáo, chính trị, khoa học v.v. chất
chứa trong những khát vọng của chúng nỗi chờ mong một lúc mà nhân loại sẽ vượt
lên chính mình và đạt tới một tình trạng trong đó nó sẽ được siêu thăng hóa.
Khi la lớn rằng chúng không được thỏa mãn, phải chăng một vài ý thức hệ đã
không tuyên bố cùng những khát vọng trên?
Trên bình diện đức tin Kitô giáo, cuộc Biến hình là câu trả lời của Chúa
Giêsu cho các khát vọng ấy: con người được tạo dựng để hưởng vinh quang, nghĩa
là để được tỏ hiện trong chính mình, bên kia cái mình đã làm, một cuộc sống
siêu phàm của hữu thể mình mà không là gì khác ngoài sự sống được chia sẻ với
Thiên Chúa khì đảm nhận thân phận hay chết của mình. Định mệnh này có một tính
cách khiến lý trí chưng hửng ngạc nhiên. Có thể kinh nghiệm về nó và không hẳn
là biết phát biểu ra nó. Chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu được nghe và được đi
theo khi Người chỉ cho thấy mặc khải sau cùng về con người, mới cho phép phát
biểu và tin vào định mệnh như thế.
Mặc dầu cuộc Phục sinh đã xảy ra và mặc dầu bức màn che đã hoàn toàn bị
cất khỏi bản tính và con người. Chúa Giêsu khai mở nhân loại mới ấy, Kitô hữu
vẫn không thể sống trong ảo tưởng: các thực tại bi thương của cuộc sống không
bị tiêu trừ; chúng vẫn còn phần lớn trong một hoàn cảnh gần như hoàn cảnh các
sứ đồ lúc cuộc Biến hình xảy ra. Cuộc Phục sinh đã chẳng hủy tiêu các giáo huấn
đưa ra trước đó, song chỉ củng cố chúng mà thôi. Các là thánh sử làm tỏ rõ hơn
hết các hoàn cảnh mà trong đó người ta tưởng đã hiểu và tuy vậy, vẫn chẳng bao
giờ thôi thấy rằng người ta đã chưa hoàn toàn hiểu thấu. Ông trình bày Kitô hữu
như những người đã khám phá trong Chúa Giêsu một con người duy nhất đã cho họ
một kinh nghiệm quyết định nhưng chẳng chấm dứt bao giờ.
Đời sống môn đồ của Chúa Giêsu được trình bày như thỉnh thoảng có một
nhịp mạnh. Núi là biểu tượng của nơi mà, nhờ phép rửa, đã xảy ra cho người ấy
cuộc gặp gỡ với hữu thể vinh quang là Chúa Giêsu. Một khi trèo lên trên nó,
người ấy đi vào trong một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế
giới biến đổi ý nghĩa đời họ. Nhưng tiếp đó họ phải trở về cuộc sống bình
thường: phải tiếp tục trong cùng viễn tượng hấp dẫn của một sự sống vinh quang,
nhưng không cùng trong một bầu khí, hoàn cảnh. Thành thử cuộc sống thường nhật
này được đánh dấu bằng nhtĩng giai đoạn đưa kẻ ấy đến chỗ nghe con người Chúa
Giêsu, những giai đoạn trở thành cho kẻ ấy những lúc "tách riêng"
thật sự, vì chúng giúp họ đào sâu, một cách nội tâm hơn và thân tình hơn, lai
lịch của Đấng là họ đang song hành với.
Hai yếu tố có tính cách quyết định đối với hiệu quả này. Một là sự rút
lui thật sự khỏi cuộc sống thường ngày, dù có ý hay ngẫu nhiên. Bấy giờ là như
thể một khung cảnh làm vỡ tung cái bình thường và chuẩn bị cho một cuộc bùng vỡ
nội tâm. Đó chẳng phải là một sự rút lui kiểu ngoài giáo nhắm cắt đứt khỏi đời
sống hoặc làm cho người ta trở về đó như về lại một cái gì không chịu nổi,
nhưng là một kinh nghiệm thiêng liêng đích thực đưa người ta vào lại đời sống
và giúp người ta trải qua cuộc sống bằng cách biến đổi cái thường nhật gần gũi.
Hai là, trong đời riêng tư, phải kinh nghiệm sự đau khổ và ngay cả sự chết dưới
bất cứ mọi hình thức, để đi vào sự hiểu biết mới mẻ ấy hơn.
Tuy nhiên, có một cám dỗ rình chờ Kitô hữu trên con đường ấy, đó là dừng
lại ở một trong các giai đoạn, thôi bước và tuyệt đối hóa kinh nghiệm mình như
thể nó đã có tính cách dứt khoát, phong thánh cho các viễn quan riêng mà, dầu
có hảo ý, vẫn còn có tính cách nhân loại. Trên bất cứ điểm nào, Kitô hữu cũng
phải là một con người đang hành trình chứ chẳng phải là một con người đã đến
đích. Chỉ có con người Chúa Giêsu mà họ đi theo mới là tuyệt đối.
Sau cùng, bản văn kêu mời Kitô hữu phải hành động với cùng phương pháp sư
phạm như Chúa Giêsu. Chẳng có gì lạ khi loài người chỉ khám phá được dần dần
mầu nhiệm Người, khi đầu tiên họ lưu ý đến con người trong chính nó, rồi ngạc
nhiên về cái ý thức mà Người cho thấy về một sự sống siêu nhiên đang ở trong
Người mà Người gọi là Thiên Chúa. Cũng chẳng có gì lạ khi chờ đợi cho loài
người đặt những câu hỏi trước lúc trả lời họ, khi một vài kẻ, để sẵn sàng hiểu
hơn, đã kinh nghiệm trong cuộc đời họ thế nào là chết cho chính mình và kinh
nghiệm được ước vọng vượt quá những giới hạn của họ.
Gilles Becquet, lecture d'evangiles,... année B. (p.186-200)
Ý hướng bài giảng
1. Việc Chúa Kitô chịu
đau khổ và chịu chết là một mầu nhiệm khó chấp nhận, "là cớ vấp phạm cho
người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại" (Lc 1,23) Bởi đó Thiên
Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế
con trai duy nhất, dâng làm của lễ toàn thiêu cho Ngài. Việc đòi hỏi ấy thật là
mâu thuẫn với lời Chúa hứa cho ông. Nhưng Abraham không thắc mắc, không phản
đối mà hoàn toàn tin tưởng. Kết quả: ông được kể là công chính và Isaac con ông
vẫn được sống, chứ chẳng bị sát tế (Bài đọc 1)
Sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với ta đã đòi hỏi Chúa làm
một điều tương tự như Abraham là "không dung tha Con mình, nhưng lại phó
thác Con vì tất cả chúng ta" (Rm 8,32). Isaac không bị giết mà Abraham vẫn
được kể là công chính (Gc 2,21), còn Chúa Kitô thì đã bị giết, đã chết thực sự,
nhưng đã sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha và đã trở thành Đấng "công chính
hóa" nhân loại (Bài đọc 2).
Chính là để cho các môn đồ thân tín giữ vững niềm tín thác khi thấy mình
đau khổ và chết mà Chúa Kitô đã tỏ phần nào vinh quang của Người trên núi
Taborê.
2. Chúa Giêsu đã đem ba môn đồ thân yêu lên núi
Biến hình và cũng sẽ đem họ vào vườn Cây Dầu trong cơn hấp hối của Người. Mọi
cảnh ngộ dầu là dịp Chúa gởi đến để kêu mời ta tiến sâu trong tình thân ái với
Người. Hãy biết đọc các "dấu chỉ thời đại" dưới ánh sáng đức tin,
trong tình yêu Chúa nồng nàn.
3. Các môn đồ không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của
biến cố Biến hình. Trong đời sống thường nhật, đứng trước những khó khăn, gian
truân, vui buồn, được an ủi hay bị bỏ rơi ta thật khó quán triệt ý nghĩa cuộc
đời, khó khám phá ra Thiên Chúa tình yêu và công bình. Nhưng hãy kiên tâm, bền
chí trong kinh nguyện, trong suy niệm lời Chúa. Trong đời hoạt động và ta sẽ
thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim chúng ta.
4. Ngày nay biến cố Biến hình vẫn còn tiếp diễn trong thế giới: Chúa Kitô
biến hình trong người nghèo đói, bệnh tật, tù đày bơ vơ không nhà cửa, trong
các sứ giả Tin Mừng... "Ai tiếp đón các con là tiếp đón Ta, ai tiếp dón Ta
là tiếp đón Đấng dã sai Ta". Mùa Chay giúp ta thay đổi cái nhìn, kiện toàn
cách cư xử của ta với tha nhân.