Phục Sinh không phải là một
kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố luôn luôn hiện tại và hiệu quả của nó liên
lỉ được thấy rõ trên thế giới này, nhất là trong việc thông ban Thánh
Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các môn đệ để biến đổi các
ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói "Đúng thế!" mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần Khí Ngài.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói "Đúng thế!" mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần Khí Ngài.
Các bài suy niệm
LỄ PHỤC SINH – Năm B
Lời
Chúa: Mc 16,1-8; Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
MỤC LỤC
1. Niềm Tin
Kết quả một cuộc điều
tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa
là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại.
Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại
sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều
phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát.
Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật
khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi
từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới
đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta
cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc sống
của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi
vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến
cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng.
Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại
là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường
khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến
Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn
liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết
thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời
Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu
chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống,
nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài
không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên
Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao
vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm
chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của
Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà
hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được
công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô
là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu
như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
2. Chúa Giêsu Phải Từ Cõi Chết Sống Lại
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô và những bài giảng
tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn là mầu nhiệm đối với
chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi chúng ta được
hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng mà chúng ta
vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý sâu sắc bài Tin
Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau cái chết của Chúa Giêsu –
“người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu”, và
nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn, thái độ chính yếu mà Chúa chờ
mong, đó là đức tin, - “ông đã thấy và đã tin”.
Sự Phục Sinh
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều trường hợp:
thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện đã hoàn sinh trở về. Người
ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói quen tốt đã bị
mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho mục nát tiêu tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở lui về quá khứ,
tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc sống của Ngài như
trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những con đường xứ
Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài tiếp
tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tử nạn chỉ là một sự cắt đứt bất hạnh
và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có nghĩa là kết
thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như cái chết của mọi
con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại
được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là Thiên
Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt
đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh hiệp
thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên
Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình với
thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân
xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một
cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức…
Mầu nhiệm Đức Tin
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô đã Phục Sinh!”.
Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của Thiên Chúa và tất cả
những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được thể hiện cách
sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa, vì thuộc về Chúa
Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố
luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên thế giới này, nhất
là trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các
môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong
đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói “đúng thế” mặc dù tôi không hiểu
gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này và khẳng
định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng
vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và sau
đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ ngày
ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã nhìn
thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn
không ngớt biểu lộ.
3. Ngôi Mộ Trống
Tại một nghĩa trang
bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa
cương, bên dưới đúc xi-măng cốt sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý
vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người
ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà
vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao
giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua,
ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của
ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm
xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ
của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để
mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và
khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được,
Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn
được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục
len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang,
danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người có loại bỏ
Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn
ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy
xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta
đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai
ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài
đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy
và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ
trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa
khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa, vì
Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm
tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, nhưng
caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải
chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt đời
mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị
mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự
sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái
thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt hạnh
phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái
chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ tắt
nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải
chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống ấy sẽ
phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì
chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng
vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn
mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem
chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ
là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết
của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những
đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại
đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ
đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm
cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là
con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu
của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết
của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã
bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại,
niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài
đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất
hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan cùng với
Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội
lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và
tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội
nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến
thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh
viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của
Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô
và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả
đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ không còn
phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì
là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát
sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến
thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền,
không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự
sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên
kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm
hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng
ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết
vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là
chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương
trình Phục Sinh.
4. Tin Mừng Phục Sinh
(Noel Quesson)
“Alleluia! Alleluia!”
Một thời ở miền Nam
này người ta đã xôn xao bàn tán về chuyện một người lính. Sau một trận đánh lớn,
gia đình được giấy báo anh đã chết mất xác. Thân nhân anh đón nhận tin buồn này
với tâm trạng hoảng hốt, buồn sầu. Một tang lễ lớn được cử hành với mọi thủ tục.
Ba tháng sau người lính đột ngột trở về. Anh chưa chết, anh chỉ thất lạc và đã
được anh em dân tộc nuôi dưỡng. Nay anh trở về. Vợ con và thân nhân anh phải mừng
vui đến mức nào!
Niềm vui của các môn đệ và bạn hữu Chúa Giêsu trước Tin Mừng
Chúa sống lại còn lớn lao hơn nhiều. Bao nhiêu người đi theo Chúa nghe những lời
hay đẹp và mới lạ của Chúa, đặt cả tin tưởng và hy vọng vào Chúa, nhưng Chúa đã
chết, chết đau khổ và nhục nhã. Mọi người được chứng kiến cái chết của Chúa, và
đã an táng Chúa trong mộ được ba ngày.
Hôm nay là ngày đầu tuần. Mấy bà thân thuộc của Chúa đưa thuốc
thơm ra mồ xức xác Chúa, biểu lộ cảm tình với người quá cố. Các bà vừa đi vừa
lo không biết ai sẽ vần tảng đá lớn che cửa mồ ra giúp mình, nhưng khi tới nơi,
các bà thấy tảng đá đã lăn ra một bên, mồ mở trống. Có một thanh niên mặc áo trắng
ngồi bên phải mồ, khiến các bà hoảng sợ.
Thánh Marcô luôn chú tâm tới sự kiện. Ông diễn tả sự việc xảy
ra mà không chú giải thêm gì. Ta thấy người thanh niên mặc đồ trắng, và màu trắng
là màu ánh sáng, màu vinh quang. Một trang sử mới đã lật qua. Không còn mờ tối,
không còn dấu ẩn. Chúng ta nghĩ tới cuộc tỏ hiện của Chúa trên núi Tabo xưa.
Trong sách Khải huyền, màu trắng luôn biểu tượng cho cảnh vật trên trời. Đó
cũng là điều kiện tâm hồn ta phải có để được tham dự vào vinh quang Phục Sinh của
Chúa. Nhưng các bà đã hoảng sợ. Nỗi kinh sợ là dấu tỏ ra mình đang đối diện Thiên
Chúa. trước khung cảnh khác lạ, hoặc đôi khi một niềm vui lớn quá cũng làm người
ta hoảng sợ.
Người thanh niên bảo các bà: “Các bà đi tìm Giêsu Nagiaret,
người bị đóng đinh phải không? Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Các bà
hãy đi nói cho các môn đệ hay tin này”. Tin Mừng Chúa sống lại. Chúa đã ra khỏi
mồ, mọi người phải ra đi báo Tin Mừng cho anh em. Tin Chúa sống lại cho tới nay
vẫn là một mạc khải. Chúng ta còn nhớ chuyện Maria Mađala gặp Chúa Phục Sinh đã
tưởng đó là bác làm vườn. Còn hai môn đệ trên đường Emau, vừa đi vừa nói chuyện
với Chúa lâu giờ mà vẫn không nhận ra Người. Muốn nhận ra Chúa cần phải có tâm
hồn xứng hợp sẵn sàng đón nhận Chúa. Phải được dọn dẹp bằng chính ân sủng trước
khi được tiếp xúc với Chúa.
Thái độ các bà trong chuyện đã cho ta hiểu điều đó. Chúng ta
đừng nghĩ mình có thể tìm ra những sự kiện rõ ràng trong Tin Mừng của Chúa. Tin
Mừng luôn là một tia sáng từ trời. Chỉ những ai thành tâm, thiện ý, sẵn sàng
đón nhận với tâm tình khiêm tốn mới có thể hưởng nhờ ơn Cứu độ.
Xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho những người đang thành tâm
tìm kiếm Chúa. AMEN. ALLELUIA!
5. Ánh Sáng Và Bóng Tối
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối
và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối
tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự
ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức
Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục
Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức
Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả
trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng
trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc
về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi
nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam
mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu
tiến lên.
Có thứ bóng tối tham
lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn
tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của
mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen
ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập
trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái
kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường
tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết
dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn
dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét
sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được
ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên
mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma
quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp
chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của
Chúa.
6. Tin Mừng Phục Sinh (Mc 16,1-7)
(Trích trong “Như Thầy đã
yêu”, Thiên Phúc)
Bà Regina Riley hằng cầu
nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm… Bỗng một sáng Chúa nhật,
bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với
bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ
mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại
Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm
tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi,
dáng điệu khập khiễng.
Chúng con dừng lại mời
cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng
con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào
xem lễ rồi cùng đó cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc
động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con
như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh hoạ cho
chúng ta bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacobe, và bà Salome là
ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được
Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều Thứ Sáu Tuần
Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ Giờ đây, Thầy đã nằm yên
trong một đá. Còn lại gì? Hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để
vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn
giùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc 16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn
ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó, sứ thần chờ để loan báo
Tin Mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại
Galile” (x. Mc 16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng
lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo
Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức
thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một tin mừng, không phải bằng
lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu, hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
Tin Mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần
Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa nhật Phục Sinh.
Tin Mừng chính là: Hễ có bình minh là có niềm hy vọng, có trở
về là có đôi mới.
Tin Mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng
được sống lại với Người.
Tin Mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá,
thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục Sinh.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con
đang Phục Sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin,
là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng
cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng
Phục Sinh của Chúa. Amen.
7. Mặt Trời Hé Mọc
(Trích trong
‘Manna’)
Suy niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật
lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của
ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức
Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im
lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử
thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong
lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non
đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm
không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó.
Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả
ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác. Khi đi đường,
họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?"
Tảng đá to thật là một trở ngại... Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng
đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần
Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các
môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy,
làm bàng hoàng sửng sốt. Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu
thơm. Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống, Đấng
đang đến để nối lại một cái hẹn...
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng
ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì
nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất
mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn
đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi ý chia sẻ
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép
kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng
Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn
thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi
mãi xanh tươi. Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa
sóng gió cuộc đời. Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt
con luôn tươi tắn. Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng
hái lên đường. Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới
lại đời con.
8. Ông Đã Thấy Và Đã Tin
(Trích trong
‘Manna’)
Suy niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng
sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25) và
tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước
cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để
Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong
tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những
bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn
che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: ý
nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp
gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt
hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ
như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà Maria
đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải không
ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà
sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi ý chia sẻ
1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả:
danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng
hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
2.
Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang
một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã
phục sinh không?
Cầu nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình
chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi
sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết
lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu
hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận
ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với
Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
9. Người Đã Chỗi Dậy Rồi
Suy niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến
chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy
ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với
chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không
cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh
mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa
mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn. Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì
ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy
ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các
phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục
sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc
thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã
báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện
ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8). Đức Giêsu
phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho
họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương.
Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả
năng để hy vọng và vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh.
Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ...
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới.
Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường.
Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ.
Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta
không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời
chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi ý chia sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu
lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi.
Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì
trên cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ
nào lớn hơn?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên
chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con
trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa
chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn
và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn
bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
10. Chúa Đã Sống Lại (Ga 20,1-9)
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas
Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên
đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm,
chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi
đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện
kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về
báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến
mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy
xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng
Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là
một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi
mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ
cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn
đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật.
Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa
chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin
của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách
khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng
trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm
câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin
Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của
biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối
diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy,
chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau.
Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính
mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ
trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một
mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi
vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt
khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không
trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy
chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại
cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà
đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy
chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho
thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này.
Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ
ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời.
Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực
tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến
cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt
xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu
này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương
mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt
nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không
nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông
đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp
lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông
biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm
tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín
hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên
trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con
trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật.
Allêluia.
11. Tình Yêu Dẫn Đến Đức Tin (Ga 20,1-9)
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ Radio Veritas Asia)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho
chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận
thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn
liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã
viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau
khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng
đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy,
ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục
người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác
Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn
giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái.
Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng,
lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi
đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy
cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn
thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào
ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp
xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn
trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên
trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài
khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm
và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân
tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại
cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã
nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng
như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống
lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy
của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã
chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy
ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất
xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau
khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa
chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra.
Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao
thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa
Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và
ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều
gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn
đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình
yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của
Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là
tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở
về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi
yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy
trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ
lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã
báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã
thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến
đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết
không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến
đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức
tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng
ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của
mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí
mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
12. Phục Sinh
Có một chàng sinh
viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của
mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi
mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau
buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại
sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón
nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết
định một cách hăng say: sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà
chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục
sinh có nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh
cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước
buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý
nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước
mơ vào Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng,
mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các
ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm dứt.
Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ, như
hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và làm đảo
lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng
và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn
thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục
sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục
sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các
ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng.
Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho niềm vui. Còn
chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng
cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã
thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô
giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai
đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau
khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô
giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng
ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô
giúp chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau
khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh
đem lại cho chúng ta.
13. Hãy Khai Phóng Tâm Trí (Mc 16,1-8)
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Trên lãnh vực bình giải uyên bác, bốn thiên ký sự của bốn
Phúc Âm cùng thuật về sự Chúa sống lại, những ký ức ấy mới đây là đề tài cho
nhiều công trình nghiên cứu, những tập nghiên cứu hay nhất đều đưa đến một sự
khơi sâu đức tin. Tường trình ở đây về công cuộc nghiên cứu đó, là một việc
không làm được. Ý định của Giáo Hội khi dạy đọc Phúc Âm trong phần phụng vụ
thánh lễ là để xếp đặt một sự gặp gỡ sống động giữa tín hữu và Chúa Giêsu. Thế
mà Phúc Âm cốt để loan báo trước hết là cho người nghèo. Vì vậy chúng ta sẽ cố
gắng có được một não trạng của kẻ nghèo khó để đọc những thiên ký sự về Chúa sống
lại. Sự nghèo khó, nói đến ở đây, không có nghĩa là ngu dốt hoặc ngây ngô khờ dại.
Nghèo, nghĩa là dẹp bỏ hết những cái gì kềnh càng vướng vít của sự giàu có, dù
là giàu có về kiến thức, để ao ước của cải quý trọng nhất là sự gặp gỡ Đức Kitô
sống động. Chúng ta hãy vượt lên trên những phân tích, giả thuyết v,v… tuy
không dám chê những công trình đó. Bằng một vận dụng đức tin, chúng ta hãy đi
tìm Chúa. Nhiều khi chúng ta có ấn tượng rằng chúng ta đã đóng đinh Chúa, hoặc
đã để mất Chúa… Không bao giờ lòng tin của chúng ta lại “thật” hơn khi thấy mộ
Chúa trống rỗng –Khi ta chấp nhận Tin Mừng trọng đại: Chúa Giêsu sống, Người
hòa giải chúng ta, Người làm cho chúng ta sống.
Trong ký sự của thánh Maccô, chúng ta thấy mấy bà từ mờ sáng
đi thăm mộ Chúa. Họ có ý định đến làm cho xong việc xức thơm thi hài Chúa. Họ
chẳng nghĩ gì khác ngoài cuộc bận tâm đó. Các bà tự hỏi ai sẽ vần dùm tảng đá đậy
cửa mồ. Nhưng mặc dù băn khoăn, họ vẫn tiến bước, tâm hồn bị thúc đẩy bởi lòng
trung thành với Chúa. Thế mà, sửng sốt làm sao, họ tới nơi thì thấy tảng đá đã
được ai vần sang một bên rồi. Họ đành liều, bước vào phòng ngoài của ngôi mộ,
thấy một thanh niên cất tiếng nói với họ. Người đó cho biết Chúa Giêsu không
còn là một người chết, nay Chúa đã sống lại. Từ ký sự của thánh Maccô, chúng ta
rút ra được suy niệm gì bổ ích cho lòng tin của chúng ta?
1) Câu chuyện mấy bà
đi tảo mộ Chúa rất có ý nghĩa cho một trong những giai đoạn của đức tin.
Hành vi tin, lúc bắt đầu, là một sự cất bước không đắn đo suy tính, đi tìm một
Đấng mà người ta không biết được toàn thể mầu nhiệm. Các bà chưa được biết mầu
nhiệm Chúa Giêsu. Đối với họ, Chúa là Thày. Cái chết thê thảm của Thày làm cho
họ chìm trong đau khổ và hoang mang quá đỗi. Nhưng linh tính khiến họ cảm thấy
giữa Thày và họ chưa hết, vẫn còn liên hệ dù chỉ là việc đến mộ hoàn tất viếc xức
thơm thi thể Thày đầy thương tích sau cuộc khổ hình. Thăm mộ đem lại gì cho họ?
Đem lại một sự hoang mang ghê gớm hơn nữa, họ chỉ thấy một khoảng trống. Họ khiếp
sợ đến nỗi không thốt lên lời. Chỉ mãi sau này các bà mới tin. Có bao giờ chúng
ta tự nhiên đến với Đức Kitô mà vẫn có ấn tượng về một sự trống rỗng mênh mông?
Khoảng chân không đó cần thiết cho hành vi tin của chúng ta được thuần khiết.
Chúng ta làm điều hợp lý khi nghe theo nội tâm thúc giục chúng ta tìm đến Đức
Kitô.
2) Họ thấy tảng đá đã
được vần sang một bên. Theo não trạng những Kitô hữu tiên khởi gốc Do Thái,
đó là mộtsự kiện có ý nghĩa. Có nghĩa là thần chết đã bị đánh bại. Mộ được mở
ra, tức là người chết không còn thuộc về cõi âm ty, nơi mà người Do Thái tưởng
tượng những kẻ quá cố cư ngụ. Trong đời sống đức tin của chúng ta cũng vậy. Nếu
có những lần chúng ta có ấn tượng về một khoảng trống rỗng mở ra trong cõi huyền
vi chính vì những lúc đó trong một góc sâu tâm khảm chúng ta một sự sống lại
đang chuẩn bị. Chúng ta chưa nắm được cái hiển nhiên –nhưng Chúa không muốn bị
gò bó trong những hạn chế của chúng ta về tư tưởng, ước vọng, về cung cách sống
đời Kitô hữu- Chúa vần sang một bên tảng đá nó đóng kín tâm trí chúng ta và
Chúa chuẩn bị chúng ta sống lại cho một đời sống cuồng nhiệt hơn, thật hơn.
14. Đức Tin Của Chúng Ta (Lc 24,13-35)
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA CÓ THEO KỊP
HÀNH TRÌNH CỦA NHÂN LOẠI KHÔNG?
HÀNH TRÌNH CỦA NHÂN LOẠI KHÔNG?
(Đoạn suy niệm sau đây được đề nghị dùng ngày lễ Phục Sinh,
trong lễ chiều. Tuy nhiên không cấm dùng trong các lễ sáng).
Sự việc Chúa hiện ra với các môn đệ thành Emau, chỉ có thánh
Luca mới thuật. Các thánh chép sử khác không nói đến. Tuy nhiên trong Phúc Âm
theo thánh Maccô, chương 16, câu 12, có một sự kiện “hiển nhiên” (theo nhận xét
của cha Lagrange) đó là biến cố Emmau, và có thể đó là tóm lược ký sự của thánh
Luca. Tất nhiên có những lần hiện ra khác mà các thánh chép sử không ghi lại. Mỗi
vị chọn lọc trong những nguồn tài liệu truyền khẩu hoặc thành văn, và ưu tiên
chọn những sự kiện nào cùng hướng với những mối quan tâm của mình.
Với những lần Chúa hiện ra, chúng ta ra ngoài phạm vi lịch sử
thuần túy nhân loại để bước vào lĩnh vực làm chứng cho một hành động của tc. Thực
tại mà người ta kiểm soát được trong điểm này là: có những vị đã đứng lên làm
chứng rằng các vị đó đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu sống sau khi xảy ra một sự
kiện được người đương thời kiểm nhận, đó là sự việc Chúa chết trên thập giá. Tất
cả những chứng từ các vị nêu ra khiến cho trên bình diện lịch sử, chúng ta có
những lý do cực kỳ vững mạnh để tin các vị. Sở dĩ những lý do ấy, nhìn bằng mắt
khoa học, thì không có tính cách ép buộc phải tin – là bởi vì Chúa đã muốn dành
một chỗ đứng cho ân sủng đức tin. Điều trực tiếp thu hút sự chú tâm của chúng
ta ở đây, trong nội giới đức tin chúng ta, chính là nội dụng của chứng từ.
1) Trước kia, các môn
đệ tưởng mình hiểu rõ Chúa. Này đây một nỗi thất vọng mênh mang đã phá tan
niềm trông cậy họ có được nhờ vì hiểu Chúa. Thật ra, họ không thật sự hiểu Người.
Thế mà xảy ra một biến cố tuyệt đối bất ngờ. Chúa hiện ra với họ. Lúc đó, xuyên
qua sự nhận ra Thày, họ thấy nổi lên trong lòng một cung cách mới để hiểu Chúa.
Để tiện so sánh chúng ta có thể gợi lại lần sinh ra và lần tái sinh của chúng
ta. Sau lần sinh ra, kế tiếp là thực nghiệm về cái chết –sự sống lại của chúng
ta sẽ là lần tái sinh để sống sự sống viên mãn. Cũng vậy các môn đệ sau lần “hiểu
biết” đầu tiên và thiếu sót về Chúa, tiếp đến thực nghiệm về thất vọng, họ “tái
hiểu biết” Chúa Giêsu trong một lần gặp gỡ sâu sắc hơn. Họ bắt đầu thực sự hiểu
biết Chúa.
Có một điều gì nổi lên trong họ những dịp tiếp xúc đầu tiên
với Thày, những tháng ngày Người sống trong thể xác. Điều họ tưởng là bị tiêu hủy
rồi, giờ đây lại nổi dạy, được khuếch đại và thanh lọc trong cuộc gặp gỡ sâu sắc
với Chúa sống lại. Câu chuyện Emmau dĩ nhiên là phi thường. Tuy nhiên một câu
chuyện khác ở cấp độ thấp hơn thế chẳng đã thôi thúc chúng ta dùng đức tin để
thực nghiệm những khoảnh khắc mà sự khuất bóng người thân yêu làm cho ta thất vọng,
sau đó, trong một vài trường hợp, là sự sống lại làm ta lóa mắt?
2) Về những ký sự thuật
việc Chúa Phục Sinh, chúng ta trích dẫn sau đây một đoàn giáo huấn của hàng
giáo phẩm hữu quyền, vì nó hợp thời:
“Nhờ những đoạn Phúc Âm đó, tôi có thể ngày nay trở nên giống
các môn đệ Emmau, để hiệp thông với Chúa bằng lời nói và lương thực. Chúa Giêsu
trên thập giá là hình ảnh “tình yêu bị đóng đinh” Chúa dạy tôi hãy nhận ra Người
trong anh em đang đau khổ, xấu số, bị bách hại bởi công lý người đời. Chúa dạy
tôi phấn đấu để tăng tình thương và công lý trong thế gian mà Chúa đã đến để cứu
rỗi bằng thập giá và Phục Sinh của Người” (Đức Cha Weber, tập san “Tài liệu
tham khảo Công giáo” số ngày 19-12-1971).
Sống hiệp thông với Chúa Giêsu chết và sống lại trong ta,
chúng ta có thể đồng hành xứng đáng với nhân loại trong hành trình đi tìm hy vọng,
và đem đến cho nhân loại Tin Mừng: Chúa Giêsu sống và làm cho chúng ta sống.
15. Sáng Và Tối
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối
và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm trong bóng tối. Bóng tối
tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục sinh, sự dữ, sự
ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức
Kitô Phục sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục
sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình, Đức
Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả
trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng
trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc
về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực
sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng dìm linh hồn ta trong cơn mê
ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm mờ lương tâm, lý trí,
khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội
ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta
không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm
thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết
dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn
dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét
sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được
ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên
mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma
quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp
chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của
Chúa.
16. Niềm Hy Vọng Sống Lại
Đức Kitô đã sống lại thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được sống
lại như vậy. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể sống lại được?
Có những kẻ nghĩ rằng: Sự sống lại làm sao có thể xảy ra cho
những người chết mất xác, chết không toàn thây, chẳng hạn như bị pháo kích thân
xác nổ tung thành từng mảnh nhỏ, hay chết chìm dưới lòng biển cả làm mồi cho cá
mập? Chết mà không để lại một dấu vết nào cả.
Tôi xin hỏi lại họ: Phải chăng đó là điều khó khăn đối với
quyền năng Thiên Chúa? Dựng nên một sự sống khi nó chưa có hay là phục hồi nó một
khi đã có, thì đằng nào khó hơn? Làm cho một thân xác được sống lại hay là tạo
thành nó từ hư vô, đằng nào khó hơn? Chẳng lẽ Đấng Toàn Năng, đã tạo dựng vũ trụ
lại bất lực, không thể cứu chúng ta khỏi sự hư mất sao? Trong bức thư gửi giáo
dân Côrintô, thánh Phaolô đã viết: Có người bảo kẻ chết làm sao sống lại được,
họ sẽ lấy thân xác nào mà phục sinh? Thật là vô lý. Đúng thế. Thật là vô lý, nếu
chúng ta bảo rằng Đấng đã tạo thành sự sống, lại không có thể trao ban sự sống ấy
lại một lần nữa. Thật là vô lý nếu chúng ta bảo rằng một thân xác đã chết và
bàn tay uy quyền của Chúa sẽ không thể nào làm cho nó sống lại.
Có kẻ thì nói: Tất cả đã bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, tất
cả đã trở về với cát bụi, thì làm sao có thể nghe thấy tiếng Con Thiên Chúa?
Như chúng ta đã biết: Lời của Thiên Chúa là Lời của uy quyền.
Lời ấy đã phán: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy chỗi dậy. Lập tức chàng
trai thành Naim đã chỗi dậy, đã sống lại. Đứa con gái của ông Giairô, cũng đang
nằm chết ở trên giường và Lời ấy đã vang lên: Hãy chỗi dậy. Lập tức, cháu bé ấy
cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại. Cũng như Lagiarô, mặc dầu đã được chôn táng
trong mồ những bốn ngày rồi, nhưng khi Lời ấy vang lên, thì Lagiarô cũng đã chỗi
dậy, cũng đã sống lại và ra khỏi mồ. Và như thế, Lời ấy cũng sẽ vang lên một lần
nữa và tất cả mọi người đã chết đều được sống lại.
Nhìn vào cảnh vật thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy được rằng
Thiên Chúa đã in dấu chiến thắng trên vật chất. Sau đêm tối là hừng đông rạng rỡ.
Sau mùa đông băng giá là mùa xuân huy hoàng. Một hạt giống mục thối cho mầm non
vươn lên.
Với chúng ta cũng vậy, sẽ có một cuộc phục sinh để hoàn tất
chương trình cứu độ. Bấy giờ sẽ không tang tóc và đau khổ, chết chóc và buồn
phiền, bởi vì Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt chúng ta. Bấy giờ chúng
ta sẽ tiến lên, lãnh nhận cuộc sống vĩnh cửu.
Vậy niềm tin vào sự sống lại sẽ đem đến cho chúng ta những hậu
quả nào?
Hậu quả thứ nhất, đó là một
lời báo động: Hãy chuẩn bị cho ngày ấy vì ngày ấy là một ngày trọng đại nhất
của lịch sử nhân loại. Cũng như ngày đầu tiên, Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng
và ánh sáng liền có. Thì trong ngày cuối cùng ấy, Thiên Chúa sẽ nói: Hãy có
bóng tối và chấm dứt mọi sự. Lập tức đã xảy ra như thế. Rồi những người đã chết
sẽ chỗi dậy và sống lại: Từng triệu triệu người, từ những ngôi mộ lộng lẫy hay
từ lòng đất ở một nơi xa xôi nào đó, cũng như từ biển khơi bao la; những kẻ đã
bị quên lãng, không một ai biết đến; những kẻ đã từng nếm mùi khổ đau trong cuộc
sống; những người trung thành với Đức Kitô cũng như những kẻ phản bội Ngài…Tất
cả sẽ nhìn thấy Con Người ngự đến trong vinh quang.
Hãy chuẩn bị cho ngày ấy. Nếu một lúc nào đó chúng ta sẽ được
sống lại, thì ngay từ giờ chúng ta phải mến Chúa và yêu người, vì cuộc đời vĩnh
cửu không thể nào được tạo nên bởi một nếp sống tầm thường, trống rỗng và không
một chút công nghiệp. Cũng như một hạt lúa lép hay một chiếc vỏ trấu sẽ không
thể nào nảy mầm và mọc lên thành một cây lúa xanh tươi. Bởi đó, hãy chuẩn bị
cho mình tấm áo cưới là tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp, vì
đó là những thứ hành trang cần thiết để được đón nhận vào nước trời.
Niềm tin tưởng vào sự sống lại còn là một nguồn sức mạnh cho chúng ta trong những cám dỗ và thử thách. Thực
vậy, thánh Phaolô đã viết: Nếu anh em được sống lại với Đức Kitô, thì anh em
hãy tìm kiếm những sự trên trời. Nhờ việc Phục sinh mà chúng ta có được sức mạnh
để đứng vững, để trung thành cùng Chúa. Nếu như bây giờ chúng ta phải chờ đợi,
thì chắc chắn ngày huy hoàng ấy sẽ xuất hiện. Nếu như bây giờ chúng ta phải bước
đi trong đêm tối, thì chắc chắn bình minh sẽ bừng sáng. Điều quan trọng đó là đừng
bao giờ chúng ta thất vọng, đừng bao giờ chúng ta nản chí. Bởi vì, chúng ta
không thể nào gặt hái khi những bông lúa còn xanh và chưa được chín vàng.
Sau cùng, niềm tin tưởng vào sự sống lại sẽ là một niềm an ủi cho chúng ta. Thực vậy,
người ta kể lại rằng: Những sắc dân bán khai ở Pérou, mỗi khi có nhật thực, mặt
trời bắt đầu tối lại giữa ban ngày, thì họ vội vã giật tóc và nức nở khóc lóc một
cách thảm thiết vì họ nghĩ rằng sẽ chẳng còn mặt trời nữa.
Với chúng ta thì khác. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh, chúng ta
biết rằng: Bóng tối và cái chết chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Chúng ta có thể
buồn và khóc trên phần mộ của những người thân yêu, nhưng nỗi buồn của chúng ta
sẽ chẳng bao giờ đi đến chỗ tuyệt vọng như những kẻ không tin tưởng, bởi vì
chúng ta biết rằng: Hạt lúa cần phải mục nát đi thì mới nảy mầm, lớn lên, đâm
bông và kết trái.
Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thế nào, thì Ngài
cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại như vậy. Chúng ta cũng biết rằng: Mặt trời
lặn vào ban chiều, nhưng sáng hôm sau, sẽ là hừng đông rạng rỡ. Mùa thu thì lá
vàng rơi, nhưng khi mùa xuân trở lại, thì những cành cây trơ trụi sẽ đâm chồi nẩy
lộc và trở nên xanh tươi.
Sau cùng, chúng ta cũng biết rằng: Hiện thời thân xác chúng
ta sẽ phải chết đi, nhưng rồi ngày hội lớn sẽ đến và chúng ta sẽ được sống lại như lời Chúa đã phán: Ta là sự sống lại
và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống. Và Ta, Ta sẽ cho họ được
sống đời đời.
Cái chết là khung cửa hẹp mà tất cả chúng ta đều phải bước
qua. Kẻ thì lo buồn run sợ, kẻ thì khóc lóc chống cự. Chỉ có một người đã hiên
ngang bước vào, đã chiến thắng và đã chiếu vào khung cửa tối tăm ấy một luồng
ánh sáng. Người ấy chính là Đức Kitô Phục sinh, Ngài đã cầm trên tay cành lá
chiến thắng và đem đến cho chúng ta một mùa xuân vĩnh cửu.
17. Hai Cái Nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến
hai cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà
Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn
tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy
thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đẽ đem Chúa ra
khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà
buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người
môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ,
ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan
sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời
Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức
Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy
và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các
sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những
điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghã, “Tín hữu” là người tin. Vì
thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức
tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc
quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem
ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được
tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với
tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng
Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức
tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi
sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên
mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức
tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên
tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Alleluia!
18. Niềm Vui Phục Sinh
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục sinh
hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần
nào cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến 1, một
người Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được
một lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó
là lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc
khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn
trong khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc,
và đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”
Tin này gây ra hậu quả
ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một
cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm,
mái tóc của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí
trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên
dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu
cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo
tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục
ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá
hơn.
12 ngày qua đi trong
tình trạng đó. Đến ngày thứ 13, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư
này nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết
ở trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng
ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm
hạ sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến
nay, những vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được
trở về với gia đình.
Khi nghe đến đây, người
cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ
người nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích
“Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm
của nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm
vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những
sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết.
Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống
trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng sự
sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại với một
sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng đầu và
bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh của
Thiên Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả
chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối
với cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng
cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều
này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ chỉ
sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà thôi. Bóng tối sẽ
vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng bóng tối
sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngại trong việc tắm mình
trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới bóng tối và
cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy nỗi
buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm vui của Đức
Kitô sống lại từ cõi chết.
19. Chiến Thắng
Chúng ta không thể nào đánh giá được tính cách vĩ đại nơi sự
sống lại của Đức Giêsu, trừ phi chúng ta nhìn nhận đầy đủ sự thật về cái chết của
Người. Đức Giêsu chết đi trong tối tăm. Nhưng Người đủ tin tưởng nơi Thiên
Chúa, để có thể đương đầu với bóng tối, và chờ đợi sự sống lại. Cú nhảy vọt
trong lòng tin của Người không uổng công. Chúa Cha đã nâng Người lên. Hiếm khi
Kinh Thánh và Giáo hội tiên khởi nói rằng “ Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”,
nhưng nói rằng “Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”. Đức Giêsu
cũng phải thực hiện một cú nhảy vọt trong lòng tin, mà một ngày kia, chúng ta sẽ
được mời gọi thực hiện.
Đức Giêsu đã đi vào trong bóng tối của cõi chết, và bật dậy
trong chiến thắng. Ngài đã giành được chiến thắng của Người – Người đã chế ngự
sự chết. Nhưng chiến thắng đó phải vận hành theo cách thế của nó, và trở thành
một thực tại nơi chúng ta, các môn đệ của Người. Chúng ta đạt được chiến thắng
của Người ngay trong bản chất của chúng ta. Nếu chúng ta không chiến đấu và chiến
thắng ngay trong bản chất của mình, thì chúng ta sẽ không có khả năng được hưởng
lợi từ chiến thắng của Người, nhưng chúng ta vẫn còn ở dưới quyền lực của cái
chết.
Chúng ta không bao giờ được nghi ngờ về tự thân sự sống lại
– Thiên Chúa không thể chết được. Nhưng điều đáng ngạc nhiên và là quà tặng của
lễ Phục sinh chính là sự sống lại cũng cho cả chúng ta nữa. Đức Giêsu đã được sống
lại trong máu thịt của chúng ta. Chính cái chết của chúng ta đã bị đánh bại.
Và chúng ta tiếp tục đi tới trong cuộc đời, dần dần trở nên
có ý thức về tính hay chết của mình, và về cuộc hành trình không thể tránh khỏi
hướng đến cái chết. Cái chết tạo ra một thách đố khổng lồ đối với lòng tin của
chúng ta, bởi vì chúng ta chỉ nhìn vào phía sau cái chết, giống như xuyên qua một
tấm kính tối tăm. Nhưng trong ngày hôm nay, chúng ta được hít thở luồng không khí
trong lành của sự sống đời đời.
Dường như sức mạnh của bóng tối có thể đang lan tràn, nhưng
chúng ta đã giành được chiến thắng rồi. Chúng ta phải tin tưởng vào chiến thắng
đó, và không được sống như thể cái chết vẫn còn thống trị chúng ta.
Trở nên người Kitô hữu là trở nên một con người của niềm hy
vọng, nhờ những gì đã xảy ra trong ngày thứ ba. Nhưng niềm hy vọng của người
Kitô hữu không phải là sự lạc quan hời hợt, dựa trên sự khước từ nhìn vào các sự
kiện. Nói đúng hơn, đó chính là niềm tin tưởng sâu xa nơi Thiên Chúa.
Ngày Thứ Sáu Tuần thánh, một ngày của bóng tối và cái chết,
đến với tất cả mọi người. Cũng vậy, ngày Thứ Bảy Tuần Thánh là một ngày của sự
trống rỗng và u buồn. Trong mấy ngày này, thật khó mà tin tưởng được. Nhưng
ngày Chúa nhật Phục sinh, ngày của sự sống và niềm vui, chắc chắn sẽ giống như
ánh bình minh vậy. Kẻ thù cuối cùng là sự chết đã bị chế ngự.
Trong lòng từ ái của Người, xin Chúa mở lòng trí chúng ta
ra, để chúng ta có thể tin tưởng vào tin vui nơi chiến thắng của Người vượt lên
trên sự chết. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa lôi kéo
chúng ta hướng ra bên ngoài, để đi vào một nơi mà chúng ta chưa biết, ở thật
xa, trong cõi vô biên, trong chốn đời đời. Chúng ta tiến tới một cách tin tưởng
và hy vọng hơn, bởi vì Đức Giêsu, Anh Cả của chúng ta, đã đi trước chúng ta.
20. Ngôi Mộ Trống
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của
bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2. Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là
trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể
là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh.
Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó
quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô
nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng,
và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống
lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi
của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu
vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng
ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện
sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay
ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và
tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là
một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn
qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có
lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một
đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ,
chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ,
cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn
là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà
không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề
quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc ở
tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của
Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới,
và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô
nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống
lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ
dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em
được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy?
Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại,
cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới.
Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính
Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr
6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải
chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự
sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở
nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói
hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi
chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi
thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm
6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống
xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần
Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được
sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện»
(Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con
người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới
hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai.
Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt
trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới:
«Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi
anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một
sự lột xác, một tinh thần tự hủy: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết
đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga
12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá hủy, nó sẽ mãi mãi là một
nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào;
nhưng nếu bị phá hủy, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm
nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá hủy «cái tôi ích kỷ» của ta,
thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hóa thành một thực tại mới, con người
mới, vĩ đại, cao quí, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và
có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm
chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái
lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại,
càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng
sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại
được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ,
chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm
cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang
có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ
càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên
mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có
vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là
con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới
là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình»
(Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở
về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi
con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên
Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên
con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ
là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới
là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm
như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm
cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều
quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời
sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em
thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm
trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một
cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở
thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật
sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ
như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể
của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết
tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người.
Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
21. Chú Giải Mục Vụ Của Jacques Hervieux
NGÔI MỘ TRỐNG
(16,1-8)
Khi đọc lại trình thuật này, một lần nữa ta cảm thấy đang đọc
một bản tường thuật trực tiếp về một người đang sống. Như ta đã thấy, rõ ràng
Maccô không phải là một phóng viên chuyên nghiệp, dù văn phong của ông rất sôi
động, những tường thuật của ông không mang dáng vẻ gì là trực tiếp cả. Bằng những
nét cụ thể, ông muốn truyền thông cho cộng đoàn Kitô hữu một kinh nghiệm về niềm
tin sâu xa và chín chắn: đó là một quá trình 40 năm suy niệm (từ năm 30-70). Từ
những nhận định này, ta phải hết sức lưu ý đến sứ điệp Maccô muốn nhắn gửi
trong trình thuật này, qua những chi tiết ông viết lại.
Sau ngày Sabbat, mọi sự trở lại bình thường (c.1). Bối cảnh
thời gian là chiều tối thứ bảy, khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu xuất hiện
trên nền trời, báo hiệu ngày lễ nghỉ thánh đã hết. Trước khi trời tối hẳn, các
cửa hiệu đều mở cửa bán hàng lại. Người Do Thái có tính lo. Chính vì vậy mà ba
phụ nữ chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết (15,40) đã lo lắng đi mua dầu thơm để tẩm
xác Chúa Giêsu (công việc đáng lẽ phải được làm hôm trước đó). Đây không phải
là ướp xác đúng nghĩa theo cách thức người Ai Cập, nhưng chỉ là xức hương liệu
lên thi thể theo tập tục người Do Thái (Ga 19,40). Bằng lối tương phản mà Maccô
rất sở trường, bóng tối của sự chết (15,33-34) được đặt song song với ánh sáng
của một ngày mới (c.2). Ở đây tác giả Tin Mừng đã quy tụ mọi biểu hiệu tượng
trưng cho việc khai sinh một thời đại mới. Nó ám chỉ rõ rệt đến buổi sáng đầu
tiên của cuộc Sáng thế (St 1,3-5): đó là khởi nguyên cho một thế giới mới vừa
xuất hiên. “Ngày thứ nhất trong tuần”, sau ngày hưu lễ Sabbat của người Do
Thái, nay sẽ trở thành “ngày Chúa nhật”, dies dominica, “ngày của Chúa” Phục
Sinh.
Buổi bình mình mới này xuất hiện trước cả các phụ nữ, những
bà vẫn canh cánh mối bận tâm là phải đến cho bằng được để tỏ lòng với Người đã
chết hôm trước. Câu hỏi các bà đặt ra khá vô duyên và muộn màng (c.3); hẳn các
bà đã biết rằng cần hai hoặc ba người đàn ông mới vần nổi tảng đá rất nặng ra
khỏi cửa mồ. Nhưng ở đây tác giả lại không hề chú trọng đến tâm lý nhân vật. Mối
lo lắng của các bà là nhằm làm nổi bật nỗi ngạc nhiên xảy ra sau đó: các bà
phát giác ra rằng tảng đá mà các bà lo lắng không thể lăn nổi nay đã được vần
ra rồi (c.4). “Một bàn tay vô hình” mạnh mẽ phi thường đã thực hiện việc này.
Trong văn bản Hy Lạp, người ta đọc thấy câu này: “Hòn đá đã bị lăn đi”. Lối
dùng theo thể thụ động này diễn tả hành động của chính Thiên Chúa, tuy không
nói rõ tên Ngài ra (x.Mt 28,2): Thiên thần của Chúa, đấng thay thế Ngài, đã lăn
tảng đá. Sự kiện cửa mồ được mở ra mới chỉ là điều ngạc nhiên đầu tiên. Một sự
thể đáng ngạc nhiên khác quan trọng hơn nhiều, đang chờ đợi các bà: các bà nhìn
thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc toàn đồ trắng (c.5a). Cảnh tượng này làm
cho độc giả ngày nay phải suy nghĩ. Việc một kẻ ăn mặc như thế, ngồi ở đấy, nơi
chôn kẻ chết có ý nghĩa gì? Người ta nghĩ ngay đến chàng trai trẻ khi Chúa
Giêsu bị bắt, đã quăng tấm vải choàng đi hầu dễ bề tẩu thoát (tấm vải = vải liệm
chăng?) (14,51-52). Hơn nữa, người thanh niên “ngồi bên phải”… Đó là vị trí
danh dự như người Kitô hữu hằng coi Chúa Giêsu vinh quang “ngự bên hữu” Chúa
Cha (x.16-19b). Sau cùng, “mặc áo trắng” cũng như khi Chúa Giêsu biến hình các
môn đệ thấy Ngài cũng mặc như vậy (9,3). Hầu như mọi sự kiện này đều khiến ta
nghĩ rằng chính Chúa Giêsu “xuất hiện”! Nhưng tác giả Tin Mừng không cho là như
thế. Và truyền thống Tin Mừng ở trình thuật này lại cho rằng đó là một hoặc hai
Thiên thần (Mt 28,2b-3; Lc 24,4; Ga 20,12). Thiên thần là “sứ giả” của Thiên
Chúa, là đấng thay thế Thiên Chúa vô hình. Sự xuất hiện của Thiên thần ở đây có
nghĩa rằng sứ điệp các vị loan báo không phải là của loài người, mà đến từ
Thiên Chúa. Thực vậy, người thanh niên loan báo Tin Mừng vượt khỏi trí khôn
loài người (c.6b). Sứ điệp này mang một sắc thái hết sức mâu thuẫn: kẻ bị đóng
đinh nay đã Phục Sinh. Kẻ bị chết đi, chết tàn nhẫn bằng khổ hình thập giá nay
đã trở về cõi sống: Ngài là Đấng Hằng Sống! Đây chính là sứ điệp “Vượt Qua” mà
các Tông đồ đã loan báo cho muôn dân (. Cv 2,22-36; 3,12-20 v.v…). Sự bối rối của
các phụ nữ biểu lộ mối xúc động tôn giáo sâu xa khi đứng trước cõi siêu nhiên.
Từ ngữ “hoảng sợ” (c.5) rất mãnh liệt và chỉ riêng Maccô dùng. Maccô luôn nhấn
mạnh đến vực thẳm cách biệt giữa nhân loại và Thiên Chúa (x. 1,27; 9,15;
10,24a). Tin Mừng về Chúa Giêsu chiến thắng sự chết phải được công bố. Bởi vậy
các bà được khuyên nhủ phải thông báo cho các môn đệ, nhất là Phêrô (c.7). Mọi
Tông đồ đều được nhắn bảo tập trung về Galilê, ở đó Đấng Phục Sinh sẽ gặp lại họ
và Ngài sẽ tới đó trước họ. Thế nghĩa là gì? Miền Galilê ở mãi phía bắc
Palestin, là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ của mình (1,14-15), nơi Ngài dong duổi
khá lâu trước khi lên Giêrusalem (9,30). Tác giả đã nhận định Galilê là môi trường
điển hình cho việc tương giao Do Thái ngoại giáo, tượng trưng sự cởi mở đối với
toàn thế giới. Bởi thế các môn đệ được mời gọi nhóm họp lại sau lưng Đức Giêsu
Phục Sinh để chuẩn bị cho một sứ mạng rao truyền mới.
Như vậy các phụ nữ là những người được ký thác cho một
chương trình tuyệt vời: phục hồi Tin Mừng với một sức mạnh mới mẻ.
Ta biết thêm gì nữa? Các bà chạy trốn, lòng đầy sợ hãi, mà
chẳng thông báo cho ai cả (c.8). Thái độ này khiến ta ngỡ ngàng. Và càng làm độc
giả phải suy nghĩ đắn đo hơn khi biết rằng Maccô đã kết thúc tác phẩm của mình ở
đây (ở câu 8). Các nhà chuyên môn đều đồng ý như thế. Phần nối tiếp sau đó
(16,9-20), đoạn kết, không phải là văn phong của Maccô. Đó chỉ là một bản “phụ
lục” thêm vào tác phẩm để tránh cho nó khỏi bị kết thúc đột ngột, đồng thời
mang lại một chung cục có hậu hơn.
Bởi vậy ta cần tìm hiểu tại sao Tin Mừng Maccô nguyên thủy lại
kết thúc với việc các phụ nữ sợ hãi, bỏ trốn và câm lặng như thế. Trước hết, nỗi
lo sợ. Văn bản Tin Mừng ghi rằng các bà “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía”. Maccô
bao giờ cũng trung thành từ đầu tới cuối khi nói đến khía cạnh này trong tác phẩm:
khi chứng kiến các biểu lộ của Thiên Chúa con người bị hoảng loạn cực độ. Đó là
trường hợp của đám đông dân chúng (2,12), của các môn đệ khi họ chứng kiến phép
lạ của Thầy mình (5,42b; 6,50). Do vậy lẽ nào các phụ nữ lại không hoảng sợ và
run rẩy khi được loan báo về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu?
Kế đến là sự im lặng. Việc các phụ nữ không nói gì với ai cả
còn chướng hơn việc họ đã nhận lãnh một sứ điệp phải truyền đạt (c.7). Và nếu
quả thực các bà không truyền đạt lại –như các tác giả Tin Mừng cũng công nhận
(Mt 28,8; Lc 24,9; Ga 20,2-18) ắt hẳn các Tông đồ cũng không thể biết gì cả… rồi
chúng ta cũng vậy! Không biết gì! Nhưng ngay cả thái độ im lặng của các bà cũng
đã ăn sâu vào máu thịt của Maccô. Ta thấy rằng các lời mặc khải mầu nhiệm Chúa
Giêsu đã nhiều phen khiến bạn hữu Ngài hoàn toàn không hiểu gì. (Họ không dám hỏi
lại Ngài 9,32). Do đó không lạ gì thái độ sợ hãi và câm lặng của các phụ nữ khi
nhận được tin quá sức tưởng tượng rằng Đấng bị đóng đinh nay đã sống lại. Tin Mừng
“Chúa Kitô đã Phục Sinh” bao giờ cũng là một tin khó rao truyền nhất, bởi lẽ
hoàn toàn ngược với lý trí.
Đoạn cuối này của Tin Mừng Maccô hẳn làm cho ta phải kinh ngạc.
Ta phải hết sức lưu ý chuyện cửa mồ được “mở ra” và sứ điệp của Thiên Chúa giao
cho ta chỉ được đón nhận với một đức tin trần trụi như thế này: chứng minh là
“kinh nghiệm sống” của những kẻ đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục Sinh của
Ngài.
22. Chú Giải Mục Vụ Của Alain Marchabour
CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI
(Ga 20,1-9)
Những lần hiện ra
(20,1-29)
Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa Giêsu hiện ra khi
Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với các môn đệ mà
không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần sau đó (cc.
19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được thêm vào
Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất ở cả bốn
Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế nhưng
Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất Lãm, đã
khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hóa các kinh nghiệm về
đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân
riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được
Chúa Giêsu thương mến tin mà không cần thấy (20,8); bà Maria Macđala chỉ nhận
biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà (20,16); các môn đệ thấy Người và tin vào
Người (20,20); còn ông Tôma không muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.
Đối với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết là Giờ được tôn
vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện ra trong vinh
quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hóa toàn bộ quá trình của Chúa
Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống lại sau cùng: “Khi Người từ
cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó; họ tin vào Kinh
Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2,22). Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị thời kỳ của
Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.
Bà Maria Macđala, ông
Simon Phêrô và người Môn Đệ Kia (cc. 1-18)
Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh bốn nhân vật: bà
Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự việc diễn ra gần
bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở đầu và kết thúc
bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu đưa tin Chúa bị
đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có nhiều cảnh tượng
khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ của hai môn đệ làm
gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần liên tiếp chạy đi chạy
lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (c.2); người môn đệ kia “thấy
những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ) còn ở đó”. Ông Phêrô thấy
“băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn đệ kia “thấy và tin”
(c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được chuẩn bị đi từ các dấu
lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
NGÔI MỘ TRỐNG
(cc.1-2)
Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến nhiều phụ nữ
(chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận có hai
bà (Mt 28,1), ba bà (Mc 16,1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24,10). Gioan chọn xây dựng
bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria Macđala. Việc bà đi đến mộ
không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc thơm đã được hai người đàn
ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư thế thân thương và hiếu hạnh
nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giêsu và kéo dài tang lễ (như đã xảy ra
trong Ga 11,31). Tình huống nhắc đến đêm tối (của sự chết) và một bước khởi đầu
(ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ. Giống như các thánh sử khác, Gioan
phòng giữ mầu nhiệm về sự can thiệp của Thiên Chúa diễn ra mà không có nhân chứng,
trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ giữa bà Maria và Chúa Giêsu bị chậm lại vì
được xen vào việc bà Maria chạy về gặp hai môn đệ.
HAI MÔN ĐỆ
(cc.3-10)
Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến, cả hai đều có mặt
ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự hết sức gần gũi với
Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung thành nơi người môn đệ
kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích cực hơn nữa trong việc
khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai người cũng như có sự trổi
vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, bởi lẽ môn đệ
kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn và ân cần lớn hơn chăng?), sau đó
“ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình từ “thấy” đến sự gắn bó
trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liệm hoặc trật tự các đồ này
được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không bị đánh cắp, mà Chúa
Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn so có thứ tự nếp nang và đặt đúng vị trí Người mặc.
Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa Giêsu không còn cần
đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người. Gioan không hề nói gì
đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24,12 nhấn mạnh ông Phêrô rất đỗi ngạc nhiên khi
thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa hoàn toàn thuyết phục, tiếp
nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên đường của các môn đệ. Họ trở
về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng đến cho họ. Không tranh luận,
không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi bài trần thuật cùng với sự trổi
vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được gia nhập trước tiên, trở nên cho
Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối cãi được. Còn người môn đệ kia
trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô. Mối tương quan phức tạp giữa hai
môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.
23. Chú Giải Của Noel Quesson (Mc 16,1-8)
Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng nghe sứ
điệp của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô, chúng ta đọc
tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô" trong Đêm canh thức
này, trình thuật của Maccô hết sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám câu.
Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông Giacôbê, và
bà Salômê, mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu.
Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các "người
nữ". Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến cái chết
của Người trên đồi Golgotha... còn tất cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc
14,50-15,50).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành hơn.
Xin Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.
Tôi ngắm nhìn những "phụ nữ tẩm xác", tay bê nặng
những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa. Các bà
này chỉ lo lắng một điều: làm sao tẩm dầu thơm cho một xác chết, kết thúc bước
đường phiêu lưu của "Đức Giêsu Nagiaret"... thể hiện những bổn phận
yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc an
táng một tử tội khả quan hơn, bởi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta không
có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà
ra mộ.
Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải. Trời
mát, không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn với
biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên qua
các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời.
Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia...
Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một cuộc tạo
thành rưới, một kỷ niệm mới.
Các bà vừa đi vừa bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm
ta đây:" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi,
mà tảng đá ấy lớn lắm.
Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều đã
ghi nhận. "Tảng đá đã được lăn ra". Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận
thêm, tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với
kiểu cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta
ngày nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự
ngăn cách con người với sự Phục sinh... được coi như một sự kiện không thể có
được... ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?". Chỉ mình Thiên Chúa mới
có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.
Vào trong mộ các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng.
Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật của
Matthêu, vì không nói đến "thiên thần", đến “đất rung chuyển" đến
tia chớp sáng"... nhưng chỉ đề cập đến một "người thanh niên".
Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối thiểu trong
ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu "tả vẽ" về biến cố
Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta biết rằng màu "trắng"
luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch với bóng tối... đó là màu của
vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào ngày Biến Hình, cũng chính Maccô
đã nói đến "một thứ trắng tinh không có một thợ nào trần gian giăt trắng
được như vậy" (Mc 9,3). Trong sách Khải Huyền của Gioan, màu "trắng"
luôn tượng trưng cho thế giới trên trời (Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is
1,18; Kh 7,14-19,1-14).
Các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng sợ!".
Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một sứ điệp
của Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiết này. Những gì thuộc về Thiên
Chúa thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc
nhiên, sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông
(exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như
không người “Caphacnaum đã kinh ngạc" trước sự can thiệp đầu tiên của Đức
Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).
Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường gây
bối rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay. Thiên
Chúa không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường nói:
“Các ngươi đừng sợ".
Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện ra đúng
nghĩa của Đức Giêsu... Nhưng chỉ ghi một "Lời" mạc khải, qua một
thiên sứ, nói lên “đức tin", một trong những điểm của "kinh Tín
Kính" ta vẫn đọc.
Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã sống
lại rồi, không còn ở đây nữa.
Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô,
Ngày thứ ba, Người đã sống lại"
Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi (Cv
2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.
Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể, như
thế muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, "người
Nagiaret", kẻ "bị đóng đinh", Đức Giêsu của lịch sử.
Kẻ bị đóng đinh đã thức dậy.
Kẻ bị đóng đinh đã phục sinh
Người không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?
Chỗ đã đặt Người đây này, xin các bà về nói với môn đệ Người và ông
Phêrô như thế này: "Người sẽ đến Galilê trước các ông".
Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi mộ"
nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến "mồ táng" đó. Cả Đức
Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: "Sau khi sống lại,
Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mc 14,28). Chàng "thanh niên mặc áo
trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu, một Giêsu mới, Đức Giêsu
ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp xúc đầu tiên, với con
mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường hợp của Mácđala, tại
khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn" cũng như hai môn đệ làng
Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’
Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng ở lại
Giêrusalem.
Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động nơi Người
đã đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền đất của
anh em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối với
Maccô, Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Ong
đã nhắc đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời Đức
Giêsu đã đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa đã
vang lên. Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của Người
tại đó. Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.
Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một dân tộc
mới chung quanh Phêrô, thời của những "dấu chỉ" mới, thời của Tin Mừng:
Giáo Hội khởi sự... và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng “không còn ở
đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng Người". Đó
là một lệnh lên đường.
Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói với
Phêrô. Hãy trở lại Galilê.
Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông.
Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý luận.
Các tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn thân
trong một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức
Giêsu chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người
còn sống.
Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không phải
là vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình dấn
thân vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!
Vừa ra khỏi mộ, các bà liền cắm đầu chạy.
Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng các bà
lại phải đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về. Các bà
vội rời gót khỏi nơi đó.
Các bà run lẩy bẩy, hết hồn vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá.
Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục Sinh.
“Run lẩy bẩy" (tromos) và “ngây ngất xuất thần" (extasis).
Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất ngờ và gây đảo lộn của Nước
Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin Mừng của mình, Maccô đã nhấn
mạnh đến "bí mật" che giấu căn tính đích thực của Đức Giêsu Nagiaret:
mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là "Con Thiên Chúa", Đức Giêsu đều
buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ trọn ý nghĩa. Chúng ta hãy trân
trọng nó? Các người nữ "im lặng" và "chẳng nói gì với ai":
Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã vượt thoát khỏi mọi nắm giữ và trở
nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi nhân loại, luôn gây bối rối.
Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật trên,
một sự "hiển nhiên tuyệt đối” một sự "ổn định hoàn toàn", thì sẽ
gặp thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin và thái
độ tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng con.
24. Chú Giải Của Fiches Dominicales (Mc 16,1-8)
ĐỨC GIÊSU NAGIARÉTBỊ ĐÓNG ĐINH, NGƯỜI
ĐÃ CHỖI DẬY RỒI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Bên kia bóng tối,
ánh sáng ngày mới đang bừng lên
Anh sao mai xuất hiện đã đánh dấu ngày Sabát, ngày lễ nghỉ
thánh, chính thức chấm dứt. Cuộc sống đã sớm trở lại với nhịp sống bình thường,
các tiệm buôn đã mở cửa. Bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà
Salômê - ba bà này "đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi người còn ở
Galilê" (15,41), đã có mặt khi Đức Giêsu bị đóng đinh (15,40), và khi Người
được chôn cất -đã có thể đi mua dầu thơm "để ướp xác Đức Giêsu", mà
chắc không phải là theo cách thức người Ai cập, nhưng theo tục lệ của người Do
thái: ướp xác bằng dầu thơm.
"Các bà ra mộ”, đến chỗ hẹn của cái chết. Nhưng bằng những
hình ảnh biểu tượng khác nhau: "Sáng tinh sương”, "lúc mặt trời hé mọc"
trình thuật đã báo trước một cuộc tạo dựng mới rồi. Bóng tối của sự chết sắp bị
đẩy lui nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới, cho một khởi sự mới của vũ trụ;
đó là "ngày đầu tuần" của một công trình tạo dựng mới, ngày ấy chẳng
bao lâu nữa sẽ được gọi là Chúa nhật, tiếng latinh là "dies dominica”,
Ngày Chúa phục sinh.
Dọc đường đến mộ, khi nghĩ đến tảng đá lớn chắn cửa mồ, các
bà cảm thấy lo âu. Nỗi lo âu ấy là chuyện rất bình thường, vả chăng còn là khá
muộn màng: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây”, bởi vì các bà
biết rằng "tảng đá ấy lớn lắm" chỉ với sức lực của hai hoặc ba người
đàn ông mới có thể lăn nổi tảng đá ấy. Tảng đá càng lớn, thì càng gây ngạc
nhiên lớn hơn cho các bà sau này.
- Các bà ngạc nhiên trước hết vì "thấy tảng đá đã lăn ra một
bên rồi”, điều không thể nào làm được đối với các bà. Các nhà chú giải
muốn lưu ý ta về một chi tiết có tính khá soi sáng là: nguyên bản bằng tiếng Hy
lạp dùng câu này ở thể thụ động (tảng đá đã được lăn ra một bên) nhằm "ám
chỉ đó là hành động của Thiên Chúa mà không cần phải nói ra, còn sách bài đọc,
thì rất tiếc là đã dịch câu đó ở thể bất định: "người ta đã lăn tảng đá rồi"
(J.Hervieux, "L'evangile de Marc", Centurion, trang 233).
Rồi tiếp đến là một ngạc nhiên khác: "vào trong mồ, các bà thấy một
người thanh niên (tiếng Hy lạp là "neaniskos") ngồi bên phải,
mặc áo trắng”. Người ta nghĩ ngay đến "người thanh niên" (neanikos)
được mô tả trong cảnh Chúa bị bắt; người thanh niên ấy chỉ khoác vỏn vẹn một
"tấm vải gai" (tiếng Hy lạp là "sindona" có nghĩa là tấm vải
liệm). Khi họ túm lấy anh, anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng. Đây
là cách dùng biểu tượng để diễn tả việc Đức Giêsu phục sinh thoát khỏi tay những
kẻ thù tưởng là đã bắt được Người và giam hãm Người trong cái chết (Maccô
14,50, J.Hervieux, O.C. trang 216-217).
+ "Người thanh niên" trong trình thuật "ngồi
bên phải” đó là địa vị danh dự mà các Kitô hữu vốn dành cho Đức Kitô vinh hiển:
"Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha”
+ Người thanh niên ấy mặc áo trắng, giống như Đức Giêsu biến
hình sáng láng trên núi, ít lâu sau khi loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần
thứ nhất (9,3).
J.Hervieux nêu ý trước, rồi P.E Boismard cũng đồng tình: tất
cả gần như khơi gợi một sự "xuất hiện" của Đức Giêsu. Còn tác giả
Maccô thì không nói ra điều này. (O.C. trang 234).
2. Bên kia nỗi sợ hãi
là hướng mở ra với sứ mạng
Theo cách diễn tả sinh động của trình thuật, người thanh
niên ấy không phải ở đó để làm gì. Nhưng là để nói lên một lời, để loan báo một
Tin Vui, một Tin Mừng: "Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bi
đóng đinh, chứ gì? người thanh niên ấy nói với ba phụ nữ. Người đã chỗi dậy rồi”.
Sứ điệp phục sinh chứa đựng trong mấy lời sau đây: "Đức
Giêsu Nadarét mà các bà đã đi theo trong thời gian Người rao giảng ở Galilê, và
đã thấy người chết tất tưởi trên thập giá, Đấng ấy nay đã sống lại: Người là Đấng-Hằng-Sống!
Cũng chính sứ điệp ấy mà các tông đồ sẽ loan báo cho muôn dân sau này"
(cf. Cv 2,22-36; 3,12-20; vv...).
Trước đây, ở phần đầu sách Tin Mừng Maccô (Phúc âm Chúa nhật
V thường niên) ta được biết: sau một ngày bận rộn ở Caphácnaum, Đức Giêsu thức
dậy sớm, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Các môn đệ kéo nhau đi tìm
Chúa. Khi gặp Người, các ông được bảo đi đến một ‘nơi khác’: "Thôi, chúng
ta đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở
những nơi đó nữa”. Còn ở đây, ở phần kết của sách Tin Mừng Maccô, khi ngày mới
đang lên, các môn đệ cũng lại nhận được sứ điệp, qua trung gian các phụ nữ, để
đi đến một nơi khác: Người không còn ở đây nữa... Người sẽ đến Galilê trước các
ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông nơi hẹn gặp
này, nơi Người sẽ "đến trước" các ông ấy chính là miền Galilê, nơi
tiêu biểu cho sự chung sống lẫn lộn giữa người Do thái và dân ngoại. Đức Giêsu
đã chọn Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng của mình (1, 14-15), nên nơi đây,
trở thành biểu tượng cho việc khai mở sứ mạng phổ quát vậy. J. Hervieux kết luận:
"Các môn đệ được mời gọi tập họp lại đàng sau Đức Giêsu phục sinh, để khởi
sự một cuộc lên đường mới ra đi truyền giáo" (O.C trang 234).
- Được mời gọi đem tin này đến cho "các môn đệ Người và
Phêrô”, khi vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, "run lẩy bẩy”.
"Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá”? Trình thuật về biến cố Phục sinh
kết thúc với những lời trên, và sách Tin Mừng Maccô cũng kết thúc một cách chân
chất như vậy.
Tại sao có sự sợ hãi như vậy? Tại sao lại yên lặng chẳng nói
gì như thế Chắc hẳn là do sự xúc động mãnh liệt và bất ngờ trước lời loan báo
quá lạ lùng về việc phục sinh của Đấng bị đóng đinh. Nhưng nỗi sợ hãi không thốt
lên lời này không thể ngăn cản các bà ra đi truyền lại sứ điệp, cũng như không
thể ngăn cản các tông đồ rao truyền sứ điệp ấy cho đến tận cùng trái đất.
Theo P. Eboismard gợi ý, thì "Maccô coi các độc giả Tin
Mừng của ngài là những người có đủ trí thông minh để hiểu, vậy thì ngài muốn
truyền lại cho họ sứ điệp nào? Trong phần đầu sách Tin Mừng của ngài, thánh
Maccô đã không ngần ngại mà còn lấy làm hứng thú nhấn mạnh đến sự ngớ ngẩn của
các môn đệ vì các ông không sao hiểu biết được chân tính đích thực của Đức
Giêsu. Ngay cả trường hợp ông Phêrô bất thình lình tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống cũng vậy. Đó chỉ là do Chúa tỏ cho ông biết mà
thôi (...). Trong phần thứ hai của Tin Mừng cũng vậy, hết thảy các môn đệ không
trừ một ai, kể cả ba người phụ nữ được coi như trung tín nhất, đều hoảng sợ và
bỏ trốn cả (...). Thế nhưng các độc giả Tin Mừng của Maccô hẳn phải nhận thấy
điều này, là sứ điệp của Đức Kitô được truyền lại cách trung thực "cho đến
tận cùng trái đất" (Cv 1,8) do chính những con người yếu đuối và khiếp nhược
kia. Chính quyền năng của Thiên Chúa (hay của Đức Kitô phục sinh) đã phải tràn
ngập tâm hồn các môn đệ để thông ban cho họ ơn can đảm và hiểu biết mà trước
đây họ khiêm khuyết một cách thảm hại. Đó chính là sự lạ của Hội Thánh lúc mới
khai sinh mà thánh Luca sẽ thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ. Còn Maccô thì
để cho độc giả của mình tự hiểu, giống như ngài đã để cho độc giả tự hiểu rằng,
nếu thánh Phêrô đã có thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Kitô thì chính là nhờ một sự
can thiệp của Thiên Chúa vậy. (Xem "Jésus, un homme de Nazareth",
Cerf, 1996, trang 176).
25. Chú Giải Của Fiches Dominicales (Ga 20,1-9)
GẶP NGƯỜI SỐNG NƠI MỘ
ĐỨC GIÊSU
Vài điểm chú giải
1) Từ ngôi mộ “trống”
Sau ngày Sabát, đó là "ngày thứ nhất trong tuần”, kiểu
nói đó gợi ý rằng thế giới đã khởi sự bước vào một thời điểm mới. Maria
Mácđala, người phụ nữ đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, "đi đến mộ từ
sáng sớm”. Chỉ có một mình bà đi tới mộ chứ không phải là ba bà như được kể lại
trong Tin Mừng Maccô (Tin Mừng lễ Vọng Phục Sinh). Bà tới đó không phải vì ý muốn
xức dầu thi hài, bởi lẽ việc chôn cất "theo tục lệ của người Do Thái
(19,40), đã hoàn tất, nhưng theo X. Léon-Dufour, có lẽ "chỉ vì con tim
thúc đẩy thôi" ("Đọc Tin Mừng Gioan", quyển IV, Seuil, trang
203).
Vừa nhận thấy "tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà vội chạy về
báo tin cho các môn đệ: từ ngôi mộ mở toang, bà kết luận là thi hài Chúa đã được
đưa đi; từ "tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà kết luận là "người ta đã đem
Chúa đi khỏi mộ”? Bóng tối bao trùm bà Mácđala đã được gợi ý ngay từ đầu trình
thuật: "Lúc trời còn tối”.
2) Đến dấu chỉ của
ngôi mộ trống.
Phêrô là người được thánh sử nêu tên trước, nên dù chạy chậm
hơn môn đệ kia, ông vẫn là người thứ nhất bước vào trong mộ và "nhìn thấy
những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các
băng vải, nhưng cuộn lại, xếp riêng ra một nơi. Như vậy là giả thuyết Maria
Mácđala đưa ra không vững nữa, vì "kẻ trộm sẽ chẳng lợi gì mà lấy băng vải,
cuộn lại rồi đặt riêng ra một nơi" (Thánh Gioan Kim Khẩu). Nhưng ngoài nhận
xét trên đây, người ta không thấy tác giả Gioan nói gì về phản ứng của Phêrô.
Còn Luca thì viết: "Ông rất đỗi ngạc nhiên" (24,12). Trái lại,
"Người môn đệ kia, người được Đức Giêsu thương mến”, tuy chạy tới mộ trước
Phêrô, và vội cúi xuống để nhìn vào trong, nhưng lại nhường cho Phêrô tiến vào
trước, chính người môn đệ ấy bằng trực giác của tình yêu, lại đang nhìn thấy
trong cảnh mồ trống và cảnh các khăn vải sắp xếp ngăn nắp kia dấu chỉ của một
Thực Tại Khác mà chỉ lòng tin mới cảm nhận được: "Ông đã thấy và ông đã
tin”. Theo ông, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu; mà chính là quyền
lực của sự sống dứt khoát tước hết quyền của sự chết.
X. Léon tự hỏi: "người môn đệ kia đã thấy gì? Hẳn không
phải là ông đã nhìn thấy Đấng phục sinh. Về phương diện này, ông cũng giống như
người có lòng lin được cho là có phúc vì đã không thấy mà tin (20,29). Người có
lòng tin thì chỉ dựa vào chứng từ của các môn đệ đầu tiên, còn Người-môn-đệ ấy
thì tin khi nhìn thấy những dấu vết để lại trong mồ. Dù rằng chưa gặp gỡ tiếp
xúc với Đấng-Phục-sinh, ông đã có khả năng vượt qua vực thẳm ngăn cách: tuy
không thấy xác ở đó, nhưng vải liệm đã là dấu chỉ giá trị đối với ông. Trước hết,
việc các khăn vải được xếp đã ngăn nắp đã loại bỏ giả thuyết cho rằng người ta
đã lấy cắp thi hài, điều mà có lẽ Phêrô đã kết luận. Sau nữa, tình yêu vốn đầy ắp
con tim đã giúp cho người môn đệ ấy có được ánh sáng. Đối với ông, theo J.P.
Duplantier nhận định, ngôi mộ không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở thánh
một ngôn ngữ? Nhớ chú tâm lắng nghe ngôn ngữ ấy người môn đệ kia hiểu rằng Đức
Kitô đã chiến thắng điều mà không ai tránh khỏi, nói cách khác, Đức Giêsu đã
toàn thắng sự chết (Sđd, trang 212).
Phần Giáo Hội sơ khai, sau khi đã có kinh nghiệm về Đấng Phục
Sinh, sẽ còn phải đọc lại Thánh Kinh để soi sáng và nung đúc lòng tin cho mình.
Vì "quả thực, cho tới lúc ấy - bản trình thuật kết luận - các môn đệ vẫn
chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, thì Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết”.
Bài đọc thêm
“Hiện diện của tình yêu”
(H. Vulliez, trong "Dieu si proche. Năm B". Desclée
de Brouwer trang 51).
Maria Mácđala chạy tới mồ và thấy mộ trống. Chỉ có băng vải
và khăn liệm là lên tiếng nói rằng: xác đã để ở đó. Bây giờ thì không còn nữa!
Chỉ có những điểm mốc cho biết là trước đây đã có một hiện diện - Maria Mácđala
đứng trước một khoảng trống mênh mông. Những gì bà nhìn thấy lúc này thật khủng
khiếp. Điều gì đã xảy ra? Còn đâu những lời hứa Người sẽ sống lại?
Lễ Phục sinh khởi đầu trước ngôi mộ trống. Ta không thể tin
rằng Người-đang-sống. Sống một cách khác, nếu không trải qua khoảng trống này:
đoạn tuyệt với sai lầm, từ bỏ mình hoàn toàn, vượt qua khoảng cách thăm thẳm do
những sự đời này tạo nên, và cái chết. Phải vượt qua khoảng trống chóng mặt
này, phải cảm thấy khao khát một Hiện-diện tuyệt đối. Mới có thể nói cho lòng mình
và cho người khác rằng: Đức Giêsu, Người-bị-đóng- đinh vẫn đang sống. Thật là kỳ
diệu và tuyệt vời khi được nhìn thấy bình minh sự sống mới ló dạng sau lúc vượt
qua cái không trống rỗng này, và cũng thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi băng qua
vực thẳm tối tăm của cái chết người ta lại thấy mình sống trong ánh sáng chan
hoà của đời đống phục sinh.
Đức Giêsu vắng mặt về thể lý là điều cần thiết để ta gặp gỡ
Người Hiện Diện cách khác. Nhờ Người, đời sống thần linh lại được khơi con người.
Sự Hiện Diện của Tình yêu là men làm dậy lên một nhân loại mới.