LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
Ðức Maria được mời gọi lên trời; đạo binh các Thiên thần mừng rỡ hân hoan.
PHÚC ÂM: Lc 1, 39-56
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tiếng gọi, Chúa gọi chúng ta, Đức Mẹ gọi chúng ta, những tiếng gọi này có thể rất đa dạng như.
Hãy tạ ơn Chúa vì đã ban cho Đức Mẹ ơn được lên trời cả hồn lẫn xác.
Hoặc : hãy xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta cũng được theo Mẹ lên trời.
Hoặc : Hãy nhớ lại muôn vàn ơn Đức Mẹ đã ban cho ta, hiện nay và từ trước, để ta biết đi vào đúng đường lên trời.
Trong những tiếng gọi khác nhau, tôi thấy có tiếng gọi tôi cho là khẩn cấp. Tiếng gọi đó được diễn tả trong lời sau đây của thánh Phaolô : “Các con hãy biết run sợ lo sao cho mình được cứu độ” ( Pl 2, 12).
Được cứu độ là việc không dễ dàng. Vì thế, nếu chúng ta “biết run sợ lo cho mình” được cứu độ, thì thái độ của chúng ta là rất đúng. Bởi vì Chúa Giêsu khẳng định : “Được mọi sự thế gian, mà phải mất linh hồn mình, thì nào có lợi gì “ ( Lc 9, 25).
Trong niềm tin đó, và với sự run sợ lo cho phần rỗi của mình, tôi xin chia sẻ mấy thực tế, mà tôi thiết nghĩ là rất cần cho phần rỗi.
Những thực tế mà tôi coi là cần cho phần rỗi, sẽ không phải là tránh tội này tội tọ, nhưng là hãy có những lối sống đạo đức. Chúa Giêsu đã truyền dạy một cách rõ ràng về một số lối sống đạo đức, mà Người cho là cần cho phần rỗi.
Hãy tạ ơn Chúa vì đã ban cho Đức Mẹ ơn được lên trời cả hồn lẫn xác.
Hoặc : hãy xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta cũng được theo Mẹ lên trời.
Hoặc : Hãy nhớ lại muôn vàn ơn Đức Mẹ đã ban cho ta, hiện nay và từ trước, để ta biết đi vào đúng đường lên trời.
Trong những tiếng gọi khác nhau, tôi thấy có tiếng gọi tôi cho là khẩn cấp. Tiếng gọi đó được diễn tả trong lời sau đây của thánh Phaolô : “Các con hãy biết run sợ lo sao cho mình được cứu độ” ( Pl 2, 12).
Được cứu độ là việc không dễ dàng. Vì thế, nếu chúng ta “biết run sợ lo cho mình” được cứu độ, thì thái độ của chúng ta là rất đúng. Bởi vì Chúa Giêsu khẳng định : “Được mọi sự thế gian, mà phải mất linh hồn mình, thì nào có lợi gì “ ( Lc 9, 25).
Trong niềm tin đó, và với sự run sợ lo cho phần rỗi của mình, tôi xin chia sẻ mấy thực tế, mà tôi thiết nghĩ là rất cần cho phần rỗi.
Những thực tế mà tôi coi là cần cho phần rỗi, sẽ không phải là tránh tội này tội tọ, nhưng là hãy có những lối sống đạo đức. Chúa Giêsu đã truyền dạy một cách rõ ràng về một số lối sống đạo đức, mà Người cho là cần cho phần rỗi.
1/ Sống tu thân
Chúa Giêsu dạy : “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13- 14)
Với lời cảnh báo trên, Chúa Giêsu đã đề cập đến vấn đề tu thân. Tu thân là sống theo cửa hẹp. Cửa hẹp là những kỷ luật trong thái độ sống, trong cách suy nghĩ, trong cách dùng thời giờ, của cải, sức khỏe và những phương tiện xác hồn, nhất là trong sự vâng lời và trong xét đoán.
Tu thân như thế là một bổn phận đối với mọi người.
Riêng đối với những ai muốn trở thành môn đệ Chúa, thì tu thân phải đi xa, đi sâu hơn nữa. Chúa Giêsu phán : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình theo” ( Mt 16, 24).
Trong một thế giới hưởng thụ, tu thân là một nét đẹp của nền giáo dục.
Đi vào đường hẹp, chính là đi vào đường phát triển con người, vừa theo hướng đi lên với Chúa, vừa theo hướng gặp gỡ con người.
Nó là một nghệ thuật để giới thiệu các giá trị đạo đức.
Nó khẳng định một nền đạo đức sâu sắc đi đôi với việc được sai vào đời, để loan báo Tin Mừng.
Nhất là nó phản ánh phần nào Đức Kitô thành Nadarét. Người đã sống hoàn toàn tự do, nhưng khi lựa chọn đường hẹp tu thân, Người đã cho thấy đường hẹp tu thân là cách mở rộng chân trời cứu độ.
Chúa Giêsu dạy : “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13- 14)
Với lời cảnh báo trên, Chúa Giêsu đã đề cập đến vấn đề tu thân. Tu thân là sống theo cửa hẹp. Cửa hẹp là những kỷ luật trong thái độ sống, trong cách suy nghĩ, trong cách dùng thời giờ, của cải, sức khỏe và những phương tiện xác hồn, nhất là trong sự vâng lời và trong xét đoán.
Tu thân như thế là một bổn phận đối với mọi người.
Riêng đối với những ai muốn trở thành môn đệ Chúa, thì tu thân phải đi xa, đi sâu hơn nữa. Chúa Giêsu phán : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình theo” ( Mt 16, 24).
Trong một thế giới hưởng thụ, tu thân là một nét đẹp của nền giáo dục.
Đi vào đường hẹp, chính là đi vào đường phát triển con người, vừa theo hướng đi lên với Chúa, vừa theo hướng gặp gỡ con người.
Nó là một nghệ thuật để giới thiệu các giá trị đạo đức.
Nó khẳng định một nền đạo đức sâu sắc đi đôi với việc được sai vào đời, để loan báo Tin Mừng.
Nhất là nó phản ánh phần nào Đức Kitô thành Nadarét. Người đã sống hoàn toàn tự do, nhưng khi lựa chọn đường hẹp tu thân, Người đã cho thấy đường hẹp tu thân là cách mở rộng chân trời cứu độ.
2. Sống thực thi ý Chúa.
Chúa Giêsu phán : “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi”
“ Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng : “ Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ : Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
“ Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá…Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát “ ( Mt 7, 21-26).
Những lời Chúa phán trên đây dạy ta hai điều :
Một là thực hành lời Chúa mới có giá trị, chứ không phải chỉ học hiểu lời Chúa suông đủ.
Hai là khi thực hành lời Chúa, thì phải để ý thi hành đúng ý Chúa. Đúng ý Chúa là làm đúng việc, đúng cách, đúng lúc, đúng tâm tình Chúa muốn có và đúng ý hướng trong sạch trước mặt Chúa.
Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ từng giai đoạn. Ba mươi năm ỏ Nadarét thì Người âm thầm. Ba năm đi đây đi đó thì Người công khai làm phép lạ và rao giảng. Tuần lễ cuối đời thì Người tự ý nộp mình chịu mọi đau đớn, nhục nhã.
Đức Mẹ hầu suốt đời nâng đỡ Con mình một cách lặng lẽ.
Như vậy, thực hành đúng ý Chúa đòi phải gắn bó mật thiết với Chúa, để có thể biết được ý Chúa và co sức thực thi ý Chúa.
Thực tế cho chúng ta thấy rằng : Thực hành đúng ý Chúa không phải chỉ do thiện chí của ta, mà ta cũng phải biết rõ việc ta được sai đi. Ai sai ta ? Sai đến nơi đâu ? Phải đến lúc nào? Nên làm gì ở đó ? Chỉ hiểu sơ thế thôi, cũng thấy việc thực thi ý Chúa là việc không dễ dàng. Nhất là thời nay đang xuất hiện nhiều loại thông tin, đúng có sai có; thêm vào đó là nhiều loại ý kiến, tốt có xấu có, nguy hiểm nhất là phát sinh nhiều thứ áp lực, trong ta và ngoài ta. Ai không có bản lãnh và tiêu chuẩn đạo đức vững, sẽ dễ bị choáng váng chao đảo, lạc vào những nẻo đường đưa tới tuyệt vọng.
Chúa Giêsu phán : “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi”
“ Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng : “ Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ : Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
“ Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá…Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát “ ( Mt 7, 21-26).
Những lời Chúa phán trên đây dạy ta hai điều :
Một là thực hành lời Chúa mới có giá trị, chứ không phải chỉ học hiểu lời Chúa suông đủ.
Hai là khi thực hành lời Chúa, thì phải để ý thi hành đúng ý Chúa. Đúng ý Chúa là làm đúng việc, đúng cách, đúng lúc, đúng tâm tình Chúa muốn có và đúng ý hướng trong sạch trước mặt Chúa.
Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ từng giai đoạn. Ba mươi năm ỏ Nadarét thì Người âm thầm. Ba năm đi đây đi đó thì Người công khai làm phép lạ và rao giảng. Tuần lễ cuối đời thì Người tự ý nộp mình chịu mọi đau đớn, nhục nhã.
Đức Mẹ hầu suốt đời nâng đỡ Con mình một cách lặng lẽ.
Như vậy, thực hành đúng ý Chúa đòi phải gắn bó mật thiết với Chúa, để có thể biết được ý Chúa và co sức thực thi ý Chúa.
Thực tế cho chúng ta thấy rằng : Thực hành đúng ý Chúa không phải chỉ do thiện chí của ta, mà ta cũng phải biết rõ việc ta được sai đi. Ai sai ta ? Sai đến nơi đâu ? Phải đến lúc nào? Nên làm gì ở đó ? Chỉ hiểu sơ thế thôi, cũng thấy việc thực thi ý Chúa là việc không dễ dàng. Nhất là thời nay đang xuất hiện nhiều loại thông tin, đúng có sai có; thêm vào đó là nhiều loại ý kiến, tốt có xấu có, nguy hiểm nhất là phát sinh nhiều thứ áp lực, trong ta và ngoài ta. Ai không có bản lãnh và tiêu chuẩn đạo đức vững, sẽ dễ bị choáng váng chao đảo, lạc vào những nẻo đường đưa tới tuyệt vọng.
3/ Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Cách sống theo Đức Giêsu Kitô trước hết là tin Đức Giêsu là chân lý. Người phán : “ Chính Thầy là đường đi, là chân lý và là sự sống” ( Ga 14, 6). Tin vào Người như thế là tin Người chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, nói tắt là Đức Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa.
Vì thế, ta tin mọi điều Người truyền dạy là chân lý cứu độ : “Anh em hãy tin vào Thầy : Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy…Thật, Thầy bảo thật các anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm” ( Ga 14, 11-12)
Từ đó, tin vào Đức Giêsu Kitô là giữ lời Người và yêu mến Người : “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” ( Ga 14, 21)
Chúa Giêsu còn đưa người đó tới Chúa Cha “ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” ( Ga 14, 23).
Khi niềm tin đó đi sâu hơn nữa, người ta được mời gọi gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu như cành với cây. Chúa phán : “ Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5).
Như vậy, tin Chúa Giêsu là giữ lời Người, là yêu mến Người, là gắn bó mật thiết với Người. Niềm tin đó đặt Chúa Giêsu là nền tảng. Ta tin và thực hành điều gì, là vì Chúa Giêsu đã dạy. niềm tin này sẽ cứu ta khỏi những hoang mang thắc mắc, do áp lực dư luận, các nền văn hoá và các phong trào thế tục đặt ra. Nó cũng cứu ta khỏi những hoang tưởng kiêu căng.
Chúng ta vừa điểm qua ba lối sống :
-Sống tu thần
-Sống thực thi ý Chúa.
-Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Ba lối sống này là những gì Chúa đã nhấn mạnh. Ai giữ ba lối sống đó sẽ cộng tác với ơn Chúa ban cho mình để được cứu rỗi.
Cách sống theo Đức Giêsu Kitô trước hết là tin Đức Giêsu là chân lý. Người phán : “ Chính Thầy là đường đi, là chân lý và là sự sống” ( Ga 14, 6). Tin vào Người như thế là tin Người chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, nói tắt là Đức Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa.
Vì thế, ta tin mọi điều Người truyền dạy là chân lý cứu độ : “Anh em hãy tin vào Thầy : Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy…Thật, Thầy bảo thật các anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm” ( Ga 14, 11-12)
Từ đó, tin vào Đức Giêsu Kitô là giữ lời Người và yêu mến Người : “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” ( Ga 14, 21)
Chúa Giêsu còn đưa người đó tới Chúa Cha “ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” ( Ga 14, 23).
Khi niềm tin đó đi sâu hơn nữa, người ta được mời gọi gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu như cành với cây. Chúa phán : “ Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5).
Như vậy, tin Chúa Giêsu là giữ lời Người, là yêu mến Người, là gắn bó mật thiết với Người. Niềm tin đó đặt Chúa Giêsu là nền tảng. Ta tin và thực hành điều gì, là vì Chúa Giêsu đã dạy. niềm tin này sẽ cứu ta khỏi những hoang mang thắc mắc, do áp lực dư luận, các nền văn hoá và các phong trào thế tục đặt ra. Nó cũng cứu ta khỏi những hoang tưởng kiêu căng.
Chúng ta vừa điểm qua ba lối sống :
-Sống tu thần
-Sống thực thi ý Chúa.
-Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Ba lối sống này là những gì Chúa đã nhấn mạnh. Ai giữ ba lối sống đó sẽ cộng tác với ơn Chúa ban cho mình để được cứu rỗi.
Ta có ý thức về ba lối sống đó không ? Ta có thường ngày giữ ba lối sống đó một cách nghiêm túc không ?
Khi xét minh để trả lời những câu hỏi đó, chúng ta có thể lo sợ. Nhưng chính sự lo sợ ấy sẽ giúp chúng ta khiêm nhường, để sửa mình. Như thế, chúng ta sẽ đáp lại tiếng gọi của Chúa, của Đức Mẹ và của Hội Thánh một cách chân thành. Thiết tưởng đó là một chuẩn bị tốt để mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.
ĐGM GB. Bùi Tuần
Khi xét minh để trả lời những câu hỏi đó, chúng ta có thể lo sợ. Nhưng chính sự lo sợ ấy sẽ giúp chúng ta khiêm nhường, để sửa mình. Như thế, chúng ta sẽ đáp lại tiếng gọi của Chúa, của Đức Mẹ và của Hội Thánh một cách chân thành. Thiết tưởng đó là một chuẩn bị tốt để mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.
ĐGM GB. Bùi Tuần
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”.
Bạn thân mến,
Hôm nay là lễ Đức Mẹ Maria Hồn Xác lên trời, là một dịp lớn lao để mỗi người trong chúng ta suy niệm đến những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ Maria, Mẹ là người giáo hữu ưu việt của Giáo Hội và là người được chọn để trở thành Đấng cầu bàu cho nhân loại.
1. Người giáo hữu ưu việt.
Đức Mẹ Maria là một giáo hữu ưu việt, ưu việt bởi vì chính Mẹ đã khiêm tốn trước một sự việc trọng đại xảy đến cho mình và cho nhân loại, đó là mang thai Đấng cứu thế; ưu việt là bởi vì Mẹ đã biết nghe và suy niệm trong lòng lời của Thiên Chúa.
Chính hai việc ấy: khiêm tốn và thực hành lời của Chúa đã làm cho Mẹ được vinh quang trên nước thiên đàng cũng như ở trên mặt đất, bởi vì Mẹ không coi việc cưu mang Đấng cứu thế là một vinh quang cho mình, nhưng sự khiêm tốn mới làm rạng danh Thiên Chúa nơi con người của Mẹ; Mẹ đã không coi việc báo tin vui Đấng muôn dân trông đợi đã giáng trần trong cung lòng Mẹ là một việc phải làm, nhưng nghe và suy niệm lời của Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ mới là điều đáng làm hơn. Đó chính là hai nét nhân đức căn bản mà người Ki-tô hữu phải có để được trở thành người giáo hữu, biết noi gương và tiếp nối cuộc sống của Mẹ ở trần gian này.
2. Đấng cầu bàu
Được Thiên Chúa chúc lành ngay khi còn ở trần gian trong bụng mẹ, Đức Mẹ Maria cũng đã được Thiên Chúa cất nhắc lên tận trời cao để làm nữ vương trên trời dưới đất, với địa vị ấy và với uy quyền ấy, Mẹ đã trở thành Đấng cầu bàu cho Giáo Hội và cho những ai chạy đến cùng Mẹ.
Không ai có thần thế trước mặt Thiên Chúa như Đức Mẹ Maria, bởi vì ngay khi còn ở trần gian này Mẹ đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa, vì thế khi Mẹ được cất nhắc lên trời cả hồn lẫn xác, thì chính đó là một cách tôn vinh của Thiên Chúa dành cho những ai khi còn sống ở trần gian này đã yêu mến và thực hành lời của Chúa…
Là Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ của Hội Thánh và là Mẹ của nhân loại, nên việc Thiên Chúa đem Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác là chính đáng và rất xứng đáng, và càng chính đáng và xứng đáng hơn nữa khi Thiên Chúa đặt Mẹ làm đấng cầu bàu cho nhân loại. Chúng ta phải biết lợi dụng hồng ân cao quý này nơi Mẹ Maria, để xin Mẹ luôn gìn giữ và che chở chúng ta khỏi mọi mưu mô của ác thần (Kh 12, 3-4).
Bạn thân mến,
Mừng kính lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, bạn và tôi không những chỉ cao rao tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua nơi con người của Mẹ, mà chúng ta cũng cần phải học hỏi các nhân đức của Mẹ ngay trong cuộc sống của chính bạn và tôi, như Mẹ đã yêu mến và thực hành lời của Thiên Chúa vậy.
Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là chúng ta xác tín lại niềm tin của chúng ta vào Chúa Giê-su: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Chúng ta giữ đạo, chúng ta sống lành thánh, chúng ta sống bác ái yêu thương tha nhân là để đạt được mục đích tối hậu của mình: lên trời hưởng nhan thánh Chúa và Mẹ Maria. Do đó sẽ trở thành huyền thoại khi chúng ta chỉ đứng chiêm ngưỡng đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Me mà thôi, chứ không suy niệm cuộc đời tận hiến của Mẹ, và những đức hạnh trỗi vượt mà Mẹ đã thực hành với tất cả lòng khiêm nhường và mến yêu.
Xin Đức Mẹ Maria luôn cầu bàu cho chúng ta, khi còn ở đời này biết yêu mến những sự trên trời, để sống như đang sống với Mẹ trên trời vậy.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.