Hôm nay ngày khánh nhật
truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang
vọng tới hôm nay: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin
Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi
tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có
nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền
giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa
chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn
đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì
thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau,
không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo
đạo.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
SUY NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Lời
Chúa: Is 2,1-5; 1Tm 2,1-8; Mt 28,16-20
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - A
Lời
Chúa: Xh 22,20-26; 1Tx 1,5c-10; Mt 22,34-40
-----------------------------------
MỤC LỤC
I. LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh
chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng
của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng
của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng,
qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng
lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã
lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng
50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu
Úc và Châu Phi.
Riêng
tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3%
là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ
dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam
Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta
chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại
TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên
hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên
266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực
tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như
chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng
hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước
lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người
Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu
người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có,
phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất
niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường
các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang
trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày
nay.
Xin
đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở
Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ
sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3
bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y
Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa
13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận
của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố
quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì
thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói
lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ
Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm
tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt
toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ
Thứ III.
Hôm
nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một
sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo
và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu
quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời,
những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân
của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng
trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô
“chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được
mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”.
Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo,
những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm
tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do
đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta
nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin
và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền
thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy
yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi
sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt
thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải
chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh
khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về
Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một
nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền
giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin.
Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà
mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng
nhân” (số 2).
“Mỗi
Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm
nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và
Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho
muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với
Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền
giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời
sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ
vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống
các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con
người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực
tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động,
những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như
những ánh sao trong đêm tối.
Giáo
Hội Việt Nam
chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống,
với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem
Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của
chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng
bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc
Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến
Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
------------------------------------------
2. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà
Mến
Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc.
Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con
người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu
Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau
đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp
một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu
nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày
đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản
xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương
con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải
trang làm nông dân để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến
cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm
quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết
hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo
khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý
báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như
vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá
thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống
thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của
mỗi người.
Thế
nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta
từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân
cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ
Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa
trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình
yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ
dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa
trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ
là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong
những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người,
nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi
hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều
người về với Hội Thánh?
Chắc
chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương
cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con
người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu
hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được
người đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi
Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân
ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt
hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo
Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với
đạo yêu thương nầy.
-----------------------------------------------
3. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
(Trích
trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Thế
giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình
yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta
nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công
giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa
để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục
Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng
khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế
qua mọi thời đại.
Hôm
nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn
lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ
nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan
tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần
truyền giáo, khiến thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới,
Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt
qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là
tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo
sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất
với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia
cho mỗi người tùy theo nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không
chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất
cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi
người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu
của từng người.
Chính
đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân
thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó
cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn.
Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương
mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là
một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân
thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng
có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế
nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần
mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người
lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen
ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy
"dĩ hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một
cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ
cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng
dân tộc Việt Nam.
Vì
chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người,
thì người người ky-tô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng
việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý
làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một
đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương
thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ
với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người
tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ
với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là
cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng
nói: "Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ
mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang
nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo
hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống
ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những
xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều
người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo
hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em
lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng
bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế
nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến
Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say
truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với
tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu
chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn
thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người
đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện
xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho
nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu
mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động
cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là
mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
-----------------------------------------------
4. Cách thức truyền giáo
(Trích
trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Hôm
nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn
còn vang vọng tới hôm nay: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời
gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt
huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu
biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng
đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay
trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã
thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn,
người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều
được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy
đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh
Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa
chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã
mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành
nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống
dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để
có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống
của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, "Sống để yêu
thương", và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là "dám chết cho người
mình yêu". Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là
"anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa
và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời
sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về
Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu
và sống đời kytô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành
chứng nhân cho Chúa.
Vì
vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận
chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa,
vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người.
Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới
là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết
trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ
là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong
thông điệp "khánh nhật truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16
đã viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu
không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng
đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn
không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của
kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như
vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi
đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng
cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh
Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên
một với Đức Kytô".
Hôm
nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của
chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín
hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để
nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai
phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người
gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung
quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có
những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.
--------------------------------------------
5. Hãy đi khắp thế gian
Suy
Niệm
"Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin
Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa. Thế giới là quê
hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi
tôi vẫn sống. Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần
loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời
Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ
quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, khả năng chữa bệnh
để xoa dịu nỗi đau của trần gian, khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại
hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình. Họ chẳng bao
giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách
truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản
thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi, sống trung thực, thanh khiết,
sống chung thủy, yêu thương... Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì
đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là
một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô giáo phải góp phần xây dựng một
thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no, nơi nhân phẩm của từng người
được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin
Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên
thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ
bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé. Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong
bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Chị đã đi
khắp thế giới, không phải bằng đôi chân, nhưng bằng lòng ước ao của một trái
tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu
hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý nhưng hãy
bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng
tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen
đến gặp Chúa. Cần tập đến với người khác như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ
Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người
đối diện trước khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc
thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người
theo đạo, thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến
sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của
chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ,
bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo
này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội
Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh
không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một
Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn
gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con
trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ
là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ
đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của
thánh Têrêxa)
--------------------------------------------------
6. Suy niệm của Lm Hoàng Kim Toan
ĐỨC
MARIA, MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO
Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao Chúa Nhật Truyền
Giáo lại được nhắc trong tháng Mân Côi, tháng dâng kính Đức Mẹ, cùng với Đức Mẹ
chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng những tràng chuỗi đơn sơ và thành
kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng. Những dòng suy niệm này trả lời cho
tôi câu hỏi đó.
Những trang Tin Mừng về Đức Maria thật là
phấn khởi cho trần thế chúng ta. Có một người phụ nữ, mang trọn vẹn sứ điệp Tin
Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế. Nhân loại vui mừng bởi sự đón nhận
này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Thiên Chúa đã làm
cho Mẹ những kỳ công lớn lao nơi Mẹ và còn làm những điều lớn lao ấy cho nhiều
tâm hồn nhân thế chúng ta.
Sự chuẩn bị một tâm hồn vô tì tích là sự
chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Đức maria những điều lớn
lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt động và làm phát sinh hoa trái
của Người. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự
xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của Chúa Thánh Thần là hoan lạc và bình an.
Mẹ đã mang hoan lạc và bình an của Thiên Chúa cắm rễ vào trong trái đất. Maria,
công trình tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần, nhân thế có một con người được Chúa
Thánh Thần chuẩn bị cho sự toàn vẹn để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên
Chúa vào trong lòng nhân thế, lịch sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về
niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong sự cưu
mang này. Đức Maria trở nên người diễm phúc là nhờ sự chuẩn bị của Chúa Thánh
Thần, Chúa Thánh Thần có thể làm cho con người tội nhân của Eva cũ, xuất hiện
một Eva mới vô tì tích, trong trắng đẹp lòng trước mặt Thiên Chúa. Maria, công
trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho nhân loại.
Maria, là người Mẹ truyền giáo đúng nghĩa
nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ công của Chúa Thánh Thần hoạt động
trên trái đất này. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa cho thế gian và đưa Con Thiên
Chúa vào trong thế gian và đó là Tin Mừng đúng nghĩa nhất cho trần thế. Từ nay,
nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin
cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con
của nhân loại, một người Con của Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm
vui cho nhân thế.
Người loan báo Tin Mừng là người được Chúa
Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời của họ. “Đức Maria lên đường
vội vã” (Lc 1, 39). Sự vội vã của con người mang niềm vui khôn tả, thúc đẩy mau
mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi
bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc,
công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” ”.
(Is 52, 7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi,
không thể không vui và niềm vui chất ngất, thúc đẩy lên đường loan báo tin vui.
Nếu trong lòng tôi và trong lòng bạn mang niềm vui ngập tràn như thế tôi và bạn
cũng sẽ vội vã lên đường loan báo. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng
đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh
Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan
báo.
Không chỉ là loan báo mà thôi, Đức maria còn
là người công bố Tin Mừng. Người công bố là người đã xác tín một cách chắc chắn
về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đức Maria đã nghiệm thấy như thế trong
cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người
thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện
trong cuộc đời mình, người loan báo sẽ đi xa hơn nữa để, công bố Tin Mừng Thiên
Chúa đã làm cho mình. Sự công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy.
Sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng
như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân hơn thày dạy. Đức Maria nhận ra
bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nên Mẹ là
người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Niềm xác tín của Đức Maria mang một chiều
kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc
3, 51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình,
là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn, thử thách. Đức Maria trở thành
người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực
hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ. Sự chiêm ngắm, đối thoại dẫn đến một xác tín
riêng tư chắc chắn để đi đến một công bố cho muôn người. Con đường cầu nguyện của
Đức maria đã đi qua là con đường mời gọi những người truyền giáo hôm nay thực
hiện.
Truyền giáo không là công cuộc cày xới những
mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải đạo cho những người khác niềm tin.
Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là đem chính Đức Giêsu cho nhân loại.
Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không? trước khi là niềm vui công bố cho người
chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín này chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức
Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập
niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong
lòng Mẹ. Đức Maria không mang niềm vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi
hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Niềm vui của
Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái thương, ngày nào không là ngày Thiên Chúa
đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta lại quên mất cảm nghiệm thực sự điều này,
để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi thành viên chúng ta cứ hoài dang dở. Đức Maria
đã mang chính Đức Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu
rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Dù là người loan báo, dù là người công bố Tin
Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa
Thánh Thần. Không thể tách rời Đức Maria khỏi hoạt động của Chúa Thánh Thần,
Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần. Dù Đức Maria có được như
thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ
hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 48). Người truyền giáo cũng thế,
không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh
phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là
tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo
đường khác nhau, để quy tụ cho Thiên Chúa một Dân được hiến thánh. Chúng ta là
những dụng cụ Thiên Chúa dùng, và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn tay của Thiên
Chúa.
Không có công trình nào là thua mất cả với
ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi gặp những người cứng cỏi quá sức,
hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo giống chỉ biết chờ đợi cho hạt
giống nảy mầm. Đức Maria đã thấy nghiệm điều này trong cuộc đời của Mẹ: “Chúa
biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Chúng ta
cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc lên, sự chờ đợi là một bài học cuối
kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng ta học nơi Đức Maria.
Kính dâng Mẹ những suy nghĩ này, bởi hơn ai
hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ vụ truyền giáo.
---------------------------------------------
7. Hãy loan báo Tin Mừng
Một
đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi
nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa
thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta
có thể phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc
đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối
lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là
cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai
trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và
bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em
mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có
nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn
điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng
đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người
xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng
ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ,
thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường.
Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi.
Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát
không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong
căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc
chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất
là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không
thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn
dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau
chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ
tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã
cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến
thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới
thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm
cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông.
Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì
ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép
kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như
thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng
lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng
sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi
người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô
nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai
người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người
nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được
chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây
trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông
và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà
dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều
giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên
thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng
thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn
Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang.
Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công
của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối
vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm
tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một
ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết
khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là
anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối
Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt
Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa truyền.
Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền
giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì
bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem
ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi
người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
-----------------------------------------
8. Chứng tá
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây
là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin
Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công
đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội
truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo
công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm
vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi
tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là
trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông
đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong
việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời.
Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông
dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu
đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng,
nhà máy, công trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn
bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng
ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có
mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi
đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò
chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu
quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống
thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì
không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời
sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu
trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta
hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản
xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ
và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà
truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có
một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ
Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói
suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng
chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với
Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến
Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia
sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có
người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất
nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y
tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya,
tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị
trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu
không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy.
Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những
lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng
và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều
người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo
đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay
với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta
sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta
chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người
bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các giám mục
Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền
giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời
cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời
nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất
yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu
thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa
phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy
là nếu anh em thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay
nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc
nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc
cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
-----------------------------------------
9. Truyền giáo
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng
truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”. Câu nói trên
rất đúng và cũng rất hay.
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng
truyền giáo”. Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la,
mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và đạo Chúa đã được thiết lập
cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe biết Tin Mừng, hay nói ngược
lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết Chúa Kitô. Với đà gia tăng dân
số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày tin theo Chúa sẽ trở thành
thiểu số đáng ngại.
Các nước được mệnh danh là “Công giáo” như
Tây Ban Nha, Pháp, Ý… có tới 70-80 phần trăm dân số được rửa tội, nhưng được
mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế kỷ rồi, ngay giữa Âu Châu
đã vang lên những lời cảnh tỉnh: “Nước Pháp, xứ truyền giáo”. Nước Pháp mà còn
gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ truyền giáo chính hiệu như ở Á
Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì thế giới là Trung Quốc và An
độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo. Nếu đất nước chúng ta đã thấm
nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công giáo tương đối đông đảo, thì sát
cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia kể như vẫn chưa được rao giảng
Tin Mừng.
Ngay tại Việt Nam chúng ta, tính đến ngày
31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số
dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Việt Nam vẫn còn là
xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luôn là vấn đề cấp bách. Chính vì sự
cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo, nhất là trong
những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các Đức Giáo
Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đó, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa Nhật để cầu
cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy sinh,
đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc cao quý vĩ đại
ấy.
Truyền giáo là bổn phận của mọi người và mỗi
người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một việc làm tùy
sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt
buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn cho
mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già, từ một bệnh
nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một người nội
trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức… trong mỗi hoàn cảnh sinh
sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức truyền
giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, “Mỗi người ở trong Chúa là một nhà
truyền giáo”, câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng ta phải là một nhà truyền
giáo.
Đành rằng không phải ai cũng có thời giờ hoặc
khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất cả mọi người đều có thể
và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo;
đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt tiêu xài một chút trong
gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo, nhưng trên
hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là cách truyền giáo tốt nhất
và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống
đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi
người.
Cách đây ít năm, có một cuốn Phim Việt Nam
gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim “Chuyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn
Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và trình chiếu trong chương trình có
tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này, một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo
diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để truyền giáo cho
dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các
Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”. Lời phát biểu trên
đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn, sống
trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa, sống trong một xã hội còn
nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải
sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại,
tóm lại là sống tình người. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống
dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi
Kitô hữu.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu
không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này
có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho một số thành phần
trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận của mọi người và
mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu
không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho họ là đừng
mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại
bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là
sống tử tế với mọi người.
Sống tử tế là sống vui tươi, sống lạc quan,
sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người,
sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước
Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.
-----------------------------------------
10. Đời sống chứng nhân
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta
cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền
bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo
giáo, Tin Mừng, Phúc âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là
loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp,
nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng
đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong
muốn. Nói khác đi, truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa
phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một
đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số
giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa
là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay
đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa
trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của
Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa
sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố,
tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra
đi truyền giáo cho những người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của
việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết
Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là
truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ
phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết
và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những
người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững
chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan
trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ
có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những người chưa biết
được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những người
Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một
đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm
lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như
vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của
riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng
được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải
coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm
của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất
nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi
hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc
truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền
giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời
Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo,
chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo
Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh
Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành
việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không
thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính
đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu
nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo
đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.
Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung
lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay
có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
-----------------------------------------
11. Hãy thả lưới bên phải thuyền
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà
không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa.
Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể
mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần
ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc
ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí
phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả
thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những
bài học về việc truyền giáo.
Bài
học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải
lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm
giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh
đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi,
không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ
ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không
nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết
việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những
thử thách.
Bài
học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì
việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui
thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp
thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc
trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng,
lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên
trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi
theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc
truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền
giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng
truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài
học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân.
Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự
thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh
nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần
Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng
mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo
gương mẫu. Thánh hóa bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành
công.
Bài
học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì
truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực
phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp.
Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt
đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức
riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra
khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ
khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa
Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế,
các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ
biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng
nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền
giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị
lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo.
Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường
truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết
làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường
truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc
truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo.
Amen.
-----------------------------------------
12. Thầy Ở Cùng Anh Em
Suy
Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh và cũng là một
ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành
môn đệ."
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng,
nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa
là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và con
người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới,
nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong
mảnh đất Israel,
nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở
thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
"Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Phép Rửa khiến người ta trở thành
môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều
Thầy truyền cho anh em", như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều
có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
"Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một
điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở
cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng
(Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta
thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin
Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ
thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình
an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả
lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh
sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay
mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên
niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền
giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người
hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe
con người.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo
Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã
đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt
Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã
muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa
vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập
giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc
hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong
sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm
một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con
biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con
biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
-----------------------------------------
13. Truyền giáo
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm
Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức công
bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của
Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc
chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài
Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến
nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên
đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ
trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của
bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng.
Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn
bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất
thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một
quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ nghĩa
Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa,
tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần
đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ
sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo
hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc
biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ
đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như
xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá
khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo
Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp
mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn
thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan
nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ
đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến
tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức
độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất
cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn
giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề "Con Đường Đơn
Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết
như sau: "Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi
người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn
luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo
tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một
người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn." Lễ quốc táng mà
chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang
đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ
Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng
ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu
nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo
Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân
loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý
thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của
việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà
truyền giáo: "Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một
ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ
Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những
lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu
bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu
đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu
mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo
lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà
Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho chúng
ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số
thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để cho
mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó
là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất
của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu
lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.
II. CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN
1. Mến Chúa và yêu người
Nhóm Sađốc chất vấn
Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái
muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa:
Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613
điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có
những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội,
còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh
luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.
Trước vấn nạn được
đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến
Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan
trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa
đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc
trong những lời giảng của Người.
Lời xác quyết của
Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng
hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong
Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là
giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính
mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực
hiện trong cuộc sống trần gian.
Nên thánh không phải
là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh
cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng
nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay
đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy
sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt
yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ
rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song
chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của
sự thánh thiện.
Vì thế, sự
thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ
bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người,
thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói:
Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.
Rất tiếc có những
người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì
không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc
mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi.
Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi
việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình
yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống
chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước
mặt Thiên Chúa.
-----------------------------------------
2. Mến Chúa
Có một chứng bệnh
mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn.
Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế
nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm
trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi
của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết
đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập.
Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời
dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một
thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và
xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng
ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu
người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất
là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như
giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây
không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu
người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người
thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy
ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người
đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con
người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa:
Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi
thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia
Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một
Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy
dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó
trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng
trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa
giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ
thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh
thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có
tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình
thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như
khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên
Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình
người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình
mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn
bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von
Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho
rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời
trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ
sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học
nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn
đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về
cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt
vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi
giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi.
Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng
ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên
cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác?
Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu
thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị
vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa
vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa
vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
-----------------------------------------
3. Trò chơi hòa bình
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga,
đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6
lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
- Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì
thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các
em đến, ông ôn tồn giải thích:
- Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau
mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu
hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
- Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình
một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào
nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười
tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa
kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:
- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng
cháu không biết.
Thưa anh chị em, làm
sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm
sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi
cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi
trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh
khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường như thế giới
ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo
động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn
năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:
- Mục sư Luther
King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng
hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.
- Đức Giám Mục
Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.
- Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng
khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn
hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm
gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu
của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật
của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật
trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả
trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không
đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái
cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như
chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã
giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều
cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật
chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp
luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình
thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy
được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong
thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu
người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng
ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng
đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng
dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc
gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến
Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là
bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha
nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải
qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta
đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái
tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha
nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa
chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong
Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó
là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai
nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong
Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ,
đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực
đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi
tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh
hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong
đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần
mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô
hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết
vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại
yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường
lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi
hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một
tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.
-----------------------------------------
4. Luật yêu mến – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Người Do Thái có quá
nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi
điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một
câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU
MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn,
hết trí khôn. Nghĩa là yêu
mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp
lý.
Vì Chúa đáng yêu
đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn
thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống
ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài
là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là
Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do
ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa
là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà
còn là bổn phận nữa.
2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói
cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do
sau:
Yêu Chúa và yêu
người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không
có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình
yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình yêu đối với tha
nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu
ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi
Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai
yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân
trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta
rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt
25-40).
Tất cả mọi điều răn
khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những
ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan
hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng
mai sau.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa hết
tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải
yêu tha nhân?
3) Bạn có cảm nghiệm
được niềm vui khi ta yêu thương không?
4) Bạn nghĩ thế nào
về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.
-----------------------------------------
5. Giới răn tối thượng – Lm Trần Ngà
Người Do Thái ngày
xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân
giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng
luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi
người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà
một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê,
điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp:
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn
điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình."
1. Giới răn yêu thương, tuy hai
mà một
Nhiều người vẫn
tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt,
nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều
răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới
răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi
những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ
những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói:
"điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi,
hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về
"cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với
giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ
một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách
rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người
mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua
đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những
người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc
phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ
từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long
trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung
quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới
răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai)
cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể
là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín
hữu Rôma, thánh Phaolô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều
răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều
răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
2. Giới răn yêu thương là trung
tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là
trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai
giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết
mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn
tất cả các điều răn khác.
Thánh Phaolô khẳng
định như thế trong thư gửi tín hữu Rôma: "Thật thế, các điều răn như:
Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không
được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người
đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua
trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Môsê và các
sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi
quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với
nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh
đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy
người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc
toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì
chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm
nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã
thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y
ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên
Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa
cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu
thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn
độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn chinh phục toàn
quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề
luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn
Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).
-----------------------------------------
6. Tại sao Thiên Chúa làm người – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Vào thời Chúa Giêsu
có 2 phong trào đối địch cố gắng nắm lấy uy thế lãnh đạo dân Do thái, đó là
phái sa-đốc và biệt phái. Những người sa-đốc đã bị Thày chí thánh khóa miệng,
đến lượt những người Biệt phái tìm cách gây khó cho Ngài; nếu thành công họ sẽ
được hai cái lợi: qua mặt người sa-đốc và tiêu hủy uy tín của Chúa Giêsu. Họ
hội họp nhau trong ý định ấy và thỏa thuận gởi một người trong bọn họ, chuyên
gia về Lề luật, đến gặp Chúa Giêsu để hỏi Người về vấn đề tranh luận bất tận
trong giới ký lục và luật sĩ. Thực vậy họ đã mổ xẻ lề luật và đã chia lề luật
làm 613 huấn giới, 365 điều cấm, 48 chỉ thị. Trước một toàn bộ như thế, một số
người Do thái bỏ hết thời giờ xem xét cách sống của mình để sao cho phù hợp với
lề luật, một số thì chịu. Do đó một số mới tự hào xem mình là công chính và một
số khác sinh lo âu thấy mình là kẻ phạm luật. Cả 2 đều không biết đến sự tự do
tinh thần của tình yêu. Vì thế hiểu được có nhu cầu tổng hợp và đơn giản hóa lề
luật. Các người Biệt phái chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề tế nhị này. Ngài tổng
hợp ra sao, Ngài đơn giản theo nguyên tắc nào? Câu trả lời của Chúa Giêsu không
muốn mới mẻ và đề ra cái độc đáo. Chỉ có thể nằm trong đường hướng nguyên thủy
của một bản luật do Thiên Chúa ban truyền. Câu trả lời chỉ nhắc lại. Thái độ vụ
luật tỉ mỉ chi li của người Biệt phái hay khiến họ quên điều chính yếu của lề
luật: do Thiên Chúa ban truyền. Luật thánh nhằm nối kết con người với Thiên
Chúa. Chúa Giêsu nhắc lại ngọn nguồn và ý nghĩa của lề luật là gì. Lề luật nhằm
tạo tương quan yêu thương với Thiên Chúa là Tình thương; bởi đó tình yêu đồng
đều Thiên Chúa ban phát cho mỗi người phải liên kết người ta lại với nhau bằng
một phản ảnh của tình yêu ấy. Giới răn thứ nhất là kính mến Thiên Chúa và giới
răn thứ hai giống như vậy yêu mến người lân cận.
1) Người ta có thể yêu mến Tuyệt đối được
không? Có thể yêu mến Đấng
xưng mình bằng danh “Ta có” không? Thờ phượng Ngài thì được, nhưng yêu mến
Ngài? Thế nhưng tôn giáo Israel
và Kinh thánh không ngừng diễn tả một tác động của tâm hồn phải gọi là tình yêu
mến. Như vậy có nghĩa là mạc khải ban cho dân Thiên Chúa, khác hẳn các tôn giáo
khác. Thông thường các dân chọn và tạo lấy cho mình các huyền thoại, các thần
thánh. Trong trường hợp Israel,
chúng ta thấy chính Thiên Chúa đã chọn lấy một dân, hành động khởi đầu do từ
Thiên Chúa đến và là một hành động yêu mến. Israel được kêu mời yêu mến một
Thiên Chúa không phải trừu tượng xa vời, nhưng là sống động và có mặt điều
khiển lịch sử của dân. Hiểu cho đúng, lề luật đã khơi động tiềm lực của trái
tim. Ta sẽ đặt Luật Ta vào đáy lòng chúng và sẽ viết lên trái tim chúng (Gr
31,33). Phải, người ta có thể yêu mến Tuyệt đối khi Tuyệt đối mang tên Thiên
Chúa Israel.
Do đó Chúa Giêsu quả quyết rằng giới răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa.
2) Nhưng Thiên Chúa Israel đã có mặt và tích
cực hoạt động trong lịch sử một dân tộc và trong tâm hồn các tín hữu, còn muốn hơn nữa, Con Thiên Chúa khi làm
người ước ao được người ta yêu mến bằng tất cả tiềm năng của trái tim loài
người. Yêu mến Đấng “Hằng có” được mạc khải cho Môi-sê là một giai đoạn đáng kể
của quá trình nhân loại vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chưa phải là trình độ
của Phúc âm. Từ Nhập thể Thiên Chúa đã làm người. Ngài có thể làm đối tượng cho
toàn thể tác động thâm sâu bao gồm trí khôn, ý chí, cảm xúc, tóm gọn trong chữ
“yêu mến” và tác động ấy đặt vào một ai có thể đến gần. Con Thiên Chúa đã đích
thân đặt mình vào chỗ khả năng yêu mến của con người có thể tới. Một sự kiện
đầy ý nghĩa. Chúng ta đều biết tầm quan trọng của tên người mà mình yêu trong
khi yêu. Vậy mà Israel
có lề luật tóm tắt trong việc yêu mến đã đánh mất cách đọc chân thật tên Thiên
Chúa mình. Người ta không biết danh hiệu “Giavê” có phù hợp với cách đọc nguyên
thủy của tên Thiên Chúa hay không. Từ Phúc âm thì không còn như thế nữa. Giáo
hội (nghĩa là những người con ưu tú nhất của Giáo Hội) yêu mến Chúa mình là Đức
Kitô đến nỗi sẽ không bao giờ quên Tên mà chỉ đọc lên đã làm vui thỏa các
thánh. Tên cực trọng Giêsu.
-----------------------------------------
7. Khi hai mặt của đồng tiền bằng nhau
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Nếu một cuộc trưng
cầu dân ý được hỏi ý kiến của mọi người xem ai là người đá banh hay nhất trong
mọi thời, hoặc ai là diễn viên giỏi nhất, hoặc ai là nhà soạn nhạc giỏi nhất,
thì sẽ có rất nhiều ý kiến. Vì hôm nay những người đương thời với Chúa Giêsu
đặt ra câu hỏi: điều nào trong lề luật là cao trọng nhất? Điều đó có một câu
trả lời đơn giản hiển nhiên cho bất cứ một ngươi Do thái sốt sắng nào. Dù cho
lề luật của người Do thái rất nhiều những không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu
trả lời: “Các người hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa của các ngươi với hết
tâm hồn, hết trái tim, hết trí khôn ngươi”. Những điều đáng ngạc nhiên là Chúa
Giêsu đã nhấn mạnh thêm: “Các người sẽ yêu mến người láng giềng của các người
như chính mình”. Câu hỏi: “Lề luật nào là cao trọng nhất?” chỉ có một câu trả
lời: Chúa Giêsu đã cho hai câu:
- Câu trả lời đầu
tiên được trích từ sách Đệ Nhị Luật đoạn 6 câu 2
- Câu trả lời thứ
hai từ sách Lêvi đoạn 19 câu 18.
Chúa Giêsu không nói
một điều gì mới. Sự góp phần độc nhất của Người là nối kết hai điều luật, trong
hai sách tách biệt của Thánh Kinh và làm chúng nên một. Sự nhấn mạnh của người
là không thể có tình yêu thật, tình yêu Thiên Chúa thật, nếu không có tình yêu
người láng giềng, tình yêu tha nhân, và không có tình yêu tha nhân nếu không có
tình yêu Thiên Chúa.
Hầu hết mọi người có
ý ngay lành đều thường nghĩ dễ dàng hơn hoặc ít đòi hỏi hơn, để yêu mến Thiên
Chúa thì dễ hơn yêu mến con người. Sau hết chúng ta biết rằng Thiên Chúa là
hoàn hảo. Nếu như chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa không làm đúng bằng chúng
ta, thì những lỗi nằm trong sự thất bại của chúng ta, chúng ta dễ hiễu vì chúng
ta không phải là Thiên Chúa. Không thể nói về sự liên hệ của chúng ta với con
người cách tương tự. Ngay cả những người mà chúng ta yêu mến cũng có thể làm
phiền chúng ta lúc chúng ta đang tìm kiếm một chút bình an và thinh lặng, cản
trở chúng ta khi chúng ta đang nói chuyện, hoặc khi chúng ta đang dò các kênh
của TV, để tìm một chương trình đặc biệt, lời lẽ hùng biện của chính trị có thể
khiến chúng ta chống lại những người mẹ không kết hôn đang phải nhờ vào trợ cấp
an ninh xã hội, hay là những người tự mãn có thể ảnh hưởng chúng ta trong việc
coi rẽ, khinh thường, những người không có việc làm và những người vô gia cư,
và ý kiến chung có thể chuyển chúng ta tới một sự coi thường nền tảng sự sống
con người qua việc phá thai, chết êm dịu, án tử hình.
Nếu tôn giáo của
chúng ta nhấn mạnh không gì hơn là đến nhà thờ cám ơn Chúa vì những đặc ân Ngài
ban và để cầu nguyện xin Ngài trợ giúp, điều đó sẽ hầu như luôn luôn là một sự
thích thú và một kinh nghiệm dễ dàng. Nhưng ngay trong thánh lễ, chúng ta được
kêu gọi để diễn tả tình yêu của chúng ta cho anh em đồng loại thấp kém hơn.
Sau bài giảng chúng
ta cất tiếng nài xin cho những dự định quảng đại được thực hiện. Chúng ta
thường cầu nguyện cho những nhu cầu của Giáo hội, cho nhà cầm quyền, cho sự cứu
độ của thế giới, cho những người bị bất công, bị cướp mất những nhu cầu, cho
cộng đoàn địa phương của chúng ta. Lời cầu nguyện này là một phần hợp pháp
trong sự thờ lạy Thiên Chúa giúp chúng ta làm viên mãn lề luật yêu thương tha
nhân, chúng ta trao cho nhau những dấu chỉ chúc bình an, và điều này thật sự là
một lời cầu nguyện khiến chúng ta có thể hoàn tất sự hợp nhất và bình an với
những người khác mà Chúa Giêsu trong Thánh Thể đã dự định dành cho chúng ta.
Sự cám dỗ là tách
biệt tình yêu Thiên Chúa ra khỏi tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu sẽ không nghe
những lời nguyện ấy. Lề luật yêu mến Thiên Chúa và lề luật yêu mến tha nhân tuy
đã được giới thiệu trong hai sách riêng biệt của Thánh Kinh, nhưng chúng không
được tách riêng trong trái tim của chúng ta, trong hành động của chúng ta.
-----------------------------------------
8. Hàng ngàn giới răn?
Một lần nữa những
người Pharisêu muốn giăng bẫy Chúa Giêsu, kiểm tra giáo lý của Ngài, dồn Ngài
vào chân tường, dẫn Ngài vào trong sự rắc rối của hàng ngàn luật lệ. Người ta
sắp thấy điều Ngài biết, sắp thấy Ngài có dạy dỗ tốt điều cần phải dạy dỗ hay
không.
Chúa Giêsu thoát ra
khỏi cái bẫy với một sự tự do, một sự trong sáng và một sức mạnh sáng tạo làm
cho những người Pharisêu không nói được một lời nào. Ngài trích dẫn hai câu cổ
điển: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa... Ngươi phải yêu thương anh em ngươi...”.
Đây là câu trả lời đơn giản của học trò giỏi, nhưng Ngài rút ra từ đó hai điều
mới lạ.
Điều thứ nhất, Ngài đưa hai điều luật tới gần nhau bằng
cách cho hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể từ giây phút này tình
yêu thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương Thiên Chúa và sẽ không
rời ra nữa.
Điều thứ hai, Ngài làm cho viên ngọc duy nhất nay sáng lên
bằng cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều chúng ta nghĩ và làm: tất
cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những điều phải làm hoặc không
được làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một câu hỏi: tôi có thể yêu
thương như thế nào?
Chúa Giêsu nói tất
cả những gì chứa đựng trong Kinh Thánh, lề luật và các tiên tri, và do đó tất
cả những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, phát xuất từ hai điều răn gắn với
nhau này. Những người chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi Ngài nay bị buộc quay về điều
cốt lõi: “Hãy yêu thương”.
Chúng ta cũng thế,
chúng ta cảm thấy rằng tuân giữ hoàn toàn hai giới răn lớn này là một cách thức
triệt để, nhưng có tính cách bó buộc đến nỗi chúng ta thích đi quanh co ở giữa
hàng ngàn điều qui định. Đàng khác, những qui định này là cần thiết, “yêu
thương” thì quá mơ hồ, phải hun đúc yêu thương bằng những bó buộc khác nhau.
Tôi phải biết rằng tôi thật sự yêu mến Thiên Chúa và anh em của tôi nếu tôi làm
điều này điều kia.
Nhưng thế rồi nổi
lên một nguy cơ muôn đời: làm mất tác dụng sự bó buộc yêu thương bằng việc cứ
nhắm mắt tuân thủ bó buộc đó. Với ít nhiều ý thức chúng ta lý luận theo cách
này: nếu tôi làm tất cả những gì được yêu cầu thì đã yêu thương rồi đó. Không
đâu. Điều đó chưa đúng, bởi vì điểm xuất phát thì xấu. Chúa Giêsu nói với chúng
ta rằng tất cả trước tiên tùy thuộc vào dự kiến triệt để đó là yêu thương.
Chúng ta đừng bao giờ bắt đầu bằng hàng ngàn điều phải làm nhưng là bằng xác
tín mà tất cả đều tuỳ thuộc vào đó: tôi phải yêu thương.
Theo Tin Mừng, bí
mật của cuộc sống là: trước hết phải thực hành yêu thương điều gì đó một cách
hoàn toàn vô điều kiện. Thế rồi ý thức muốn yêu thương này sẽ dần dần hóa thân
vào trong tất cả các biến cố, các cuộc gặp gỡ và các sự tuân phục –nhưng không
đắm chìm vào trong đó. Sẽ là bất hạnh nếu lại rơi vào trong sự âu lo và sự nô
lệ hàng ngàn giới răn, sau khi đã nhận được từ Chúa điều răn ngắn nhất và tự do
nhất trong số các điều răn của cuộc sống: Tôi có yêu thương hay không?
-----------------------------------------
9. Mến Chúa yêu người
Qua đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính
mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ
nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại
Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới
răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa.
Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người
anh em có điều chi bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với
người anh em mình trước đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành
động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực
hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa:
đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi,
không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách
này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến
không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá
cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì
Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn
đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa
Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các
ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi vào
một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi
thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần
phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong
những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình
không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con của
mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào
ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của
mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì
lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và
băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô
Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội
đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý
do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những
anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố,
nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa
khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né…
Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc
làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà
xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh
vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà.
Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia
sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra.
Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc
riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động
thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế,
chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như
thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ
Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong
những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa
lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như
vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin
mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con
biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
-----------------------------------------
10. Yêu thương
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu
đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua
đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt
tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh
thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời
hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có
một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con
mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú,
đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm
được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để
người cha được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ
săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen
thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách
người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau
khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn
thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị
thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết
định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong
đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm
hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một
hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược
trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói
lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi
con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế
giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì
không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người
đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng: “Thiên Chúa
là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng
nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu.
Dựa trên nhu cầu căn bản này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa
Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự
viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là: “Yêu thương kẻ khác như chính mình
ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới
gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha
cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người
chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã
yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng
thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì
con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương
người lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối
thiểu như vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn
quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy
rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó
đi!”
Nhóm Biệt phái, đa
số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng
thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô
chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của
các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn
nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô.
Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp
xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt
Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi
về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một
chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một
biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay
hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi
người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi
đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để
phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng
chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón
chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn
thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và
ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết
rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng
tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học
nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử
thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và
từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao
giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau
khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần
phải có sức mạnh để tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là
tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.
-----------------------------------------
11. Yêu thương
Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail
Van Buren, đã xin đăng trên báo trong mục “Dear Abby” lá thư sau đây gửi cho
chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7 năm 1964. Anh Mort yêu quý, hôm nay là ngày rất
đặc biệt đối với em. Đó là ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn của em, và em có lời
này để ngỏ cùng anh: em đã có một người mẹ và một người cha thực sự yêu thương
nhau, do đó em biết được tình yêu là gì. Em đã làm việc rất chăm chỉ để nhìn
thấy hai người con đang tuổi thanh xuân vượt qua thời niên thiếu đầy gian khổ
một cách an toàn, do đó em biết được sự hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện, và
những lời cầu nguyện của em đã được lắng nghe, do đó em biết được đức tin là
gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một con người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng
kể nhất trên đời, do đó em biết được niềm vui là gì. Em yêu anh”.
Tình yêu hướng về
Thiên Chúa và tha nhân mang lại niềm vui. Một niềm vui không giống như khoái
lạc, hay hạnh phúc. Một con người hư hỏng có thể tìm được khoái lạc trong những
thoả mãn nhục dục. Hoặc một con người tầm thường cũng có những giây phút cảm
thấy hạnh phúc trong đời. Nhưng niềm vui chân thật theo ý nghĩa của Thánh Kinh
nói đến, chỉ phát xuất từ tình yêu biết hy sinh và quên mình vì Thiên Chúa và
tha nhân.
Niềm vui đó cho phép
chúng ta nhìn thế giới từ một viễn tượng đã được thăng hoa và phong phú dưới
ánh sáng của Tin Mừng. Đó chính là biết “mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi
người” và trở nên một “khí cụ bình an của Chúa”. Đó chính là tìm an ủi, tìm
hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân và quên mình như lời Kinh Hoà Bình của thánh
Phanxicô Assisi đã diễn tả.
Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có
bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình lình,
họ gặp một bức tường rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang
dài để leo lên xem cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn
xuống dưới và la lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống.
Anh thứ hai cũng làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh
thứ tư leo lên, chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa
trái muôn nghìn. Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và,
giống như những người khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp
ngưng lại để suy nghĩ đôi chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình.
Sau đó anh đã vội vã leo xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về
một khu vườn đẹp tuyệt trần cho những người khác biết.
Từng người một, ba chàng thanh niên đầu tiên
đã nhìn thấy một vùng đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định
chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp
suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn
nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là
chia sẻ tình yêu đó với những người khác.
Tôi rất thích bản
dịch câu Kinh Thánh trích từ lá thư thứ nhất của thánh Gioan, đoạn 4, câu 7b,
của học giả Thánh Kinh Công giáo, Edgar Bruns: “Phàm ai yêu thương, thì sinh ra
Thiên Chúa”. Câu này được dịch đúng chữ như sau: “Phàm ai yêu thương, thì đã
được Thiên Chúa sinh ra”. Điều thực sự rằng tình yêu Kitô giáo luôn ở trong một
tiến trình để Thiên Chúa được sinh ra, được chia sẻ với hết mọi người và lan
rộng ra khắp nơi trên thế giới.
Thời Giáo Hội sơ
khai, những người không phải Kitô hữu đã để tâm lưu ý đến những người Kitô hữu
bằng cách: “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau là dường nào!” Theo một truyền
thống của Thánh Gioan để lại, lúc đó ngài đã già yếu và bước đi rất khó khăn
đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa nhật. Gioan phải nhờ những người bạn dìu đi. Khi
Thánh lễ kết thúc, họ phải giúp cho Gioan đứng lên ban phép lành cho cộng đoàn
và nói: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”.
Một ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến rằng vị
môn đệ già yếu đó lúc nào cũng nói y như vậy, giống như một cha sở cứ lập đi
lập lại mãi một bài giảng. Nhưng vị trưởng lão Gioan đã trả lời rằng: “Không
còn gì hơn để nói nữa. Đây là lời nói sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương nhau,
đó là tất cả mọi sự. Cuối cùng, người ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là những
người Kitô hữu bằng tình yêu thương của chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin
cho con toả hương thơm của Chúa đến mọi nơi con đi. Xin Chúa tràn ngập tâm hồn
con bằng thần khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa xâm chiếm toàn thân con để con
chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Chúa chiếu sáng qua con, để những người con
tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang sống và hiện diện trong con. Xin cho con biết
rao giảng về Chúa, không bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” (Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa
Calcutta).
-----------------------------------------
12. Yêu thương
Có một bản tin “Phở nóng chiều mưa” của tác
giả Bút Bi. Câu chuyện sư sau: “Tiệm phở A đường Kỳ Đồng” chiều hôm kia mưa như
trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà
men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang lóng ngóng lấy
tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni lông – ra để trả, một trong hai thanh niên
đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông
già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn
đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có
lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già
dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói có. Người thanh niên kia bật
cười, bảo nói chơi đó bác ơi. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô
phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài
câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ
ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người lao
động lam lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác bị
bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông già phải tự chống gậy đi mua phở dù có
con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn
trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút
Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!
Nghe xong câu chuyện
“Phở nóng chiều mưa” trên đây, chúng ta cảm thấy ấp áp lên tình con người. Một
sự quan tâm tế nhị, một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử yêu thương thầm
kín, đã làm cho mối quan hệ giữa người với người thân gần gũi hơn, thông cảm
nhau hơn, và quí mến nhau hơn.
Điều cốt lõi của Kitô giáo
chính là yêu thương.
Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là Mến Chúa, yêu người. Đó là sứ điệp mà Tin
Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình”.
Người Kitô hữu, luôn
mang trên mình cây thập giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh
dọc của cây thập giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên
Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, với trọn vẹn con người. Thanh ngang
của cây thập giá muốn nói với người tín hữu, phải vươn đến với tất cả mọi
người, để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù.
Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là cây thập giá. Nếu có
mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền
luôn có hai mặt, thì người Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn hai giới răn mến
Chúa và yêu người mới đích danh là Kitô hữu.
Có nhiều người nghĩ
rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng
ngày, năng tham dự các bí tích. Và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực ra, Chúa
đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong
điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta
chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa.
Chúng ta chỉ yêu mến
Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi nhuận, để đi
tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống
thiêng liêng.
Chúng ta chỉ yêu mến
Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để
trung thành với Chúa và các giới răn của Người.
Chúng ta chỉ yêu mến
Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm,
trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính mạng.
Mến Chúa đã khó, yêu
người lại càng khó hơn. Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái
nhìn không thân thiện của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét.
Yêu người như Chúa dạy là yêu như chính mình. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái
lại, người ta thường yêu mình quá độ.
Chúng ta chỉ có thể
yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn
thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.
Chúng ta chỉ có thể
yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu,
an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô
thân.
Chúng ta chỉ có thể
yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả
thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.
Mauriac viết: “Ngày
nào bạn không còn thắp sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.
-----------------------------------------
13. Luật trọng đại nhất
Hôm nay Chúa Nhật 30
Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật
quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu
Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì
thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi
mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện,
tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho
con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu.
Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị
trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm
và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng
lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm
trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và
nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con
người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì
lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời
sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do
Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ
cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu
căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật
để tuân giữ.
Nhưng Chúa Giêsu
đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình
yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật
đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật.
Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng:
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết
trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống
như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình
ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn
đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều
đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.
Chúa Giêsu đã dạy
cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại,
đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là
Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương
cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này
không? Có cho phép cái kia không?
Nếu có cấm thì cố
tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở
để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm
cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng
mà thôi".
Thánh Augustinô sau
khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo:
"Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì
chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu
mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác
được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta
cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan
trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng
ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng
ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha
nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người
Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp
nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh
giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một
chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.
Tôi còn nhớ trong
những năm chiến tranh ở Việt Nam,
một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ
và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ
hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày
nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi
ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô
cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức
và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo
kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa
mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".
Vậy khi chúng ta chỉ
mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà
già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài
của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối
với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình
được.
Khi chúng ta yêu mến
Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại
của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn
với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa.
Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu
thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa
thì là sai lầm".
Xin Chúa cho tất cả
chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình
vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời.
-----------------------------------------
14. Hai điều răn
Suy Niệm
Chúng ta thường ngại
xét mình trước khi xưng tội.
Nếu xét mình sơ sài
dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng: không
trộm cắp, không tham lam, không giết người...
Thật ra xét mình
không phải là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và luật buộc,
cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật
tự hỏi: Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị
em tôi không?
Tất cả điều răn được
tóm trong một động từ: yêu.
Tình yêu là cốt lõi
của đời sống Kitô hữu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một
đại dương mênh mông, là dấn thân trên một con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng
bao giờ thấy mình yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước, và mở ra những cánh
cửa không ngờ. Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào
bị hiểu sai cho bằng động từ yêu.
Báo chí phim ảnh làm
cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu. Hành vi chiếm đoạt
theo bản năng lại được gọi là yêu.
Chúng ta cần trả lại
ý nghĩa cao đẹp cho động từ này.
Yêu mến Thiên Chúa
là điều răn số một.
Không phải chỉ dành
cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người
của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn.
Ai trong chúng ta
dám tự hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất? Càng lúc tôi càng thấy Chúa
bị mất chỗ trong tim tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là
ngày tranh thủ làm thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống
thiêng liêng bị sa sút.
Điều răn thứ hai
cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta yêu bản
thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến nỗi lắm khi
làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình. Họ
cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt hại tôi đã gây
cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai điều răn trên
không thể tách rời nhau.
Yêu Thiên Chúa chắc
chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa.
Người Kitô đi từ nhà
thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em. Trong
nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Hai từ "Tình
Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét
gì?
Trong kinh nghiệm
sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối
với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, lúc đầu
chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng
con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn
được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con
biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng
tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa
giang tay trên thập giá giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là
anh em.
-----------------------------------------
15. Điều răn trọng nhất - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo tinh thần
của Đức Giêsu, thì trong hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều răn nào quan
trọng hơn? Phải ưu tiên sống điều răn nào?
2. Tại sao thánh Phaolô
tóm toàn bộ lề luật vào một điều răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn
Lề Luật” (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
3. Nếu bạn là một
người cha đông con, đồng thời là người cha tốt lành không chút vị kỷ, bạn muốn
con cái yêu thương mình bằng cách nào?
Chia sẻ
1. Hai điều răn trọng nhất của
Do Thái giáo và Ki-tô giáo
Người khôn ngoan thì
trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và
điều “bì phu”, điều cần thiết và điều ích lợi, điều quan trọng và điều không
quan trọng. Phân biệt như thế không phải để chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ,
mà để khi không thể làm được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều
chính là yếu tố quyết định thành công, không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất
bại. Còn điều phụ, nếu làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự
thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo
và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng nhất;
nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không thể nên
thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng
hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan trọng nhất
là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt tủy của lề luật: “Tất cả Luật Môsê và các
sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Nếu giữ đạo mà không phân biệt
điều nào chính điều nào phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo “kiểu Pha-ri-siêu” đã
bị Đức Giêsu tố cáo: “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng,
mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng
chân thành” (Mt 23,23); “Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà”
(23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân biệt chính
phụ, thì dễ trở thành “những kẻ dẫn đường mù quáng” (23,16). Do đó, bài Tin
Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi Ki-tô hữu muốn giữ đạo và nên
thánh.
2. Hai điều răn tóm lại thành
một điều răn: “yêu thương”
Cũng trong chiều
hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy,
điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai
giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật ra chỉ là
hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có
một động từ duy nhất là “yêu”, đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối
tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên
thực tế và thực hành thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt.
Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai trang của cùng một
tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều
lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ
thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu
đồng hóa chính Ngài với tha nhân, đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị
khinh thường, áp bức: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho
một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”,
và “mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất
đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”.
Tại sao thế? Vì con
người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà
lại không yêu bức ảnh của người ấy không? Ta thấy những cặp tình nhân, khi
không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con người là con
cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con người đã được Thiên Chúa yêu
thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16).
Và Ngài yêu quí con người đến mức, sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất
của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm
5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên
Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu
thương: “ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh
ra” (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân
bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta
nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa,
và không yêu họ chính là không yêu Ngài. Người Ki-tô hữu có đức tin đích thực
phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày, và yêu
Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi tha
nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên
Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu
thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ
không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu
thương anh em mình” (4,21).
Quả thật, không phải
là phi lý mà thánh Phaolô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào
hai giới răn, mà vào một giới răn duy nhất: “Anh em hãy mang gánh nặng cho
nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2); “Ai yêu người, thì
đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8); “Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình. (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật”
(13,9-10); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình"“ (Gc 2,8). Không những ta phải yêu thương những
người chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu
thương và thúc đẩy nhau sống yêu thương nữa: “Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm
sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt” (Dt
10,24).
3. Thực hiện việc yêu Thiên
Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để dễ hiểu những
điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe mạnh,
không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một đàn con đông
đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn.
Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu thương. Người
cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách giáo dục để chúng có
nhiều tình thương hơn, vì một khi chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự
nhiên hạnh phúc sẽ đến với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con?
Chắc chắn là mong chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho mình của
này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút,
đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối
với những anh em ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần
được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha
ấy có hài lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp
lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự
thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều ta
mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho
nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương
của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất.
Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới
là những đứa con hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em
chúng nghèo khó và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương
yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo
chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em
mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ
yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một
chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho
thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan
trọng nhất chính là “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”.
Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa? Qua
giáo huấn của Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu của mình
đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều răn thứ hai: “yêu người thân cận như
chính mình”. Đức Giêsu đã làm gương về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu
thương con người, đồng loại của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng
cái chết ấy chính là lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh
giá cao nhất. Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính
là yêu thương những người người chung quanh mình, những người mình gặp hằng
ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa
nói với tôi: “Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một thứ gì. Vậy
thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu
Cha nơi những người sống chung quanh con, họ chính là hiện thân của Cha ở bên
cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất để con tỏ
lòng hiếu thảo đối với Cha”.