Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy, vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài; cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha, là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ... Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không? (x. Bài 7)
Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy, vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài; cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha, là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ... Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không? (x. Bài 7)
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Ml
1,14b-2,2b.8-10; 1Tx 2,7b-9.13; Mt 23,1-12
MỤC LỤC
1. Khiêm nhường
Thầy Pacifique là một trong số những môn đệ
đầu tiên của thánh Phanxicô d’Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên thiên đàng
và chiêm ngắm những cảnh sắc huy hoàng. Thầy nhìn thấy một chiếc ngai sáng
chói, và Chúa đã nói với Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là chiếc ngai của
Lucifer, nhưng vì kiêu ngạo, nó đã bị bỏ mất, giờ thì nó thuộc về Phanxicô
d’Assie, người tôi tớ khiêm nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ, thầy đã hỏi
thánh nhân: Thưa cha, cha nghĩ gì về mình. Thánh nhân trả lời: Tôi chỉ là một
kẻ tội lỗi đáng thương nhất. Thầy dòng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có thể như
vậy được. Thánh nhân trả lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như đã ban
cho tôi, thì họ đã trở nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy dòng
suy nghĩ, và nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai
hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Vậy chúng ta phải
hiểu thế nào về lời nói của Chúa Giêsu? Đâu là ý tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa
không bảo chúng ta tuân giữ một đức khiêm nhường bề ngoài, một sự khiêm nhường
giả hiệu, chẳng hạn như khi đi dự tiệc, là phải chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ
được chủ nhà mời lên mâm trên. Căn bản của thái độ này chính là kiêu ngạo, sự
trá hình. Chúa không bảo chúng ta hãy lợi dụng chỗ thấp để làm cho mình được
vinh dự, trái lại, chúng ta phải có tâm tình khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận
những công việc khiêm tốn, những địa vị kém cỏi. Chúa là Đấng phân định công
nghiệp của chúng ta, chính Ngài sẽ chỉ cho chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.
Chúng ta sống trên
trần gian, không phải là để thống trị mà là để phục vụ kẻ khác như lời Ngài đã
phán: Con Người đến không để được phục vụ mà để phục vụ và hiến thân vì người
khác. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ. Đó chính là bài học mà chúng ta
không bao giờ được quên lãng, vì Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và yêu thương
người khiêm nhường.
Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ biết
điều đó và thường hãnh diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn. Sau khi
sơ ấy chết đi, thánh nữ, Gertrude nhìn thấy linh hồn của sơ ấy quằn quại trong
lửa luyện ngục. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đã khóc thương, nhưng
Chúa hiện ra và phán: Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu ngạo. Hãnh
diện vì tiếng hát, sơ ấy đã đi tìm những lời khen phù phiếm thay vì phụng sự
thánh danh Ta.
Phải chăng chúng ta
cũng đã tình cờ trở nên giống vị nữ tu trước những tài năng mà Chúa đã ban? Hãy
dùng những khả năng của mình để phụng sự Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ
sống tâm tình khiêm nhường đích thực, vì ai hạ mình xuống, sẽ được không phải
là người đời, mà chính là Chúa nâng lên.
2. Khiêm nhường
Chúng ta có thể xác
quyết: Khiêm nhường là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta tới quê hương Nước
Trời.
Thực vậy, tội của
ông bà nguyên tổ là gì, nếu không phải là sự kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên
Chúa, từ chối không chịu để cho Ngài hướng dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm
mà ăn. Tội của Lucifer, vị thần mang ánh sáng, là gì, nếu không phải là tính
kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa.
Từ đó, chúng ta thấy
mình chỉ có thể gặt hái được những thành quả tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ
nhỏ, phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và
giàu lòng thương xót.
Dưới mắt Thiên Chúa,
chúng ta thấy dường như có một sự đảo lộn giá trị: Ai tự nâng mình lên cao thì
sẽ bị hạ xuống thấp, và trái lại ai hạ mình xuống thấp thì sẽ được nâng lên
cao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã phán: Ai muốn làm lớn thì phải trở thành kẻ rốt
hết và làm đầy tớ phục vụ cho mọi người…Ai trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ là
người lớn nhất trong Nước Trời…
Để nuôi đám đông dân
chúng trong hoang địa, Chúa Giêsu đã không làm cho manna từ trời rơi xuống,
nhưng Ngài đã dùng năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ.
Và trong cuộc sống,
Ngài đã sử dụng những phương tiện tầm thường nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo
Hội, Ngài đã không chọn lựa những tiến sĩ luật và những nhà thông thái, trái
lại, Ngài đã kêu gọi những con người đơn sơ và dốt nát.
Tại phòng tiệc ly,
mặc dù luôn ý thức quyền năng của mình, thế nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân
cho các môn đệ, để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ.
Trong công cuộc cứu
độ nhân loại, Ngài đã không sử dụng tới uy quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng
đã cúi đầu chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Ngài đã vâng
lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài cũng muốn chúng
ta noi gương bắt chước Ngài: các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm
nhường trong lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm
nay đưa ra hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt của một bậc thầy, một tiến sĩ luật và
khuôn mặt của một người tôi tớ, một người hèn mọn.
Kẻ kiêu căng luôn
đặt mình làm trung tâm của vũ trụ, muốn người khác phải trọng kính và coi mình
như một vị thủ lãnh. Chính vì thế, kẻ kiêu căng không hề biết vâng lời và yêu
thương. Họ sẽ không bao giờ được thỏa mãn, trái lại lúc nào cũng ghen tức vì
hấy người khác được thành công. Một kẻ như vậy thì làm sao có thể gặp được
Thiên Chúa.
Trong khi đó, người
khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ
biết nhận định đúng về con người của mình, đồng thời họ biết quên mình đi để
mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh. Chính vì thế, họ được dành cho
nhiều tình cảm tốt đẹp và được chính
Thiên Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những vướng mắc và níu
kéo.
Kytô giáo của chúng
ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đã xác quyết:
Lời rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô
Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn
tôi để làm những công việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô
Xaviê thì bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên,
một khi đã thực sự hạ xuống.
Để kết luận, chúng
ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng
mình là một cái gì đó, thi chúng ta đã đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên
Chúa, còn nếu chúng ta nghĩ rằng mình chẳng là gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên
một với Ngài.
3. Thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái – Achille Degeest
(Trích trong Lương
Thực Ngày Chúa Nhật)
Bài đọc này tiết lộ
một trong những lý do căn bản khiến người biệt phái đối đầu với Chúa Giêsu. Bài
đọc cũng chất vấn chúng cả chúng ta ngày nay nữa, vì vấn đề đặt ra là sự thành
thực của cuộc sống đối với Đức tin. Chúa Giêsu kết án người biệt phái cắt nghĩa
lề luật mà sắp đặt theo sở thích của mình. Và thay vì có lương tâm khiêm nhường
của tội nhân trước mặt Thiên Chúa, họ có lương tâm của kẻ tự mãn. Cần lưu ý
Chúa Giêsu không hề đả kích quyền uy của các thày thông giáo giảng dạy giáo lý
Do thái ở thời Ngài; nếu dùng bài đọc này biện minh cho việc phản kháng quyền
hành trong dân Thiên Chúa quả là lạm dụng. Điểm chính xác mà Chúa Giêsu nhắm
đến là sự phù hợp phải có giữa lời nói và việc làm; Ngài cũng tố cáo thái độ
mong được người chú ý hơn là sống theo ý Thiên Chúa. Bởi đó những người nhận
quyền hành có bổn phận, phải làm gương cụ thể những điều họ giảng dạy. Đồng
thời việc chấp nhận ngay thẳng lời giáo huấn đến từ các vị có quyền buộc tín
hữu thi hành những điều họ tin. Một vài điều xác định về bài đọc. Các thẻ kinh
ở đây là những hộp vuông nhỏ bằng giấy hay bằng da bò màu đen, trong đựng những
đoạn ghi chép các câu Kinh thánh nói về tnh1 chất linh thiêng của lề luật. Các
người Do thái mộ đạo đeo trên trán hay buộc vào cánh tay trái để đọc vào kinh
sáng; những biệt phái bị Chúa trách cứ có lẽ lúc nào cũng mang bên mình. Các
tua áo và cả các túm đính vào bốn góc áo choàng có giá trị dấu hiệu tôn giáo để
nhắc nhở tuân giữ lề luật. Các lời chào hỏi có tầm quan trọng lớn lao ở Đông
phương, cử chỉ và lời dùng để chào nói lên phẩm giá xã hội người mình chào.
Những người biệt phái rất thích được người ta thưa: “Bẩm thày đạo sư, nguyện
chúc Ngài khang an”. Để suy gẫm:
1) Họ buộc những bó nặng và
chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Câu nói của Chúa tố cáo một cố tật của mọi
kẻ nắm giữ quyền hành, mọi người cắt nghĩa luật pháp và ở đây chúng ta giới hạn
trong phạm vi tôn giáo. Có một thứ am tường luật pháp, để tránh né các đòi buộc
mà lương tâm vẫn yên ổn. Người ta cắt nghĩa sao cho kẻ khác buộc phải giữ còn
mình thì thoát. Một cố tật khác là, cắt nghĩa luật pháp theo những ý tưởng và
quyền lợi mà mình muốn bảo vệ. Cắt nghĩa Phúc âm cách sao để biện minh cho một
số chủ trương “bảo thủ”, hay “cách mạng” là một việc giả hình, biệt phái cũng
đáng kết án như việc giảng dạy Phúc mà tìm cách để khỏi thi hành. Trong cả hai
trường hợp, đều có sự dối trá. Một bên biến Phúc âm thành gánh nặng cho người
khác, một bên đặt thêm vào gánh nặng mà Phúc âm không có. Cả hai bên đều có
việc tráo quan niệm nhân loại vào chỗ thánh ý Thiên Chúa.
2) Làm sao có được thuốc chủng
ngừa bệnh biệt phái? Các
người chỉ có một Thày, một Cha, một Đấng chỉ đạo. Chúa Giêsu nhắc nhở người
Kitô hữu rằng Đấng duy nhất xét đoán lương tâm họ là Thiên Chúa, dầu họ ở mức
độ quyền bính hay tuân phục nào đi nữa. Họ phải thực hành điều họ dạy, điều họ
tin. Sự ngay thẳng nội tâm trước mặt Thiên Chúa sẽ khiến họ ý thức mình là kẻ
có tội. Khi cần, nó có thể khơi dậy một sự tìm kiếm trong lòng những người
khác. Họ sẽ không thuộc số những kẻ hành động có ý cho người ta thấy. Họ sẽ
hành động cách nào để khi thấy việc họ làm, người ta sẽ ngợi khen Cha ở trên
trời (Mt 5,16)
4. Hãy dâng cho Thiên Chúa chỗ nhất
và không để cho một người nào khác
(Trích trong Mở Ra
Những Kho Tàng – Charles E. Miller)
Những người con
thường gọi cha mẹ của chúng là cha mẹ, mặc dù Chúa Giêsu đã nói đừng gọi ai
dưới đất là “cha”. Những vị dạy dỗ trong trường học chấp nhận tước hiệu “thầy”
mặc dù Chúa Giêsu nói: “Tránh gọi ai là Thầy”. Điều đó sẽ là ngớ ngẩn nếu duy
trì những điều thực hành này khi những điều này trái với hướng dẫn của Chúa
Giêsu. Hiển nhiên là ý nghĩa của nó không phải là nghĩa chữ. Mặc dù đúng hơn
qua những điều giống như ra lệnh này, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta rằng
chúng ta đừng trao cho người nào chỗ nhất trong đời sống của chúng ta, mà chỗ
này chỉ thuộc về mình Thiên Chúa.
Chúng ta là con cái
của cha mẹ chúng ta. Một số người đã được chúc phúc bởi cha mẹ mình và một số
khác thì hoàn toàn không. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn lên thiên đàng để tìm
thấy những Đấng cha mẹ hoàn hảo, một người tuyệt vời không thể tưởng tượng được
đó là Cha của Chúa Giêsu Kitô, và Đấng đó đã trở thành Cha của chúng ta nữa.
Chúng ta không thể cho phép ai chiếm mất chỗ của Thiên Chúa trong đời sống của
chúng ta.
Tất cả chúng ta phải
có những vị thầy trong những khoảnh khắc khác nhau từ lúc chúng ta sinh ra
trong suốt thời gian ở trường, khi chúng ta có một công việc, và thật sự xuyên
qua toàn bộ đời sống của chúng ta, có một người có thể dạy dỗ chúng ta về mọi
chân lý căn bản nhất của đời sống, cả đời này và cả đời sau, là Chúa Giêsu
Kitô. Chúng ta không thể cho phép bất cứ ai hơn Chúa Giêsu trong việc Chúa
Giêsu trở nên Thầy dạy chúng ta về những giá trị của đời sống.
Thiên Chúa đã nói
qua lời của tiên tri Malakia trong bài đọc I của Chúa Nhật hôm nay. Bài đọc
tuyên bố: “Quả Ta là vua lớn lao”. Có ai trong đức tin chối điều đó không?
Thiên Chúa đòi hỏi câu trả lời trong câu hỏi của Ngài: “Các ngươi có chấp nhận
rằng các ngươi không được đặt ai vào chỗ của Ta như là Chúa các đạo binh của
các ngươi không?”. Chúng ta phải trả lời: “Amen”.
Tuy nhiên có lẽ
trong trường hợp của chúng ta thì không khác biệt mấy với những người dân mà
tiên tri Malaki đã rao giảng sứ điệp của ông. Họ là những người dân Do Thái
đang trở về từ cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà của họ đã bị xâm chiếm
bởi một dân tộc khác, dân tộc đó không chia sẻ tôn giáo và những giá trị như
họ. Hoàn cảnh là một thách đố đức tin cho cả hai, thành phần là tư tế và dân
chúng. Đó là lý do vì sao tiên tri Malaki đã rao giảng cho họ một bài giảng
khẩn cấp và lớn lao như vậy.
Đó là lý do vì sao
Phúc Âm của Chúa Nhật có một ý nghĩa lớn lao đối với chúng ta. Chúng ta sống
một xứ sở, xứ sở đó đã được thúc đẩy bởi những nguyên tắc chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa tiêu thụ, mà không phải bởi những giá trị của tôn
giáo. Hầu hết mọi người mà chúng ta có thể nói rằng họ tin vào Thiên Chúa,
nhưng sự cám dỗ thời đại trong xứ sở của chúng ta là sống mà Thiên Chúa không
hiện hữu. Sự cám dỗ đó có thực đối với chúng ta, tuy nhiên nó có thể tinh tế
hay mờ nhạt khi chúng ta đang ngồi trong nhà thờ.
Có lúc nhà thờ sẽ là
nơi cư ngụ của chúng ta, là ngôi nhà tinh thần của chúng ta trên mặt đất này.
Nơi đây trả sự chú ý cho Chúa Giêsu, vị Thầy dạy của chúng ta, khi chúng ta
lắng nghe lời Người tuyên bố trong Thánh Kinh. Chúng ta tuân theo giáo huấn của
Ngài bằng việc cầu nguyện với Thiên Chúa như là ‘Cha của chúng ta”, không chỉ
trong lời kinh Lạy Cha, nhưng qua Thánh Lễ. Chúng ta nối kết với Người trong hy
tế của Chúa Giêsu Kitô để hiểu rằng. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là vị Vua
cao cả của chúng ta, là Đấng mà chúng ta dâng lời ngợi khen và cảm tạ.
Hơn nữa, chúng ta sẽ
tìm thấy một dân và với dân đó chúng ta chia sẻ những giá trị trong đời sống,
dân mà họ sẽ nâng đỡ chúng ta trong đức tin và là dân mà chúng ta sẽ sẵn lòng
giúp đỡ trong mọi lúc họ cần. Người Do Thái trở về một miền đất có vẻ giống như
là ngoại quốc đối với họ. Chúng ta sẽ không bao giờ có cảm giác là mình không
có chỗ trong một nhà thờ Công giáo. Chúng ta phải tìm thấy nơi mỗi người, dân
tộc được dâng hiến, là dân muốn theo những giá trị của Chúa Giêsu, Đấng là Con
Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta.
5. Quyền bính để phục vụ
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Lời Chúa hôm nay
thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả
những cơ chế trong xã hội và trong Giáo Hội? Phải chăng tất cả chúng ta đều sai
lầm? Có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh
thần. Qua chân lý: Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em, Chúa muốn dạy ta
phải sống những quan hệ với xã hội theo một tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau
đây.
1- Mọi người đều bình đẳng. Mọi người bình đẳng trong xã hội vì tất cả
đều là người. Là người như nhau nên phải được kính trọng như nhau. Cũng thế,
mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên
Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải kính trọng nhau. Mọi
người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với nhau. Nên mọi người đều
phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung quanh mình.
2- Chức vị chỉ là một phân
công. Một xã hội phải có
tổ chức. Có tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc chung được
trôi chảy. Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên Chúa. Làm cha
mẹ là được thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người lãnh đạo là
được dự phần vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự mình chiếm
đoạt được chức vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì lợi ích của
tập thể.
3- Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào một gia đình. Trong gia đình
cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia đình. Nhưng chính cha mẹ lại
phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực nhọc chăm sóc con thơ. Nhìn bề
ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng cha mẹ điều hành gia đình trong
khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng quyền để yêu thương và phục vụ.
Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và trong xã hội phải là người có
lòng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với
tình yêu thương sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của mình.
Không ở đâu ta có
thể tìm gương mẫu cho những lời Chúa dạy hôm nay bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu
Kitô, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể
đưa ta về phòng Tiệc Ly, nơi Chúa ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ. Trong
khi ăn, Chúa đứng dậy, cầm chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói:
“Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa
chân nhau. Thầy đã làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho
anh em?” (Ga 13,12b-15). Quyền bính để phục vụ. Không còn minh họa nào sinh
động hơn. Không còn giải nghĩa nào sáng tỏ hơn hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân
cho các môn đệ. Không còn lệnh truyền nào thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm
gương trước.
Bí tích Thánh Thể
cho ta thấy sự hiến thân phục vụ của Chúa Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở
thành lương thực nuôi con người. Không trở thành một tượng đài uy nghi để mọi
người cung kính. Không trở thành một trang sức quý giá để mọi người trân trọng.
Nhưng trở thành tấm bánh để phục vụ con người. Trở thành lương thực là trở
thành những gì gần gũi nhất. Trở thành lương thực là chấp nhận phục vụ sự sống:
chịu nhỏ bé đi để người khác được lớn lên, chịu đau khổ cho người khác được
hạnh phúc, chịu chết đi cho người khác được sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu
gương về quyền bính phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con người. Người Cha hy sinh
cho hạnh phúc của con cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích
Thánh Thể thiết lập một mối quan hệ mới giữa con người. Quyền bính là để phục
vụ. Nếu hiểu và thực hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới.
Thế giới sẽ trở nên một gia đình ấm cúng chan chứa tình người. Xã hội sẽ tươi
đẹp vì sống theo nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết
thúc, nhưng mầu nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục mãi mãi trong cuộc đời chúng ta.
Sống mầu nhiệm Thánh Thể là biết quan tâm phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm
Thánh Thể là duy trì sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa xã hội, giữa cuộc đời
chúng ta. Hiện diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho một thế giới phát triển, một
thế giới chan hòa yêu thương, một thế giới hạnh phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin
dạy con biết noi gương Chúa, phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao mọi người
đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là
một phân công trong Giáo Hội, bạn hiểu điều này thế nào?
3- Quyền bính là để
phục vụ. Bạn thấy điều này đã ứng dụng ở đâu?
4- Bạn phải làm gì
để sống bí tích Thánh Thể theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay?
6. Hãy sống trong sự thật
(Trích trong Niềm
Vui Chia Sẻ)
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một
ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng
chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa
đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà
không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy
tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền
triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không
thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy
tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có
một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ
xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang
tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc
dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh
lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế
rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế
của dân làng.
Anh chị em thân mến,
“Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu
hành trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta.
Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để
đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình
mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh
giành địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán,
buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác.
Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ
nhất và ở nơi công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn
mình lên cao hơn mọi người.
Ngược lại với thái
độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu
đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống
chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần
phục vụ. “Anh em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có
một Cha, là Cha trên trời. Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Vì thế,
“trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em”.
Thưa anh chị em, đọc
đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục,
linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước
các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay.
Pharisêu không còn, nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo
Hội qua các thời đại phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa
hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những
chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu rước… đã làm hoen ố đi hình ảnh một
Giáo Hội chân thật, một “Giáo Hội nghèo của người nghèo”. Công Đồng Vatican II
đã bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích
thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục
giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận:
“Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo
Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là
Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã
thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin
Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn
ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà
ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin
đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: “Vua thì phải sống cho ra
Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục”.
Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành
bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa
hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống xứng
đáng cho họ”.
“Trong anh em, ai lớn hơn cả
phải là người tôi tớ phục vụ”. Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta
đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay
tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”,
ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là “Tôi tớ của các tôi tớ” (Servus
servorum). Người cha, người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến
là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận
lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho
các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá vì yêu thương
loài người chúng ta. Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: “Ai
tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu
của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của
những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ
mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ
chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực
chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong. Hãy sống trong sự thật trước mặt
Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường
lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến
Chúa - yêu người.
7. Là anh em với nhau
(Trích trong Manna)
Suy Niệm
Nửa sau của bài Tin
Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu bảo ta
đừng để ai gọi mình là thầy, vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà
chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha, là Đức Thánh Cha, là giáo
phụ, thượng phụ, viện phụ... Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không? Ta có phải
hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã
không hề hiểu theo nghĩa đen. Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín
hữu, đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19). Hội Thánh cũng có những thầy dạy
(Cv 13,1; 1Cr 12,28), và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Vậy đâu là điều
Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không
hề muốn phá bỏ những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh, Ngài cũng không
loại bỏ phẩm trật và quyền hành. Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên: mọi quyền
bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy,
làm người lãnh đạo, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Đức Giêsu.
Nếu họ được gọi là
cha, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay
chức vị gì trong Hội Thánh, tôi cũng không được quên chân lý này: còn tất cả
anh em đều là anh em với nhau, con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy
là Đức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại
sống như bạn của các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất
là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Đức Giêsu mãi mãi là
gương cho các nhà lãnh đạo. Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin
Mừng cho thấy sự giả hình của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề
Luật.
Giả hình là không
làm điều mình dạy người khác, là dễ dãi với chính mình, nhưng khắt khe với tha
nhân.
Giả hình là biến
việc thờ phượng Chúa thành thờ mình, làm việc tốt để người ta thấy và thán
phục.
Khi nhìn khuôn mặt
của người pharisêu giả hình, tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ, dám
"đốc" chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin
Mừng làm chúng ta nhức nhối, vì mở cho chúng ta những chân trời xa, cho chúng
ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng chưa làm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Vẫn thường có khoảng
cách giữa điều tôi nghĩ với điều tôi nói, giữa điều tôi nói với điều tôi làm.
Chúng ta ít nhiều đều có chút giả hình. Bạn nghĩ gì về sự giả hình của bạn?
Quyền hành thường
làm con người hư hỏng. Bạn thấy có cách nào để tránh mối nguy hiểm này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ. Chúng con sợ người khác thấy sự thật về
mình. Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ. Có những hành vi đạo đức bên ngoài để che
giấu cái trống rỗng bên trong. Có những lời kinh đọc trên môi, nhưng không có
chỗ trong tâm hồn, và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cũng
thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái
mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con
cởi bỏ mọi thứ mặt nạ, đã ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa
nhau, đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây
dựng bầu khí chân thành, để chúng con được lớn lên trong bình an.
8. Lúc này đây,
ngài có phải là anh em của tôi không?
Hôm qua, có người đột nhiên nói với tôi: “Tại
sao linh mục để cho người ta gọi mình là cha? Linh mục hãy đọc Tin Mừng thì sẽ
rõ!”
Tôi đọc được trong Tin Mừng: “Các con đừng
muốn cho người ta gọi mình là thầy, các con đừng muốn cho người ta gọi mình là
tiến sĩ, các con đừng gọi ai là cha”. Chắc chắn ở đây có một bài học mà chúng ta
phải rút ra.
Tôi nghĩ rằng không
nên chú mục vào những danh hiệu bị Chúa Giêsu lên án. Loại bỏ các danh hiệu đó,
các bạn sẽ tìm được hàng chục danh hiệu khác cần thiết trong cuộc sống xã hội:
ông thị trưởng, ông Tổng thống, Đại uý... Người ta thay thế danh hiệu Ngài bằng
Đức giám mục? Danh hiệu này chẳng thích hợp và cũng không thoát được sự lên án
của Chúa Giêsu.
Thật ra sự lên án
của Chúa Giêsu nhắm đến điều gì? Tại sao lại gán cho điều chỉ là một chút kiêu
căng một tầm quan trọng như thế? Thực tế, có điều gì trầm trọng đang xảy và một
sự vụng về rõ ràng về biên tập của Matthêu lèo lái chúng ta. Luôn luôn nơi
Matthêu, điều đó là cố ý, rất được trau chuốt từng ly từng tí. Ngài bắt đầu
bằng: “Tất cả các con đều là anh em”. Sau đó Ngài tiếp: “Các con chỉ có một Cha
mà thôi”. Nhưng ý tưởng anh em đến nhanh hơn bởi vì trong văn mạch, ý tưởng này
là ý tưởng chủ đạo, mặc dầu ý tưởng này rõ ràng liên kết với tư cách làm Cha
của Thiên Chúa: “Tất cả các con đều là anh em, bởi vì tất cả các con đều có
cùng một Cha trên trời”.
Ở đây chúng ta rất
kiêu căng, Chúa Giêsu sửa chữa lại những quan hệ bị sai lệch, giống như những
nhà chuyên môn sửa lại những cái xương bị trật khớp. Chúng ta khó chịu trong cơ
thể xã hội khi các quan hệ sai lệch và đau đớn: khi ông chủ đóng vai tay anh
chị thì những người thuộc quyền khúm núm. Vấn đề là không phải nói: “Ông thị
trưởng”, mà là có một ông thị trưởng tốt. Bên dưới danh hiệu không quan trọng
đến thế, có những thái độ, những tấm lòng, một tinh thần.
Trong xã hội các môn
đệ của mình. Chúa Giêsu muốn có một tinh thần, một tinh thần dường như rõ ràng
nơi Ngài đến nỗi quan hệ giữa Ngài với Chúa Cha là rất thắm thiết. Chúng ta
đừng đụng đến điều đó, đừng ai chiếm chỗ của Chúa Cha, đừng ai dành cho một
người nào đó một tầm quan trọng làm lu mờ Thiên Chúa.
Hậu quả cũng rất rõ
ràng: giữa con người với nhau chỉ có thể có quan hệ anh em mà thôi. Những chức
vụ cần thiết và những danh hiệu có ích không được làm thay đổi tinh thần “anh
em”. Tôi có thể để người ta gọi mình là cha... nếu tôi có một trái tim anh em!
Nhưng điều đó phải rõ ràng trong các lời nói và trong các thái độ của tôi, và
đừng ai cám dỗ tôi tự cho mình là Thiên Chúa.
Khuynh hướng ma quỷ
làm cho chúng ta trượt về phía kiêu ngạo sẽ luôn luôn làm cho việc suy niệm bài
Tin Mừng này có ích. Than ôi! Chúng ta có thể viết cả một quyển sách về sự kiêu
ngạo trong Giáo hội, y phục, tước hiệu, ngôi thứ, và ghê gớm hơn nữa, chuyên
quyền, tự mãn. Sự việc có phần tốt đẹp hơn, nhưng để duy trì tinh thần của Chúa
Giêsu, các thầy, các cha và các tiến sẽ tự giữ gìn là điều chưa đủ: trong dân
Chúa, bất cứ ai cũng có thể nói với họ rằng “Lúc này đây, Ngài có phải là anh
em của tôi không?”
9. Đạo đức thật và đạo đức giả
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình
trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh ghét
tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện
đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu
thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ
xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và
quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái
lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất
vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây
và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà
Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà vợ
luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
Từ câu chuyện trên,
chúng ta đi vào đọan Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu
người đã được Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người thứ nhất là những người luôn vỗ
ngực tự hào vì mình công chính và đạo đức. Còn mẫu người thứ hai là những kẻ
tội lỗi và bị xã hội loại trừ.
Chúng ta còn thấy
được chân dung hai mẫu người này qua những lời giảng dạy cùa Chúa và nhất là
qua những câu chuyện Ngài đã kể.
Chẳng hạn câu chuyện
về người con phung phá.
Cậu em tượng trưng
cho kẻ tội lỗi, còn người anh cả tượng trưng cho những người tự nhận mình là
đạo đức và công chính. Khi nghe biết thằng em mình đã ăn năn sám hối, quay trở
về và được người cha niềm nở tiếp đón, thì anh ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong
lúc người cha dịu dàng khoan dung, thì anh ta đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn
của cha.
Chủ đích của câu
chuyện dĩ nhiên nói về lòng nhân từ và khoan dung của Thiên Chúa, nhưng đồng
thời qua đó, Ngài còn nhắm tới bọn biệt phái và luật sĩ vì đám người này đã tỏ
ra bực bội và tức tối khi thấy những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu ân cần tiếp
đón.
Và hơn thế nữa, họ
vốn tự hào là những người đạo đức và công chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ
trích và gay gắt kết an những kẻ tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy
được chân dung hai mẫu người trên qua câu chuyện về người biệt phát và người
thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Người biệt phái thì
huênh hoang tự đắc:
- Lạy Chúa, con cảm
tạ Chúa vì con chẳng phải là kẻ ham hố, bất lương hay ngọai tình. Con cảm tạ
Chúa vì con không giống cái thằng thu thuế kia. Con dâng cho Chúa một phần muời
hoa lợi của con…
Ngược lại, người thu
thuế thì đứng ở đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và khiêm tốn kêu cầu:
- Lạy Chúa, xin
thương xót con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Và Chúa Giêsu đã kết
thúc câu chuyện:
- Ta nói cho các
ngươi hay khi trở về, không phải người biệt phái mà là người thu thuế được nên
công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy là bởi
vì ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng
lên.
10. Đầy tớ
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với nhau về
những bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói: “Tôi thích bản
dịch Phúc âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn những bản dịch cũ.
“Người thứ hai thêm ý kiến: “Tôi lại thích bản dịch của The New Jerusalem
Bible. Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không mất đi ý nghĩa thiêng liêng của Thánh
Kinh”. Người thứ ba trả lời: “Tôi biết một bản dịch hay nhất. Đó là bản dịch
của mẹ tôi. Bà đã chuyển dịch Thánh Kinh vào trong đời sống, và đó là bản dịch
có sức thuyết phục nhất mà tôi chưa bao giờ thấy. Mẹ tôi là một con người đầy
tình thương luôn luôn để tâm tới những nhu cầu của người khác một cách nghiêm
chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài sống trên trái đất”. Với ý kiến
này, tất cả ba người đều đồng ý như vậy!
Thánh Matthêu đã
diễn tả một cách rõ ràng cuộc đời phục vụ của Chúa Giêsu qua những công việc
đầy tình thương và quan tâm tới những người bị xã hội bỏ rơi. Ngài đã chạm đến
những người cùi, đã ôm và hôn những em bé, đã khoan dung với những người tội
lỗi bị khước từ bởi những kẻ tự cho mình là đạo đức, đã chết cho những người
hèn mọn nhất của con cái Thiên Chúa, không trừ một ai: “Con Người đến không
phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm
giá chuộc muôn người.
Tư tưởng chính trong
các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta, giáo sĩ cũng như giáo dân phải trở về với
bản chất đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Đó là phải trở nên những người
đầy tớ phục vụ trong tinh thần khiêm tốn của Thiên Chúa: “Anh em cũng đừng để
ai gọi mình là lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong
anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”.
Bài đọc thứ nhất,
đến từ ngòi bút của tiên tri Malachi. Ngày xưa, Malachi đã viết những lời gay
gắt về những vị lãnh đạo tinh thần của Israel trong thời đại của ông.
Những lời tố cáo về sự cẩu thả trong phụng vụ, ban bố những hướng dẫn sai lạc,
có những quyết định thiên vị… Dĩ nhiên, Malachi là một người giáo dân. Ông
không giữ vai trò gì trong phẩm trật của đền thờ. Nhưng như là một giáo dân
sùng đạo, ông đã nhìn thấy một số vấn đề về tôn giáo đáng bị quở trách, do đó,
ông không thể im lặng. Lương tâm của ông đã bắt ép ông phải nói những lời khó
nghe với những vị lãnh đạo tinh thần của mình: “Và giờ đây, hỡi các tư tế –
linh mục – đây là lệnh truyền dành cho các ngươi: Nếu các người không nghe và
không lưu tâm tôn vinh danh Ta, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các
người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ”.
Nhiều năm sau, dưới
cái nhìn của Chúa Giêsu, những điều trên cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê
phán đến trên những người Biệt phái và các Kinh sư “ngồi trên toà Môsê mà giảng
dạy… họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng
chính họ lại không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ
thấy… ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc… ưa được chào hỏi ở những nơi công cộng và
được thiên hạ gọi là rabbi”.
Tôi rất thích nghe
những bài giảng đầu tiên của các thầy sáu. Thích không phải vì chứng kiến sự
run rẩy và lúng túng. Thích không phải vì tò mò nghe xem có cái gì mới lạ, thầy
sáu có khiếu giảng thuyết hay không. Nhưng thích vì các thầy sợ! Sợ không phải
vì đứng trước công chúng. Sợ không phải vì không biết nói gì – đã dọn sẵn rồi,
đã qua lớp giảng thuyết rồi! Nhưng sợ và rụt rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng
không biết lời mình giảng có phù hợp với việc mình làm hay không. Lời lẽ trong
bài giảng nghe có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng. Không dám nói mạnh! Còn ngại miệng
lắm!
Đấy là kinh nghiệm
của riêng tôi, lần đầu tiên giảng dạy. Càng làm linh mục lâu năm, ăn nói càng
bạo dạn. Và nói nhiều điều chính mình chưa thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa
cái tôi mình nói và cái tôi mình sống nó không mấy ăn nhập phù hợp với nhau.
Càng không ăn nhập với nhau thì lại càng nói hăng, có lẽ để làm cho lương tâm
bớt cắn rứt! Nói hăng và nói hay nữa. Nhưng lại được giáo dân khen là giảng
hay! Càng hay tức là càng nói những lý tưởng cao cả mà mình chưa thực hiện
được. Thật là xấu hổ và đáng bị Chúa mắng cho là “Họ nói mà không làm”!
Tôi không lấy làm lạ
trước những điều Chúa Giêsu khiển trách các Biệt phái và Kinh sư, vì đó là mặt
trái của chức vụ tư tế ở mọi thời đại. Người thuyết giảng thích được nổi tiếng
và thường phát biểu những lời hay ý đẹp. Chủ tế thích sự uy nghi lộng lẫy của
nghi thức bên ngoài. Lãnh đạo tôn giáo thích được tôn vinh và kính trọng như
thần thánh. Có lẽ tự trong ý niệm của tôn giáo đã có một cái gì đó làm cho
người ta cảm thấy rằng một số người đã đạt tới một mức độ cao hơn của đời sống
thánh hiến, và bây giờ họ đáng được sự kính trọng hay đối xử đặc biệt. Sự kính
trọng quá đáng của người giáo dân Việt Nam nơi các linh mục là một điển
hình. Gặp các cha thì phải khoanh tay cúi đầu: “Con xin phép lạy cha ạ!” Lạy mà
còn phải xin phép nữa!
Đối với tôi, chính ở
điểm này, một cách nào đó, đã làm mờ nhạt ý nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích
truyền chức thánh để trở thành những người đầy tớ của Thiên Chúa như Công đồng
Vatican II đã giải thích:
“Để bảo đảm cho dân
Thiên Chúa có các vị chủ chăn và các phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đã
thiết lập trong Giáo Hội của Ngài những thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi
ích của tất cả thân thể. Đúng thế, các thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ
phục vụ anh chị em mình, để tất cả những ai thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt
tới ơn cứu độ”.
11. Đầy tớ
Con người mang lấy
thừa tác vụ của Giáo Hội dễ lạm dụng chức thánh của mình và quên đi trách nhiệm
phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Vào thời điểm lịch sử của Giáo Hội Công giáo Hoa
Kỳ hiện nay, đang khi có những lời tố cáo về việc lạm dụng tình dục trẻ em bởi
các linh mục và một số giám mục, hơn bao giờ hết, sự đòi hòi về tư cách lãnh
đạo và tinh thần trách nhiệm trở nên cấp bách và cần thiết. Và, một lần nữa, ai
là những vị tiên tri nói lên những lời cảnh giác trong tình thế hiện nay của
Giáo Hội? Họ lại là những người giáo dân giống như tiên tri Malachi!
Trong lúc theo dõi
những diễn tiến của Hội đồng Các Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ ở Dallas vào tháng 6
năm 2002, những người giáo dân như Scott Appleby, giáo sư sử học của trường đại
học University of Notre Dame, và bà Margaret O’Brien Steinfels, chủ bút tạp chí
Commonweal, đã nói về các giám mục rằng các ngài đã thất bại thê thảm trong vai
trò trách nhiệm của mình để chăm sóc những con người dễ bị tổn thương nhất, con
cái của chúng ta. Có lẽ chưa bao giờ có một giai đoạn trong lịch sử Công giáo
Hoa Kỳ, những người lãnh đạo tinh thần đã bị công khai chỉ trích bởi giáo dân
như hiện nay. Và cũng chưa bao giờ có những lời chỉ trích thực sự mang tính
chất muốn sửa đổi và xây dựng như hiện nay…
Dĩ nhiên, phê bình
chỉ trích thường liên hệ với một lý tưởng. Sự phê bình về thái độ của các thầy
tư tế của tiên tri Malachi và của giáo dân nhằm vạch ra một con đường tốt đẹp
hơn cho đời sống tôn giáo. Tự bản chất của các thừa tác vụ là để phục vụ cho
Chúa Kitô và Giáo Hội như sách Giáo lý Công giáo số 876 đã dạy: “Được gắn liền
cách nội tại với bản chất bí tích của thừa tác vụ Giáo Hội, là đặc điểm phục vụ
của thừa tác vụ này. Đúng thế, các thừa tác viên hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa
Kitô là Đấng ban sứ mạng và uy quyền cho họ, và họ thật sự là “những nô lệ của
Chúa Kitô”.
Vấn đề phục vụ được
Giáo Hội kêu gọi, không phải chỉ dành cho các giáo sĩ, hay tu sĩ, nhưng còn cho
mọi người Kitô hữu như là môn đệ của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta
bằng chính gương sáng của ngài trong thư thứ nhất gửi cho người Kitô hữu của
Thêsalônica: “Trong khi chúng tôi ở giữa anh chị em, chúng tôi đã cư xử thật
dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi đã quý mến anh chị em
đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh chị em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà
cả mạng sống của chúng tôi nữa…”
Những lời của thánh
Phaolô nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm lắng nghe lời Chúa, công bố lời Chúa và
sống lời Chúa. Tất cả chúng ta được gọi để sống một cách nguyên vẹn và đầy đủ
vai trò “chăm sóc” mà thánh Phaolô diễn tả. Chúng ta được kêu gọi để cùng nhau
làm việc biến đổi trái đất này thành vương quốc Thiên Chúa. Chúng ta được kêu
gọi để chăm sóc lẫn cho nhau, và đặc biệt những người đã bị tước đoạt mất những
nhân quyền căn bản và những nhu cầu của họ vì bất công, bạo lực và vì sự lãnh
đạo vô trách nhiệm. Chúa Giêsu đã gọi những người Kitô hữu bước theo Ngài là
“ánh sáng thế gian”, có nghĩa là mỗi người Kitô hữu phải chia sẻ vai trò lãnh
đạo của Ngài.
Tuy nhiên, bổn phận
của chúng ta phải được thi hành trong tinh thần khiêm tốn như Chúa Giêsu khuyên
dạy: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”. Chúng
ta được gọi không phải để đóng vai trò quyền lực hay kiêu hãnh, nhưng để phục
vụ như những người đầy tớ khiêm tốn của Thiên Chúa.
Trong những ngụ ngôn Aesop có kể câu chuyện
“Ngựa và con lừa”. Ngày xưa, có người kia nuôi ngựa và lừa để chúng giúp việc
trong nhà. Ông có thói quen bắt lừa phải chở hàng nặng đến gần quỵ, trong khi
lại để ngựa thong thả theo sau với mớ đồ nhẹ tênh. Ngày kia, cả ba lên đường.
Con lừa vì đau yếu mấy ngày nên than thở với ngựa rằng: “Tôi khó chịu quá! Anh
chở hộ tôi ít món. Nếu không tôi chết mất”.
Con ngựa đá giò lái, bảo lừa im đi kẻo gây
rắc rối cho nó. Con lừa im lặng, ráng bước thêm nửa dặm nữa rồi lăn ra chết.
Ông chủ tháo hết hàng đặt lên lưng ngựa. Không những thế, ông còn đặt luôn xác
của con lừa xấu số lên lưng ngựa nữa. Bấy giờ, ngựa mới than thở: “Than ôi! Bây
giờ tôi mới thấy cái tai hại của tính ích kỷ”.
Vai trò của Chúa
Giêsu được diễn tả trong Phúc âm thánh Matthêu là vai trò Người Đầy Tớ của
Thiên Chúa. Chúng ta, các giáo sĩ tu sĩ và giáo dân, được gọi để chia sẻ những
khả năng tinh thần, vật chất và ngay cả chính đời sống của mình phục vụ cho tha
nhân. Khi chúng ta phục vụ cho Giáo Hội và nhân loại, chúng ta được biến đổi từ
những con người tội lỗi trở thành những con người mang Thần Khí của Thiên Chúa,
Thiên Chúa của tình yêu thương và phục vụ.
12. Đóng kịch
Tất cả chúng ta đều
tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của
người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách
tính cách giả hình, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài
cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ
thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa
Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn
nhận các người Pharisêu và kinh sư có quyền giáo huấn, vì họ là những người được
chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ
là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao
Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ
đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật,
bình thường thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì
chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hìng, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ
có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài.
Mỉa mai hơn nữa,
đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn
mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân
giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà
không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói:
“Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình. Ngươi hãnh diện về lề luật mà
chính ngươi lại lỗi luật”, nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau,
lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra
họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con
người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn
phận; còn với chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy
thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao
Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài
không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự
phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển
trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch
trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi bác của họ, và Chúa dạy chúng
ta đừng sống như thế. Hãy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước
sau như một.
Chúng ta hãy lặng
tâm suy nghĩ: những người Pharisêu không còn, nhưng lối sống của Pharisêu chưa
hết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta
thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến
lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái
bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng
người ta lại thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một
bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử
bên ngoài.
Thậm chí có người
còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công thì đừng bao giờ
duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài
miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dẫu trong bụng có muốn tru di tam tộc
người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã
hội không thiếu gì những người: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham
hiểm giết người không gươm”. Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai
là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó.
Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện,
đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những
người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng
sợ.
Chúng ta hãy suy
nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Chúng ta
hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người
khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có
ngày “cháy nhà ra mặt chuột”. Giả như chúng ta có sống được mãi như thế suốt
đời, không ai biết chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa
không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng,
nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng
có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ
điều gì, kể cả những việc đạo đức.
13. Bí quyết trở nên người cao cả
Lm. Trần Ngà
(Trích trong Cùng
Đọc Tin Mừng)
Đã là người, ai cũng
muốn nâng mình lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại
sao mọi người đều cùng có chung một khát vọng như thế?
Có thể nói rằng
chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát vọng muốn vươn cao như thế để
thôi thúc chúng ta vươn lên, để "trở nên người thành toàn, đạt tới tầm vóc
viên mãn của Đức Ki-tô". Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới
những giá trị cao cả: "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời
là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48). Như thế, khát mong trở nên con người
thành toàn là một khát vọng rất chính đáng và tự nhiên.
Tuy nhiên, trong
thực tế, nhiều người nhắm đạt đến lý tưởng nầy bằng những hình thức hư ảo.
Vậy ta có thể vươn
tới lý tưởng nầy bằng cách nào?
1. Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và
biệt phái thời Chúa Giêsu muốn nâng cao giá trị của mình bằng cách làm những
việc đạo đức bề ngoài cốt để cho người ta thấy; họ "đeo những hộp kinh lớn
hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa
ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được
người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là
thầy."
Các môn đệ Chúa
Giêsu có lúc cũng muốn nâng cao giá trị của mình qua nhiều cuộc tranh luận để
xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất. (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47)
Và rồi một bữa nọ,
tưởng lầm rằng mai đây Chúa Giêsu sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và
Giacôbê cùng với mẹ là Bà Dê-bê-đê đến nài xin Chúa Giêsu cho mình được ngồi
bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Người. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất bình
ra mặt với Gioan và Giacôbê, vì chưa gì mà hai anh em nầy đã toan tính nắm giữ
hai chiếc ngai mà họ cũng đang ngấp nghé. (Mc 10, 35-41)
Trong xã hội hôm nay
cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách
nầy hay bằng cách khác.
2. Đâu là phương cách thực sự
mang lại giá trị cho đời người
Giá trị con người
không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xã hội như những người biệt phái và luật
sĩ thời Chúa Giêsu tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ "đeo những hộp kinh thật
lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm
được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng
và được thiên hạ gọi là thầy" là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra,
giá trị con người không do những thứ nêu trên đem lại.
Giá trị con người
cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ
Gioan và Giacôbê lầm tưởng, nhưng giá trị đó tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng
đạo đức của con người.
Qua Công Đồng
Vaticano II, Giáo Hội minh định: "Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi
"tôi-có" (= bản thân ta và những gì ta sở hữu) mà tuỳ thuộc nơi
"tôi-là" (= bản chất đích thật của ta)".
Biệt thự của ta, xe
hơi sang trọng của ta, chức vụ và quyền hạn lớn lao của ta... không làm cho ta
có giá hơn những người không nhà, không xe, không địa vị, không chức quyền. Chỉ
có phẩm chất cao đẹp và lòng đạo đức (nếu có) của ta mới có thể làm cho ta có
giá trị hơn người khác mà thôi.
Nhân dịp nầy, Chúa
Giêsu dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết
phương thế đích thực để làm cho mình nên cao trọng. Đó là hạ mình phục vụ tha
nhân như người tôi tớ: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người
phục vụ anh em" (Mc 10, 43. Mt 23,11)
Lời dạy nghe thật
ngược đời, khó được mấy ai chấp nhận, nhưng đó là chân lý!
Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng điều
đó.
Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại
An-ba-ni nhưng trải qua phần lớn đời mình trên mảnh đất Calcutta của An-độ, từ
đó, Mẹ được mang danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đã hiến thân làm tôi tớ phục vụ
những mảnh đời cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ
được trọng vọng và yêu mến nhất trên thế giới.
Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập Dòng
Thừa Sai Bác Ái, các vị đại diện của18 tôn giáo đã họp nhau tại Calcutta để
tham dự tuần lễ cầu nguyện, cảm tạ Thượng Đế vì sự đóng góp của một người phụ
nữ mang danh "Thừa Sai Bác Ái".
Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa Kỳ nhất
trí phong tặng mẹ danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ là nhân
vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.
Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại
Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi
thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu
của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo Hội
nâng lên hàng Chân Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất trong
lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ, hai vị
được phong chân phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh Maximilian Kolbe
cũng phải mất đến 30 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa Calcutta
minh chứng lời dạy của Chúa Giêsu là chân lý.
Ước gì mỗi người
chúng ta thôi tìm kiếm vinh quang cho mình bằng những hình thức hư ảo của những
hạng người nông nổi, nhưng biết dấn thân phụng sự tha nhân theo lời dạy của
Chúa Giêsu và theo gương Chân Phước Têrêxa Calcutta để cho thế giới nầy được ấm
lên bằng lửa yêu thương và hạnh phúc hơn bằng tinh thần phục vụ.
14. Biệt phái giả hình
(Trích trong Sống
Tin Mừng – Radio Veritas Asia)
Sau khi tham dự tuần
tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm
1990, một linh mục đã viết trong tập nhật ký của mình:
"Tôi đã nhìn
thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên
diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi
không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói
lời văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa
không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi,
thu hút chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì Mẹ sống chân thành khiêm tốn
với những gì Mẹ nói."
Chân thành và khiêm
tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống
những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa
mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói:
"Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ
dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không
nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ
trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những
tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối
diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên
lỉ".
Những kẻ biệt phái
trong Phúc Âm hôm nay có thể nói được là những kẻ không dám nhìn vào thực tại
nơi chính mình, họ không có lòng đạo đức, không muốn nhìn thấy sự thiếu vắng
này nên che đậy bằng tua áo dài, bằng những thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho
người khác thấy được sự thông minh của họ, nhưng đó là sự thông minh không có
đạo đức, một sự thông minh trống rỗng. Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân
thành và khiêm tốn nhìn nhận những sơ sót để xin ơn sám hối và canh tân. Bài
Phúc Âm hôm nay mời gọi ta xét lại thái độ sống của mình.
Nhân dịp này ta nhắc
lại đoạn trích trong cuộc họp thường niên Hội Đồng các Giám Mục nói về việc sám
hối, nơi số 3 của bức thư chung các Đức Giám Mục Việt Nam đã viết:
"Để tâm hồn đón
nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh chúng ta cần có một số chuẩn bị.
Việc đầu tiên phải làm là sám hối, vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều,
có những lầm lỗi cá nhân của các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có
những lầm lỗi của cả tập thể các Giáo Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ.
Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có
những lầm lỗi vô tình khiến chúng ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội
đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta và cho mọi người".
Sám hối là trở về
với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em. Phải hòa giải với anh chị em, vì
chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh chị em xa
Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải
với Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là ước nguyện của Chúa Giêsu Kitô
trước khi từ giã cõi trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc
sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh liệt.
Với con người mới
chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với
anh chị em con cùng một Cha trên trời. Với con người mới chúng ta trút bỏ được
gánh nặng quá khứ để thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới
chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn
thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục
vụ.
Để sống chân thành
với chính mình, chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải, đổi mới. Để làm
tất cả những điều này chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Người khiêm nhường
biết rõ mình là ai: với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm
tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của
mình.
Ước chi bài Phúc Âm
hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để
canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm tốn. Xin Chúa ban ơn để chúng con
canh tân đời sống và được kiên nhẫn trong đời sống, được lớn lên với các nhân
đức.
15. Trách kẻ giả hình
Sự kiện có nhiều tín
hữu lấy việc phải đóng góp như là cớ để rời bỏ Giáo Hội, vén mở cho thấy một
vấn đề khác đang gây âu lo không ít cho Hội Đồng Giám mục các nước Âu Châu. Đó
là nhiều Kitô hữu đánh mất đi niềm tin của họ trong một xã hội bị tục hoá nặng
nề. Chính vì nhiều tín hữu Âu Châu không sống đạo và không liên hệ gì với Giáo
Hội nữa, nên họ thấy việc đóng góp cho Giáo Hội trở thành một gánh nặng vô lý.
Trong một xã hội
đang đánh mất đi các giá trị Kitô của mình như Giáo Hội Âu Châu, thì chỉ một
Giáo Hội sinh động với một số tín hữu sống lòng tin trung thực và xác tín mới
có sức trao ban hy vọng cho con người đang lạc hướng bơ vơ ấy. Đây là lý do
giải thích tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẩn thiết khuyến khích
công tác "tái truyền giảng Tin Mừng" và kêu gọi các quốc gia tái khám
phá ra nền văn hóa Kitô của mình.
Nhưng thế nào là
sống lòng tin trung thực cho một Giáo Hội sinh động? Các bài đọc Phụng vụ của
Chúa Nhật 31 Thường Niên hôm nay cống hiến cho chúng ta một số tư tưởng, giúp
chúng ta duyệt xét lại lòng tin của mình vào Giáo Hội.
Bài Tin Mừng hôm nay
được thánh Matthêu ghi lại cuộc đụng độ trầm trọng giữa Chúa Giêsu và hàng lãnh
đạo Do Thái, đồng thời nó cũng diễn tả tình trạng căng thẳng sự đổ bể liên hệ
giữa cộng đoàn Do Thái và cộng đoàn Kitô giáo trong thời sơ khai.
Cuộc đụng độ ấy cho
thấy hai loại Giáo Hội đối nghịch nhau: Thứ nhất là một Giáo Hội đầy dẫy những
tín hữu thủ cựu huênh hoang, phách lối, ham hố quyền bính, vụ luật và dùng luật
lệ làm bình phong che đậy cuộc sống giả dối tội lỗi của mình. Thứ hai là một
Giáo Hội sống theo tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu, trong đó hàng lãnh đạo là
những người khiêm tốn, thánh thiện, biết hy sinh xả kỷ phục vụ và sống nêu
gương cho người khác.
Vậy, khi mạnh mẽ chỉ
trích hàng lãnh đạo Do Thái, Chúa Giêsu đã phản đối quyền lãnh đạo hợp pháp của
họ, nhưng đồng thời Ngài cũng vạch trần những thái độ sống đạo sai lạc của giới
lãnh đạo, của hàng tư tế, của giới luật sĩ và biệt phái, giới ký lục và các bô
tão. Họ là những người thông hiểu luật Chúa, đáng lý ra họ phải nêu gương cho
tín hữu thì ngược lại họ lại gây nên gương mù, gương xấu cho dân chúng.
Vì thế, Chúa Giêsu
đã tố cáo thái độ sống đạo lệnh lạc của họ là không trung thực, sống phản
chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không sống các điều mình rao giảng. Họ
dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo, trong sạch, liêm chính, không ham
danh ham lợi, không chạy theo của cải vật chất trần gian, biết chia sẻ với
người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống hách, bê tha dục vọng, tranh
giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền bính và sống ích kỷ, gian ác
và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều. Thái độ nói một đàng làm một nẻo
ấy của họ bôi nhọ và giảm uy tín Giáo hội, khiến cho giáo dân từ bỏ Giáo Hội và
làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ
tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà Ngài còn tố cáo việc sống đạo vụ
hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân giữ luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm
rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt của luật. Tâm thức luật lệ ấy
khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật lệ, cam đoan đủ điều và biến
luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự do tinh thần trong cuộc sống
lòng tin, khiến cho liên hệ giữa tín hữu với Thiên Chúa trở thành một gánh nặng
đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các luật lệ cột buộc bao vây tư bề.
Thật ra, các liên hệ
với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận được lòng yêu thương nhân thứ và
quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế, cuộc sống lòng tin phải là cuộc
sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an bình, chứ không phải là nhắm
mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.
Hơn nữa, kiểu sống đạo
giả hình và phô trương của họ mang tính cách háo danh, thích ăn trên ngồi trốc,
thích được nịnh hót, thích được xưng tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng
vọng.
Mặc dù không thi
hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái khi giảng dạy ở Hội đường thì
họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh hoang, vạch đường chỉ lối cho
người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống riêng tư thì chui đầu vào ngõ
bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới dám làm. Vậy, những kẻ giả hình
đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt điểm tên mà bảo rằng: "Ngươi
là cái mả tô vôi, ở ngoài thì trắng trẻo sạch sẽ, bên trong thì đầy thây ma xác
chết thối tha, là những phường nói một đàng làm một nẻo".
Nếu chúng ta không ý
thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả
hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như vậy. Không trách sao được, khi chúng
ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà đời sống mình lại không đạo đức chút
nào? Không trách làm sao được khi mình mở miệng răn bảo người khác không nên
trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ,
tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha làm sao được khi mình dạy người khác
phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh trong đấng bậc mình, còn mình thì
đưa người cửa trước, đón người cửa sau.
Tin Mừng hôm nay
nhắc nhở cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện với từng người
trong chúng ta trong cuộc sống, diện đối diện, mắt nhìn mắt, chúng ta hãy để
cho lời Ngài xoáy vào tâm can, vào tâm hồn chúng ta. Vậy chúng ta đừng sợ chi
cả vì bao lâu chúng ta còn sợ Lời Chúa, thì bấy lâu chúng ta còn bào chữa để
che giấu cho con người thứ hai trong chúng ta, con người chỉ thích bóng tối.
Hãy lôi cổ con người thứ hai đó ra ánh sáng Lời Chúa để định bệnh cho nó. Hãy
mổ xẻ nó và với ơn Chúa hãy băng bó cho nó, tạo lại những nếp sống hài hòa
trong mọi lãnh vực của đời sống chúng ta.
Thật vậy, sự hài hoà
mọi lãnh vực trong đời sống của mình không phải là chuyện dễ, vì con người
chúng ta đều có giới hạn. Nhưng Thiên Chúa đã đặt vào trong con người chúng ta
những ý nghĩ của điều thiện hảo, giúp chúng ta hướng đến sự sống vô biên. Vậy
chắc chắn điều Chúa muốn là chúng ta cố gắng trong khả năng, trong địa vị của
mình để trở thành một mẫu gương sống cho người khác, nhất là những người mà
chúng ta có trách nhiệm hướng dẫn dạy dỗ họ.
Có như thế, chúng ta
mới giảng dạy cho người khác một cách xác tín, mạnh dạn khuyên bảo người khác
mà không đớ lưỡi, mà không ngượng miệng, không cứng họng, nhất là người khác đó
là con cháu của mình. Và như thế, mỗi người chúng ta mới thực hiện được lời
khuyên tha thiết của Chúa Giêsu: "Chúng con phải sống thế nào để người
khác nhìn vào chúng con mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời".
Chúng ta cũng nên
biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống, nếp sống gương mẫu của các Kitô
hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường cho người khác tin vào Thiên
Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần phải có đời sống gương mẫu
để củng cố đức tin. Vì chính nhờ đời sống ngay lành, thánh thiện, công bình và
bác ái của những người tin Chúa sẽ làm cho những người khác phải đặt câu hỏi.
Nhờ đó mới khơi dậy trong họ một ước nguyện đi tìm Chân Thiện Mỹ mà Chân Thiện
Mỹ tuyệt đối chính là Thiên Chúa vậy.
16. Sống chân tình
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Saba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để
thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả.
Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các
nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
Những bông hoa giả
có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống. Những kẻ giả hình
nói nhiều làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực
hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu vạch trần những con người giả hình ấy. Người nói: “Họ bó những gánh
nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay
vào”. Người giả hình còn nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ
trích. Như tính khoe khang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính
trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là thầy. Sau khi nghe
Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai trong chúng ta cũng thấy dáng dấp
của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công
lênh thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.
Đức Giêsu quả đã
không nương tay khi cầm con dao mổ, rạch sâu vào ung nhọt của lương tâm mỗi
chúng ta. Cuộc giải phẫu ấy làm chúng ta đau buốt, nhưng sau khi đã lấy ra hết
ung nhọt hôi tanh của tính giả hình, chúng ta sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.
Chúng ta sẽ chỉ sống
những gì mình nói và chỉ nói những gì mình đã làm. Đức Gioan Phaolô II đã nói
“Con người ngày nay không cần những thầy dậy nói suông, nhưng cần những chứng
nhân sống điều họ nói”.
Chúng ta không bao
giờ phê bình lên án một ai, vì khi chỉ trích kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm
che giấu những tật xấu nơi chính mình, là chúng ta không dám đối mặt với sự
thật nơi bản thân, bởi sự thật đó buộc chúng ta phải sám hối và canh tân luôn
mãi.
Trong thẳm sâu của
lòng người, ai cũng muốn có được một chút danh vọng, ai cũng thích trổi vượt
hơn người. Hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu
cầu muốn làm lớn trong mỗi chúng ta: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải
làm người phục vụ anh em”. Điều này Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy
người là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và
nhất là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, làm
lớn theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình
phục vụ họ trong yêu thương. Thánh Phaolô viết: “Người được chấp nhận không
phải là để tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao”. Hãy soi đời mình
vào tấm gương Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp nhất.
17. Các kinh sư và Pharisiêu giả hình
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Động lực căn bản
nào khiến những người Pha-ri-siêu hành động như vậy? Ta có bị thúc đẩy bởi động
lực đó không?
2. Nếu mọi việc tốt
đẹp ta làm đều làm nhằm để được tiếng khen, để được ca tụng, thì người khác có
nghĩ rằng ta tốt, ta đạo đức không? Thiên Chúa sẽ đánh giá ta thế nào? Trước
mặt Ngài, đạo đức của ta là đạo đức gì?
3. Muốn thánh thiện
đích thực, ta phải xây dựng sự thánh thiện đó trên nền tảng nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tật xấu chung của con người:
muốn được mọi người nể phục tôn trọng, muốn được hơn người khác
Đọc bài Tin Mừng hôm
nay, ta thấy ngay hai phần rõ rệt diễn tả hai tinh thần đối chọi nhau. Phần đầu
nói lên tinh thần “phình to bản ngã” của người Pha-ri-siêu, thích đặt nặng “cái
tôi”, đưa “cái tôi” của mình lên trên “cái tôi” của người khác. Còn phần sau là
tinh thần “tự hủy” của Đức Giêsu, là tinh thần từ bỏ mình, quên mình, xả kỷ,
đặt “cái tôi” của mình dưới “cái tôi” của kẻ khác.
Tinh thần “phình to
bản ngã” không chỉ là tâm lý của những người Pha-ri-siêu, mà còn là tâm lý của
đại đa số nhân loại chúng ta. Chúng ta thích được mọi người nể phục, ca tụng,
đề cao; thích khoe những ưu điểm, thành tích của mình; thích có địa vị hay
quyền lực trong xã hội hay Giáo Hội; thích được người khác phục vụ, qụy lụy; ai
nói đụng chạm đến mình thì tỏ ra bực bội; thấy những người chung quanh hơn mình
thì đâm ra buồn nản, ganh tức, v. v.. Tâm lý như thế là tâm lý rất bình thường,
không mang tính bệnh hoạn. Nó chỉ trở thành bệnh hoạn khi trở nên quá đáng,
nghĩa là ước muốn được hơn người trở thành một nỗi ám ảnh, hay biến ta thành
một người đầy tham vọng, và muốn thỏa mãn những mong ước ấy với bất cứ giá nào,
bất chấp phải làm những điều trái lương tâm... Tình trạng bệnh hoạn ấy sẽ khiến
tâm hồn ta thường xuyên mất bình an và làm người khác khó chịu.
Muốn nên thánh, ta
phải vượt lên trên tâm lý bình thường ấy. Nếu ta thắng vượt được tâm lý đó, thì
ta đã trở nên hơn người bình thường một bậc. Và lên được bậc này là lên được
bậc căn bản nhất để nên thánh rồi. Thật vậy, không ai có thể nên thánh nếu vẫn
còn trong tình trạng tâm lý coi “cái tôi” của mình là “cái rốn của vũ trụ”, là
hơn hết mọi người, và coi ý riêng, ý kiến, quyền lợi mình cao hơn ý riêng, ý
kiến, quyền lợi người khác.
2. Coi chừng kẻo thứ đạo đức
của ta đang được xây dựng trên tâm lý muốn “phình to bản ngã”
Khi ta tự đặt ta cao
hơn người khác hoặc những gì của ta cao hơn của người khác thì ta cũng mong
muốn, thậm chí đòi hỏi người khác phải coi ta hơn bản thân họ, hoặc những gì
của ta hơn của họ. Một người luôn đặt nặng “cái tôi” của mình như thế vẫn có
thể được mọi người coi là đạo đức, thậm chí là “đạo cao đức cả”, nhờ tuân giữ
chi tiết và hoàn hảo các luật lệ tôn giáo, hoặc làm được những việc phúc đức
lớn lao như những người Pha-ri-siêu thời Đức Giêsu. Họ sẵn sàng tuân giữ mọi
quy luật tôn giáo, làm những hành động tốt, không phải vì mến Chúa yêu người,
mà vì muốn được mọi người chung quanh nể phục, ca tụng, coi mình là người đạo
đức, và nhờ đó, tín nhiệm mình, tôn mình lên những địa vị cao trong xã hội hay
Giáo Hội.
Nhưng trước con mắt
Thiên Chúa, tinh thần “phình to bản ngã” ấy làm hỏng tất cả những gì có vẻ tốt
đẹp của họ. Tinh thần ấy đã biến những hành vi đạo đức như đọc kinh cầu nguyện,
làm phúc bố thí, có vẻ yêu thương… thành những hành vi vị kỷ. Vì những hành vi
ấy không xuất phát từ động lực yêu thương. Trước mặt Thiên Chúa, giá trị đạo
đức của một hành động phần rất lớn hệ tại động lực thúc đẩy: càng vị tha, càng
vì yêu thương thì càng có giá trị, còn càng vị kỷ thì càng giảm giá trị. Điều
này thánh Phao-lô nói rất rõ: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố
thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng
chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Những hành vi ấy, cho dù vĩ đại, có vẻ đầy
tình thương, hay đem lại lợi ích cho rất nhiều người khác, nhưng vì không được
thúc đẩy bởi động lực yêu thương, nên chẳng có giá trị trước Thiên Chúa, và
chẳng đem lại lợi ích tâm linh cho ta. Khi làm vì ta, thì ta đã đạt được những
lợi ích trần thế, nghĩa là “đã được phần thưởng rồi” (Mt 6,5b).
Chính trong viễn ảnh
này mà câu Kinh Thánh sau đây trở nên dễ hiểu: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ
thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân
danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm
nhiều phép lạ đó sao?... Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết
các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,22-23).
Việc nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ, tự bản chất đều là những việc đạo đức,
nhưng nếu làm với động lực vị kỷ chứ không phải vì yêu thương, thì chẳng có giá
trị gì về tâm linh. Nếu dựa vào những việc đạo đức kém giá trị ấy để lên mặt tự
hào và khinh khi người khác, thì những việc ấy lại trở thành tội ác! Vì thế,
muốn nên thánh, ta cần phải thường xuyên thanh luyện động lực khi làm những
điều thiện, những việc đạo đức.
3. Sự thánh thiện đích thực
được xây dựng trên nền tảng tự hủy, quên mình, xả kỷ, yêu thương
Thứ đạo đức của
người Pha-ri-siêu được xây dựng trên nền tảng “phình to bản ngã”, nên đó là thứ
đạo đức giả, có thể được người đời lầm tưởng mà đánh giá cao, nhưng trước mặt
Thiên Chúa chẳng có giá trị gì. Đức Giêsu muốn chúng ta, những kẻ theo Ngài, là
những người đạo đức thật sự. Nghĩa là đạo đức của ta phải được xây dựng trên
nền tảng tự hủy và yêu thương. Ngài khuyên chúng ta đừng ham được mọi người gọi
mình là “ráp-bi”, là “cha”, là “thầy”, là “người lãnh đạo”... nghĩa là đừng ham
được mọi người nể phục, kính trọng, đề cao, đừng khao khát quyền lực, địa vị...
Hãy tự coi mình là một số không, chẳng có gì đáng tự hào, đáng cậy công... Vì
xét cho cùng, ta chẳng có một điều gì có giá trị do tự ta làm ra cả. Tất cả
những gì có giá trị nơi ta đều đến từ Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Bạn có gì
mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã
không nhận lãnh?” (1Cr 4,7).
Khi ta tự hào với
người khác về đạo đức, tài năng, lòng can đảm... thì điều ấy giả thiết rằng ta
đã tự coi những thứ tốt đẹp ấy là do ta chứ không phải do ai khác. Thế là ta đã
trở thành kẻ vô ơn đối với Thiên Chúa, vì không gì ta có mà không phải do Ngài
ban. Gioan Tẩy giả nói với những người Pha-ri-siêu: “Đừng tự hào rằng:
"Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên
Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham” (Mt 3,9).
Cũng vậy, Thiên Chúa có thể biến những kẻ vô dụng, hèn kém nhất trong thế gian
này, những kẻ mà ta đang khi rẻ thành những kẻ đạo đức và tài năng hơn ta. Và
Ngài cũng có thể giảm các ân huệ Ngài vẫn ban cho ta, lập tức lúc đó ta trở
thành kẻ không ra gì. Biết bao người đang được mọi người coi là cao cả mà chỉ
vì bị mất ơn Chúa đã trở thành kẻ tầm thường! Như vậy, người hiểu biết và khôn ngoan
đích thực sẽ không bao giờ dám tự hào về mình điều gì. Thánh Phao-lô khuyên:
“Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1,31; x. 2Cr 10,17).
Một người đạo đức
thật sự sẽ không “làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23,5), “cốt để
người ta khen” (Mt 6,2) như những người Pha-ri-siêu, mà trái lại sẽ làm theo
lời khuyên của Đức Giêsu: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải
làm” (Mt 6,3); “khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng
Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (6,6). Những việc tốt đẹp ấy nếu ta
không làm vì ta, để vinh danh ta, mà làm vì yêu thương, vì ích lợi của tha
nhân, thì dù nhỏ mọn, chúng vẫn có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Còn
nếu làm vì ta, để được khen, được nể phục, thì việc ấy dù có lớn lao đến đâu,
cũng trở nên vô giá trị trước Thiên Chúa, bất chấp chúng được người đời ca tụng
thế nào. Vậy chính tinh thần tự hủy, quên mình, xả kỷ, vị tha khi hành động mới
làm cho hành động của ta có giá trị, và giúp ta nên thánh thật sự.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa
nói với tôi: “Cha dựng nên con từ hư vô, và dựng nên người khác cũng từ hư vô.
Tự bản chất và tự bản thân con, con chẳng hơn người khác một chút nào. Ngược
lại người khác cũng chẳng hơn con chút nào. Con có hơn người khác được điều gì,
thì do chính Cha đã ban đủ ơn để con hơn được như vậy. Thế thì con có lý do gì
để lên mặt với những kẻ thua kém con? Rất có thể một lúc nào đó, Cha sẽ lại cho
những kẻ kém con, những kẻ con khinh thường ấy hơn con. Tốt hơn là con hãy quên
con đi, đừng tự coi mình là gì cả. Chính thái độ ấy làm cho con trở nên cao cả
trước mặt Cha, làm đời sống con hạnh phúc và tốt đẹp biết bao! Cha mong con có
thái độ ấy”.
18. Nói và làm
Qua đoạn Tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc kết án bọn biệt phái và luật sĩ là những
người lãnh đạo tôn giáo trong dân Do Thái. Thế nhưng, biết đâu những lời kết án
nghiêm khắc ấy cũng được gửi đến cho mỗi người chúng ta, bởi vì những khuyết
điểm của họ cũng là những khuyết điểm của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Nhìn lại khuôn mặt
của bọn biệt phái và luật sĩ, chúng ta không khỏi giật mình bởi vì bản thân
chúng ta cũng có những đường nét nào đó giống như họ. Vậy đâu là những khuyết
điểm chính yếu bọn biệt phái và luật sĩ đã mắc phải để rồi đã bị Chúa Giêsu chỉ
trích và phê bình một cách gắt gao?
Khuyết điểm thứ
nhất, đó là họ nói mà không làm. Có một khoảng cách vừa sâu lại vừa rộng giữa
những điều họ giảng dạy với những điều họ thực hành trong đời sống cá nhân.
Chúa Giêsu đã diễn tả thật chính xác về họ như sau:
Họ nói mà không làm.
Họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng
làm quàng một nẻo, họ làm ngược lại những gì họ đã nói và đã giảng theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng
bồ dao găm.
Và như vậy, điều
quan trọng đối với chúng ta là phải thống nhất đời sống, để việc chúng ta làm
ăn khớp với lời chúng ta nói và dạy. Lời nói phải biểu lộ những gì ấp ủ trong
cõi lòng, chứ không phải chỉ là sự vận dụng khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để
thu hút và lôi cuốn người khác như người ta vốn thường bảo:
- Khéo mồm mép, khỏe
tay chân.
Trong nghi lễ phong
chức Linh mục, Đức Giám mục đã khuyên các tân chức như sau:
- Khi suy gẫm Lời
Chúa, các con hãy chú tâm tin điều chúng con đọc. Dạy điều các con tin và làm
điều các con dạy.
Mong rằng chúng ta cũng
sẽ thực hiện được như vậy.
Bọn biệt phái nói mà
không làm, nhưng lại bắt người khác phải làm. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh
sống động để diễn tả về khuyết điểm này:
- Họ chất những gánh
nặng lên vai người khác, còn chính bản thân họ thì lại không muốn đụng ngón tay
lay thử.
Thái độ này ngày nay
chúng ta gọi một cách khôi hài là giám đốc, giám xúi chứ không phải là giám
làm, giám nhận lấy trách nhiệm của mình.
Như vậy ở đây chúng
ta lại thấy xuất hiện một khoảng cách giữa điều chúng ta làm với điều chúng ta
buộc người khác phải làm. Chúng ta khoan dung với bản thân, nhưng lại hết sức
nghiệt ngã với người khác. Dường như chúng ta đòi hỏi người khác là để khỏa lấp
sự yếu đuối của bản thân.
Khuyết điểm thứ hai,
đó là tính háo danh và tự mãn. Họ làm mọi việc cốt để được người ta thấy. Như
vậy cái đích nhắm của mọi hành động đó là tiếng khen, uy tín và danh dự cá
nhân. Tất cả đều qui về cái tôi của mình, đều nhằm lôi kéo sự chú ý của người
khác. Thậm chí cả những hành vi đạo đức cũng biến thành một thứ son phấn để
trang điểm cho bộ mặt giả hình của chúng ta.
Thiên Chúa bị bỏ rơi
khi các việc đạo đức của chúng ta được khua chiêng gióng trống, nặng phần trình
diễn, khiến người ta chỉ thấy được bản thân chúng ta mà không thấy được chính
Thiên Chúa.
Với một vài nét chấm
phá đơn sơ, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ bộ mặt giả hình của bọn Biệt
phái và luật sĩ. Biết đâu, đó cũng là bộ mặt giả hình của mỗi người chúng ta.
Chính vì thế, chúng
ta hãy cầu xin để mỗi người chúng ta luôn sống trung thực với bản thân, với
người khác và với Thiên Chúa. Tư tưởng thì đi đôi với lời nói. Còn lời nói thì
lại đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng
ta đều không quanh co, không uẩn khúc, nhưng trong suốt như pha lê.
19. Chú giải của Noel Quesson
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu
ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm,
hãy giữ...
Bản văn này là một
phần cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa Đức Giêsu với những quyền bính tôn giáo ở
Giêrusalem: cuộc khổ nạn sắp đến gần và chúng ta biết rằng sự khước từ của các
thân hào ở thủ đô là một trong những nguyên nhân cái chết của Đức Giêsu.
Vào thời kỳ Mátthêu
viết Tin Mừng của ngài, cuộc tranh luận nổ ra một cách bi thảm: Sau khi Đền thờ
bị phá hủy vào năm 70, các người Pha-ri-sêu đã trở thành nhóm duy nhất còn tồn
tại có tổ chức... và được quy tụ lại ở Giam-ni-a (Giáp nê), họ chính thức tuyệt
thông với những người Do Thái theo Kitô giáo, coi những người này như những
người lạc giáo và trục xuất họ ra khỏi Hội Đường Do Thái.
Những nhận xét về
lịch sử này, tuy vậy, không cho phép chúng ta nghĩ rằng Matthêu chỉ đơn thuần
nghĩ ra các cuộc tranh luận chống Pha-ri-sêu ấy. Đức Giêsu rõ ràng đã chết vì
chống đối lại một số thủ lãnh tại thủ đô. Điều đó không có nghĩa là tất cả
những người Pha-ri-sêu đều đáng bị lên án. Và trong bất kỳ trường hợp nào, điều
đó không thể nuôi dưỡng một cuộc bút chiến chống Do Thái. Vả lại chúng ta nhận
thấy rằng, trong câu đầu tiên Đức Giêsu khuyên "thực hành và tuân giữ
những điều các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng dạy". Vì thế Người thừa nhận họ
có thẩm quyền trong kiến thức về Luật của Thiên Chúa. Đức Giêsu không phê phán
học thuyết và những nguyên tắc của người Pha-ri-sêu. Người yêu cầu chúng ta áp
dụng những điều họ dạy.
Nhưng đừng theo hành động của
họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Nếu Đức Giêsu tán
đồng lý tưởng mà các Pha-ri-sêu đòi hỏi, thì Người lại trách họ rõ ràng đã
không đem lý tưởng đó ra thực hiện cho đủ. " Vậy có một sự nghịch nghĩa
khi tiếp thu tư tưởng của Đức Giêsu để biện minh cho thái độ bừa bãi trên bình
diện thực hành tôn giáo. Người ta còn nghe quá nhiều những lời biện minh dễ
dãi: "Tôi không đi dự thánh lễ bởi vì các Kitô hữu không tốt hơn những
người khác... đó là những người Pha-ri-sêu! Chính Đức Giêsu không phê bình
những người Pha-ri-sêu vì họ "thực hành" quá nhiều nhưng vì họ thực
hành không đủ lý tưởng của họ.
Họ bó những gánh nặng mà chất
lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.
Chúng ta thấy lại
một nét nổi bật của Đức Giêsu: Người bênh vực những người nhỏ bé, nghèo nàn,
yếu đuối. Các kinh sư là những học giả. Ngày nay hẳn người ta gọi đó là những
nhà trí thức, những người biết rành về Kinh Thánh. Những người Pha-ri-sêu đúng
ra là những người sùng đạo. Ngày nay, người ta sẽ nói đó là những chiến sĩ, những
người dấn thân để biến đổi xã hội. Nguy cơ lớn của học giả và người quảng đại
là họ rất đòi hỏi những người khác khi áp dụng những nguyên tắc cao cả của họ
cho các tập tục bên ngoài, thay vì xét lại chính bản thân mình. Canh tân người
khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
Lạy Chúa, xin giúp
đỡ chúng con luôn sống nhân từ với người khác và khắt khe với chính chúng con.
Xin làm cho chúng con gánh bớt gánh nặng của người khác và chớ để chúng con
thành một gánh nặng cho những người xung quanh chúng con.
Họ làm mọi việc cốt để cho
thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật
dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội trường, ưa
được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.
Những hộp kinh là
những hộp nhỏ chứa những bản văn Kinh Thánh mà người ta dùng dây cột ở trán và
cổ tay: đó là một cách để nhớ lại lời Chúa (Xh 13,9-16; Đnl 6,8-11,18). Những
tua áo ở lai áo cũng là một cách để nhắc người ta nhớ đến những điều răn của
Thiên Chúa (Ds 15,37; Đnl 22,12).
Tập tục này giống
với tục lệ đeo huy chương, vòng cổ, nhẫn.
Đức Giêsu không lên
án những tập tục này tự nó. Chính Đức Giêsu cũng mang những tua áo (Mt 9,20;
14,36). Nhưng ở đây Đức Giêsu công kích thói tự kiêu vặt vãnh về tôn giáo:
Người ta khoe khoang lòng sùng đạo của mình. Người ta tìm cách để được chú ý.
Người ta đặt mình ra trước, chạy theo vinh hoa, phô trương thói kiêu căng hão
huyền, tìm kiến những đặc ân đặc quyền. Tất cả đều là một khuyết điểm mà thời
nào cũng có. Mỗi thời đại theo cách của thời đại đó.
Phần anh em, thì đừng để ai gọi
mình là “ráp-bi".
Công thức này chỉ
cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu hơn tất cả những người Pha-ri-sêu của thời
Người và quả thật, đây là lời Người nhắc nhở các môn đệ của mình. Thay vì lúc
nào cũng áp dụng Tin Mừng cho những người khác, ví dụ như thay vì lên án những
người giảng đạo nói mà không làm “bó những gánh nặng mà chất lên vai các tín
hữu" thì chúng ta phải trở lại với chính mình: Phần anh em, đừng bắt người
ta tôn xưng mình, cho mình được hưởng đặc quyền.
Còn tôi, cái cách
của tôi làm cho tôi rơi trong sự lệch lạc ấy là gì?
Vì anh em chỉ có một Thầy; còn
tất cả anh em là anh em với nhau.
Đức Giêsu lên án
thói tự phụ rằng chúng ta phải là những người nắm giữ chính thức học thuyết
đúng nhất. Chỉ một mình Thiên Chúa mới dạy chân lý tuyệt đối. Phần chúng ta,
chúng ta chỉ đến gần chân lý ấy mà thôi. Còn tất cả anh em là anh em với nhau,
Công thức này ngắn gọn, đầy những yêu sách. Đây là một yêu cầu về sự bình đẳng
sâu xa giữa chúng ta với nhau: Một lần nữa, tôi phải áp dụng cho chính tôi
những lời ấy: tôi có xu hướng muốn thống trị ai? Tôi có xu hướng muốn nhìn ai
một cách ngạo nghễ, muốn khinh bỉ, phán xét ai?
Anh em cũng đừng gọi ai dưới
đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.
Mỗi lần mà Đức Giêsu
truyền cho chúng ta có những thái độ trên bình diện đạo đức (làm điều này...
không làm điều kia...), Đức Giêsu đều dùng các thái độ và xác tín của đức tin
để nâng đỡ chúng. Ở đây yêu sách về sự bình đẳng bắt nguồn trong sự phụ thuộc
của chúng ta trước Thiên Chúa. Đức Giêsu không đòi bãi bỏ mọi phẩm trật, quyền
bính, tình phụ tử nào có thể thay thế cho Thiên Chúa. Đây là một yêu sách triệt
để của tự do? Mọi con người đều có quyền gặp Thiên Chúa một cách trực tiếp.
Không một thế phẩm nào được thay thế cho Đấng Duy Nhất, Đấng có thể cứu chuộc
con người. Vâng, đối với Đức Giêsu việc gặp gỡ tình yêu của Chúa Cha, ở trên
trời rất quan trọng đến độ mọi tấm chắn kính lọc, mọi sản phẩm thay thế mọi thế
phẩm bất kỳ nào xem ra đều có hại. Đừng gọi ai dưới đất này là "cha"!
Chắc chắn người ta có thể cho một người tước hiệu này nhưng không nên vì thế mà
bị giam hãm trong mối quan hệ ấy, và trở thành ấu trĩ như trẻ con. Đức Giêsu
biết rằng "chỉ có" Thiên Chúa mới là Thiên Chúa.
Anh em cũng đừng để ai gọi mình
là người lãnh đạo vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô
Đây cũng là lời cảnh
báo tương tự không nặng được nhắc lại dưới những hình thức khác nhau. Xuyên qua
những công thức ấy, chúng ta đã chẳng có thể khám phá chính điều chủ yếu của
lời giáo huấn sao? Người lãnh đạo không phải là người lôi kéo người khác đến
với mình nhưng lôi kéo người khác đến với chân lý.
Nhà giáo dục Kitô
giáo, theo một ý nghĩa sâu xa hơn chỉ thật sự thành công trong việc giáo dục
nếu người ấy có thể dẫn học trò mình bước vào quan hệ trực tiếp với Đức Giêsu.
Trách nhiệm của cha mẹ, các nhà giáo dục và các linh mục vì thế rất nặng nề và
kỳ diệu: một ngày kia họ phải tự quên mình là "thầy", bởi vì học trò
mình đã tìm thấy vị Thầy duy nhất, vị "Lãnh đạo" duy nhất. Cuối cùng,
một người dạy giáo lý chỉ đạt được mục đích khi dẫn đưa người học giáo lý đến
kinh nguyện cá nhân để gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa. Và một nền giáo dục chỉ
thật sự đạt được mục đích của nó nếu người được giáo dục một ngày kia có thể
không cần đến nhà giáo dục nữa để hướng dẫn cuộc đời mình trong sự tự do hoàn
toàn và dưới cái nhìn nội tâm của vị Thầy duy nhất.
Trong anh em, người làm lớn hơn
cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ
xuống, sẽ được tôn lên.
Công thức này làm
ngạc nhiên, dễ nhớ vì tính chất nghịch lý, là một trong số những câu mà Đức
Giêsu đã phát biểu. một cách rõ ràng dễ nhớ nhưng người ta không thể xác định
vào thời điểm chính xác nào trong sự giảng dạy của Người. Thật vậy, người ta
tìm thấy câu ấy trong những văn cảnh khác nhau. Trong Matthêu (20,26) để gạt bỏ
tham vọng của các con trai ông Dêbêđê: Trong Luca (14,11), để mời gọi các môn
đệ không nên chọn chỗ nhất ở bàn tiệc. Trong Luca (18,14), để phục hồi danh dự
cho người thu thuế trước sự tự mãn của người Pharisêu. Dù sao, tư tưởng ấy chắc
chắn là một xác tín của Đức Giêsu mà Người đã không ngừng nhắc lại trong những
trường hợp khác nhau.
Do đó nó không phải
là một phương tháp hành văn của các tác giả Tin Mừng nào. Dẫu sao công thức ấy
mạnh mẽ và tra hỏi chúng ta những bản năng tự tôn của tôi là gì? Những công
việc phục vụ của tôi là gì?
20. Chú giải của Fiches Dominicales
TRONG HỘI THÁNH, CHỨC VỤ LÀ ĐỂ PHỤC VỤ,
THEO GƯƠNG ĐỨC GIÊSU TÔI TỚ
THEO GƯƠNG ĐỨC GIÊSU TÔI TỚ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Thi hành chức vụ…
Thay vì làm cho
những đối thủ của Đức Giêsu im tiếng, ba dụ ngôn về ngày chung thẩm mà chúng ta
đã suy niệm trong các ngày Chúa nhật thứ 26, 27 và 28, lại làm nổ ra một loạt
những tranh luận, trong đó bọn họ bắt tay nhau và thay phiên nhau giăng những
cạm bẫy hòng để Đức Giêsu mắc vào. Trước hết, trong Phúc âm Chúa nhật thứ 29,
là mưu mô của "môn đệ nhóm Biệt phái và những người thuộc phe
Hêrôđê": “Có nên nộp thuế cho hoàng đế hay không. Họ nêu lên câu hỏi, chắc
ăn là sẽ bắt được con tôm. Nhưng Đức Giêsu chẳng dại gì để mình rơi vào thế
lưỡng nan, Người chuyển hướng vấn đề, và dựa vào hình khắc trên đồng tiền người
ta trao cho, Đức Giêsu tuyên bố: "Hãy trả cho César những gì thuộc về
César, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa". Một câu trả
lời làm cho những kẻ hạch hỏi phải im tiếng: "Mọi người đều sửng sốt và
rút lui". Thứ đến, một đoạn không có trong bài đọc năm A, là thủ đoạn của
những người thuộc phái Sadducée, "những kẻ không tin có sự sống lại".
Bằng câu chuyện tưởng tượng về một người đàn bà với bảy đời chồng, họ nắm chắc
phen này sẽ giễu cợt được Đức Giêsu và niềm tin vào sự sống lại. Nhưng Đức
Giêsu bắt họ phải quay về với mặc khải của Thiên Chúa trong câu chuyện bụi gai
bốc lửa trong sách Xuất Hành, chương 3: Người là Đấng tự xưng mình là
"Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob,
không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là Thiên Chúa của người sống.
Nghe tin Đức Giêsu
đã "khoá miệng những người Sadducée", các ông Biệt Phái lại tấn công
Chúa. Lần này họ kéo đến cả nhóm: Thưa Thầy-một người trong bọn họ, một tiến sĩ
luật, lên tiếng vạn hỏi Chúa- điều răn nào là điều quan trọng nhất. ("Đức
Giêsu đã trả lời bằng cách liên kết chặt chẽ hai giới luật mến Chúa và yêu
người. Người kết luật: "Tất cả sách Thánh, gồng Lề luật là các Ngôn sứ,
đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy. Các đối thủ của Chúa, sau khi đã ê chề với
kết cục của ba cuộc tranh luận, không còn dám hạch hỏi Chúa điều gì nữa".
Đức Giêsu đã lật ngược thế cờ, chính những kẻ giăng bẫy để kết tội Chúa nay lại
bị Người vạch tội. Người không hề có ý xem thường quyền bính của những bậc
"ngự toà Môsê" và nắm giữ nhiệm vụ giải thích lề luật, nhưng chỉ muốn
vạch trần cho họ thấy sự bất nhất giữa cái nói (giáo huấn) và cái làm của họ:
"Họ chỉ biết nói mà không làm". Lợi dụng quyền giải thích Luật của
Môsê, họ chất trên vai kẻ khác những gánh nặng mà bản thân họ không hề đụng
vào. Hoàn toàn trái ngược với Đức Giêsu, người "chu toàn" Lề Luật,
nhưng lại tỏ ra dịu dàng, ân cần đối với những ai phải mang gánh nặng nề (Mt
11,28-30). Cho mình là mẫu mực của thiên hạ - có thể họ chân thành nghĩ thế -
"họ luôn làm mọi việc tốt để cho mọi người thấy". Họ lo tô điểm cái
vỏ bên ngoài - vỏ đạo đức vỏ địa vị xã hội- hơn là làm sao để lời nói và việc
làm của mình đi đôi với nhau.
"Hộp kinh": Đó là những túi da đựng những đoạn Kinh
Thánh mà mọi người Do Thái đạo đtíc thời đó cũng như nay thường mang trên cánh
tay trái và trên trán của mình mỗi lần cầu nguyện. Vì sợ người ta thấy không
rỏ, nên họ đã nới những hộp kinh này ra quá khổ. "Tua áo”: Đó là
những chùm len may ở bốn góc của áo ngoài mà những người Do Thái ngoan đạo thời
đó cùng như Đức Giêsu, đã mang và ngày nay cũng thế, để thường xuyên nhớ đến
các giới răn của Chúa. Những tua áo ấy cũng có kích thước quá phô trương. Danh vọng,
địa vị là những thứ họ đặc biệt thèm khát: Họ háu ngồi cỗ nhất trong đám tiệc,
chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, và được người ta chào hỏi ở những nơi công
cộng là được thiên hạ gọi là ráp bi.
2. Để phục vụ theo gương Đức
Giêsu:
Khi viết Phúc âm, vị
thánh sử muốn kể lại những câu chuyện về Đức Giêsu, bằng cách thời sự hoá chúng
lại cho các cộng đoàn Kitô hữu hôm nay đang sống trong những năm 80. Những cộng
đoàn ấy đang gặp chống đối và bách hại từ phía hội đường Do thái, những cộng
đoàn ấy đang có nguy cơ bị lay nhiễm virút Biệt phái, và một số người có trách
nhiệm trong đó đang mở ra cho thấy một thứ tinh thần kẻ cả rỗng tuếch. Thánh
Matthêu cũng thế, sau khi đã gom góp những lời của Đức Giêsu nói với các luật
sĩ và biệt phái giả hình, ông liền thuật lại những điều Chúa dạy nhằm xác định
đâu là những nét đặc thù của việc thi hành quyền bính trong cộng đoàn "các
môn đệ" của người. Đó là:
Tình huynh đệ: "Tất cả anh em đều là anh em với nhau”.
“Anh em" là từ thông dụng nhất xuyên suốt cả Tân ước, để gọi thành viên
của cộng đoàn Kitô hữu, nghĩa là của gia đình Hội Thánh. Do đó phải dứt khoát
loại trừ tính kẻ cả, tinh thần tự mãn, làm cho những ai đang thi hành một tác
vụ hay một chức năng trong Hội Thánh quên đi họ cũng chỉ là một người anh em
giữa các anh em của mình. Lòng đơn sơ: "Anh em chỉ có một
Vị Thầy là Đức Kitô anh em chỉ có một Cha, Đấng đang ngự trên trời”? những danh
xưng mà người ta có thể dành cho những vị có trách nhiệm trong cộng đoàn Hội
Thánh, không bao giờ được phép che khuất tính cách là con một Cha duy nhất mà
người Kitô hữu tuyên xưng, tư cách của các vị lãnh đạo trong Hội Thánh bắt buộc
phải là một hiện diện phục vụ, và hoàn toàn là một phản ánh trong suốt về Đấng
Duy Nhất (Assemblées du Seigneur, số 62, trang 31). Tinh thần phục vụ: Người
lớn nhất trong anh em, phải là người phục vụ. Mọi chức vụ trong Hội Thánh từ
nay đều phải được thi hành theo gương Đức Giêsu là Thầy và là Chúa, nhưng lại
"hạ mình xuống" và làm đầy tớ phục vụ các anh em của Người (cf. Rửa
chân các môn đệ)
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Một trách nhiệm phục vụ”. (L. Daloz, trong "Le règne de Dieu s'est
approché", Centurion, trang 315).
Đức Giêsu khiển
trách những người Luật sĩ và Biệt phái vì họ tự cho mình hơn kẻ khác, và muốn
tỏ mình ra hơn kẻ khác: họ nới rộng hộp kinh, nối dài tua áo, nghĩa là họ muốn
những thứ đó của họ phải nổi bật hơn của người... Họ muốn khoe mình đạo đức,
sốt sắng với Chúa và với lề Luật hơn; Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm
hàng ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi giữa nơi công cộng
và được thiên hạ gọi là "ráp bi"... Lời mô tả của Đức Giêsu thật rõ
ràng, dễ sợ, không bỏ qua điều gì. Ngược lại, chúng ta hãy nghe những gì Người
căn dặn các môn đệ: đừng đễ ai gọi mình là "ráp bi", đừng gọi ai dưới
đất là cha, đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo. Ở đây cũng thế: tất cả đều
rõ ràng! Dĩ nhiên chúng ta không nên hiểu theo nghĩa sát mặt chữ: nếu như thế
lại phải thêm dài dài không biết bao nhiêu danh xưng khác nữa mới đủ! Tuy vậy,
điều rất quan trọng các môn đệ của Đức Giêsu không bao giờ được quên, là đừng
để mối tương quan giữa họ với nhau rập khuôn theo kiểu tương quan của xã hội họ
đang sống. Cách con người liên hệ với Thiên Chúa luôn ảnh hưởng tới tính chất
của mối liên hệ giữa người với nhau. Nó cho thấy rằng mọi địa vị của con người,
mọi chức vụ trong xã hội và cả trong gia đình, mọi trách nhiệm... đều phải ở
trong thế hệ thuộc với một Đấng vừa là Tạo Hoá vừa là Cha của mọi người. Và
không một thứ quyền bính nào có giá trị nếu không qui chiều về người: Thử hỏi
nhân danh cái gì một con người tư cho mình ở bên trên một con người khác, cũng
mang hình ảnh Thiên Chúa như mình, đòi kẻ đó phải phục vụ và vâng lời mình? Bởi
chỉ có một Thầy, một Cha, và một Người Cha Đạo duy nhất! Và do việc chúng ta
chỉ có Thiên Chúa là Cha, nên tất cả loài người chúng ta đều bình đẳng như nhau
trong cùng một nhà: "Tất cả anh em đều là anh em với nhau!”. Quyền bính,
chức cả, đều chỉ là những trách nhiệm phục vụ. Chỉ trong phục vụ, chúng mới có
lý do tồn tại: "Kẻ làm lớn trong anh em sẽ là người phục vụ. Chúng ta có
thể là những danh hiệu của tình yêu; là ánh phản chiếu chính uy quyền và sự cao
cả của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã cho thấy rõ điều đó khi Người hạ mình xuống làm
người đầy tớ đau khổ và vâng phục. Mẫu gương đó của Chúa đã từ nay trở nên quy
luật cho mối tương quan giữa các môn đệ với nhau: "Ai treo mình lên sẽ bị
hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
2. “Ở bên các gia đình đang gặp
tang chế: một sứ mạng của Hội Thánh, một phục vụ huynh đệ” (do một nhóm thành viên cộng tác thuộc giáo
phận về mục vụ bí tích và phụng vụ của vùng truyền giáo phía Tây, trong
"Vers la lumière" (CRER, Angers).
"Ai có trách
nhiệm?"
"Tất cả mọi
người thuộc cộng đoàn Dân Chúa đều phải ý thức trách nhiệm của mình trong việc
cử hành an táng. Tất cả không cùng một danh nghĩa như nhau, nhưng mỗi người có
phần mình tuỳ hoàn cảnh và tuỳ chức vụ của mình (...). Cả cộng đoàn nói chung
cũng có vai trò của nó. Cả cộng đoàn được mời gọi làm chứng về niềm hy vọng và
niềm tin của mình vào sự phục sinh. Vấn đề không phải là tìm cách đưa người
giáo dân thế chỗ của linh mục, nhưng làm sao để họ hợp tác vào việc trình bày
một Hội Thánh tôi tớ.
1. Hai thái độ phải có: Một hiện diện huynh đệ: Khi có người qua đời
trong khu xóm, trường học, thôn làng, nhà máy... của mình, chẳng lẽ người Kitô
hữu chúng ta không biết đến hiện diện, một cách thực tế, và đầy kính trọng sao?
Mối liên hệ đơn sơ giữa người với người, sự quan tâm chân thành đến người khác,
có khả năng làm dịu đi nỗi đau thương của cái chết. Đến đó, hiện diện và thinh
lặng bên những con người đang đau khổ. Lắng nghe tiếng thở than, mỗi tức tươi
sự câm nín của họ. Đây không phải là lúc để diễn thuyết hay dạy đời, nhưng là
cơ hội để hiệp thông và đồng cảm, theo nghĩa trọn vẹn của nó.
2. Một chứng tá: Sự hiện diện như thế sẽ làm sáng tỏ giá trị
của mọi cuộc sống, và làm chứng về sự trân trọng của Hội Thánh đối với tất cả
những gì làm nên lịch sử của một đời người.
Những vai trò khác
nhau: Tình trạng giảm sút số linh mục, sự nhìn nhận chỗ đứng của những người dã
chịu phép thanh tẩy, ý thức về tính cộng đoàn trong mục vụ tang lễ, mời gọi mọi
phần tử trong cộng đoàn Kitô hữu phải làm tròn nhiều vai trò khác nhau... trước
khi cử hành (... ) đang lúc cử hành (... ) sau cử hành (... ) Sự ra đi của một
người thân, một người bà con, một người hàng xóm hay một người bạn luôn là một
biến cố đau thương. Người Kitô hữu trong cùng khu xóm đó không được phép tỏ ra
hờ hững. Công tác mục vụ an táng của Hội Thánh là một yếu tố quan trọng cho
việc loan báo Tin Mừng hôm nay. Tham dự vào lễ nghi an táng không phải là
chuyện chẳng đặng đừng ở đời, nó là một phần của ơn gọi của những ai đã lãnh
nhận phép Thanh Tẩy. Do đó khi ở bên những tang gia trong lúc bối rối, các Kitô
hữu đang thi hành sứ mạng của họ: trong Hội Thánh. Có lẽ cần khẩn trương lên
một kế hoạch đào tạo và thông tin cho các cộng đoàn Kitô hữu, sao để hình thành
được những nhóm phụ trách tang lễ".
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THÓI GIẢ HÌNH VÀ KHOE KHOANG
CỦA KÝ LỤC VÀ BIỆT PHÁI
CỦA KÝ LỤC VÀ BIỆT PHÁI
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Khi ấy Chúa Giêsu nói với
dân chúng và môn đồ của Người rằng". Trong Tin Mừng Nhất lãm, Chúa Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với Biệt
phái, nhưng với dân chúng và các môn đồ. Điều này thật quan trọng, nó có nghĩa
là Người không tấn công chính giáo thuyết Biệt phái, nhưng đúng ra tự đặt mình
làm trung gian giữa dân chúng và thủ lãnh xưa nay của họ để giải phóng dân khỏi
ách nặng nề mà tinh thần nệ luật của các thủ lãnh ấy đặt trên vai họ. Chắc hẳn
vì chính việc chống đối này hơn là vì những điểm đặc thù trong giáo thuyết mà
Chúa Giêsu đã bị đẩy vào chỗ chết; đối với các thủ lãnh của dân, Người chẳng
những là một tên tà đạo nguy hiểm hay một tên cuồng phái, như nhóm Essêni,
những người rất mực khinh bỉ "dân chúng" hay "đám đông” song còn
là một kẻ thù trực tiếp chuyên chống lại toàn thể dân Thiên Chúa. Mt nhấn mạnh
đến mối tranh chấp này giữa Biệt phái và Chúa Giêsu, vì ông muốn giải thích cho
Kitô hữu biết tại sao Chúa Giêsu bị đẩy đến chỗ chết do chính Biệt phái là
những kẻ điều khiển sinh hoạt Hội đường vào thời của Người.
"Ngự tòa Môisen": Không nên hiểu động từ "ngự" theo
nghĩa bút chiến, như thể Chúa Giêsu quả quyết rằng các Ký lục và Biệt phái
chiếm ngự cách trái phép tòa Môisen. Ngược lại bản văn cho thấy là Chúa Giêsu
không hề tấn công chính thế chế giáo sĩ, cũng như những kẻ mà Người tố cáo là
ký lục giả hiệu. Người khiển trách một điểm khác. Trong Tân ước, từ ngữ
kathodra, theo nghĩa tòa giảng sư, chỉ xuất hiện ở đây mà thôi (trong 21, 12 nó
có nghĩa là bàn của những người buôn bán); tòa Môisen là tòa của các giáo sĩ,
những người có nhiệm vụ giải thích áp dụng bằng cách khai triển luật Môisen.
"Họ nói mà không
làm". Trước tiên
(nhưng không phải là lần duy nhất), Chúa Giêsu tố cáo địch thủ Người có thái độ
bất nhất: giáo huấn họ có giá trị nhưng chính họ lại không trung thành; hữu
hiệu tính của giáo huấn họ, trong văn mạch này, mặc hai khía cạnh: một đàng,
các giáo sĩ là những người giảng dạy hữu quyền của dân chúng; đàng khác, mọi
điều họ nói chẳng phải là sai. Ở đây chúng ta gặp một thái độ đúng là của Do
Thái ki tô giáo, chứ không phải là cửa Do thái giáo; vì quả thực, chỗ khác,
Chúa Giêsu tấn công chính "men" nghĩa là chính nội dung giáo thuyết
giáo sĩ.
Tiếng số nhiều
"hành vi của họ" chỉ tất cả tác phong của Biệt phái, chứ không ám chỉ
đến một vài thái độ riêng biệt mà Chúa Giêsu khiển trách; ký lục và Biệt phái
chẳng phải là gương mẫu xứng đáng của đoàn chiên. Dĩ nhiên, chớ quên rằng đây
là một chân dung tập thể, chứ chẳng phải của một cá nhân nào. Vì có nhiều giáo
sĩ giữ luật rất tỉ mỉ. Khi cựu Biệt phái Phaolô tự tuyên bố mình vô phương
trách cứ trước Lề luật (Pl 3, 6), thì phải nói là ngài rất chân thành. Ở đây,
sự nghịch lý là, một cách chính thức, truyền thống giáo sĩ đã luôn luôn nhạy
cảm trước sự quàng xiên Chúa Giêsu tố cáo nơi đây: "Học, giữ và thực hành,
ngoài ra không cớ gì khác nữa" (Sifré sur le Dt 47), "Ai học mà không
thực hành, thì tốt hơn là nó đừng được sinh ra" (Sifré surle Lv 26, 3,
110), "...Torah đã được ban chính là để học, để dạy, để gìn giữ và để chu
toàn" (sifré sur les Nb 115), "...Đẹp thay những lời phát xuất từ
miệng những người thực hành chúng, đẹp thay người giảng dạy chúng và đẹp thay
kẻ đem chúng ra thực hành" (Yebamot 8,4).
"Họ có những gánh
nặng": "Gánh
nặng" mà Biệt phái chất lên vai người ta đối nghịch với "gánh nhẹ
nhàng" của vị Thầy những người khiêm hạ (11, 30). Biểu tượng
"gánh" gợi lên hình ảnh một tên nô lệ bị đè bẹp dưới sức nặng của một
đồ vật mà người ta đây cột kỹ trên vai y nhưng lại không giúp y vác lấy Động từ
"bó" chắc hẳn quy chiếu, theo nghĩa bóng, về các halakhot mà các giáo
sĩ dùng để áp đặt cho dân những trói buộc lương tâm theo cách giải thích Kinh
thánh của họ. Dầu sao, ở đây Tin Mừng không quan tâm đến tính cách nghiêm khắc
của kỷ luật (Mt không ghét bỏ thứ kỷ luật đó cho lắm, x 23, 23), nhưng là đến
thói giả hình cố ý tạo nên hai đấu: một đấu thuận lợi cho mình và một đấu đòi
hỏi cho kẻ khác. Không phải sự bất lực hay tính yếu đuối của Biệt phái, nhưng
là ý định xấu xa của họ bị tố cáo chỗ này (ou thelousin: họ không muốn); ta
biết động từ "muốn" là một tràng những thuật ngữ của Mt.
"Mọi việc của họ, họ đều
làm để được người ta thấy": Yếu khoản tố cáo thứ hai: tính cách quy ngã của các hành vi Biệt phái
làm. ở đây Mt lấy lại chủ đề và ngay cả ngữ vựng của phần thứ hai trong Diễn từ
trên núi (6, 1-6. 16- 18). Như thường lệ, ý tưởng chính trước tiên được phát
biểu (c. 5a) rồi được khai triển trong một vài thí dụ (c.5b-7).
"Thủ phù": Đây là những hộp nhỏ hình vuông bằng da
thuộc hoặc da bò con đựng những giải da dê mịn trên đó ghi 4 bản văn Kinh
Thánh: Đnl 11, 13- 22; 6, 4- 9; Xh 13, 11 - 16; Xh 13, 2- 10. Thủ phù mặc một ý
nghĩa tôn giáo rất cao nếu ta biết lý tưởng mà nó làm dấu hiệu: ghi nhớ không
ngừng kỷ niệm của Lề luật Thiên Chúa và lời cam kết tuân theo luật đó. Từ năm
13 tuổi, trẻ em Do thái mang một thủ phù trên đầu và một ở tay trái vào buổi
sáng những ngày thường, lúc giờ cầu nguyện, và đọc lên lời chúc tụng sau đây:
"Lạy Giavê Thiên Chúa Vua vũ hoàn, chúc tụng Ngài đã thánh hóa chúng con
bằng huấn lệnh Ngài và đã truyền cho chúng con mang lấy thủ phù đây". Bản
văn chúng ta ám chỉ đến một thói quen của những người Do thái quá sùng đạo mang
thủ phù cả ngày và nới rộng các giải kinh để dễ bề trông thấy. Chúa Giêsu không
khiển trách việc các giáo sĩ mang thủ phù, nhưng khiển trách việc họ muốn lấy
đó phô trương. Cũng thế đối với các tua áo, một thứ chùm lông (bằng len hay
lụa) mà, theo quy định của Lề luật (Ds 15, 37- 39) mọi người Israel tốt đều
phải mang ở bốn góc áo ngoài, như một lời nhắc nhở thường xuyên các giới răn,
phải đem ra thực hành mà Chúa đã dạy. Biệt phái đã làm to đại các tua ấy vì
muốn phô trương ta đây đạo đức.
"Chỗ nhất nơi hội
đường": Các chỗ
nhất này xây lưng lại với tráp Lề luật và quảy mặt về phía dân chúng.
"Cùng bái chào ngoài công
trường": Theo quy
luật của giáo sĩ, "người ta phải bái chào kẻ trối vượt hơn mình trong việc
hiểu biết Lề luật"; thành thử, ưa được bái chào là ưa được công nhận như
là trối vượt kẻ khác.
“Rabbi": Hạn từ hy bá Rab (lớn), vào thời Chúa Giêsu,
có nghĩa là "chúa"; người ta thường thêm một tiếp vị ngữ của ngôi thứ
nhất: Rabbi (“chúa tôi"). Với thói quen, tiếp vị ngữ này dần dần mất ý
nghĩa. Hình như vào hậu bán thế kỷ I, lúc Mt biên soạn Tin Mừng của ông, tiếng
"rabbi " này được dùng để chỉ một chức vụ tương đương với chứ(
"tiến sĩ") và,'trong nghĩa đó, dùng để gọi các thầy dạy tôn giáo và
các chuyên viên lừng danh nhất về Lề luật.
"Còn các ngươi": Đối xứng với ba thái độ kiêu căng vừa nêu là
ba mệnh lệnh truyền dạy đức đơn sơ cho một nhóm người được chỉ định 8 lần
(trong bản hy lạp) bằng đại danh từ "các ngươi". Chắc hẳn tiếng này
không quy về dân chúng nói chung, nhưng về các môn đồ (x.c. 1) và qua họ, quy
về những người hướng dẫn các cộng đoàn Kitô giáo. Qua cung giọng và lời văn,
mấy câu này bổ túc cho "bảng hướng dẫn về đời sống tu đức và mục vụ"
của chương 18. Trọng tâm của chúng không nằm trên việc cấm chế mọi phẩm trật
trong Giáo Hội, nhưng trên các động từ "chớ cho gọi mình, đừng xưng hô ai
"; chúng muốn tấn công chính lòng kính trọng đức giáo sĩ (rabbinat). Trong
ngôn ngữ sêmita, "được gọi" thường tương đương với "là Do đấy
câu 8 muốn bảo: các người đừng muốn là thầy (x Gc 3, 1), đừng tự đặt mình làm
thầy giữa các ngươi, vì "thảy của các ngươi chỉ có một". Nếu lưu ý
đến tính cách song đối của c. 10 và văn mạch chung của Tân ước (x.Ga 13,
13-14), thì Thầy duy nhất đó không ai khác hơn là Chúa Kitô.
"Đừng xưng hô ai dưới đất
là "cha": Mệnh
lệnh này xem ra phản đối thói quen gán cho một vài vị hướng dẫn cộng đoàn tước
hiệu Abba cùng trong một ý nghĩa danh dự và xã hội như tước hiệu Rabbi. Rõ ràng
là nó không nhắm đến người cha gia đình theo nghĩa đen (x. Mt l5,4-6; 19,19):
Mệnh lệnh lại càng không chống đối cái truyền thống kỳ cựu -có nơi mọi dân tộc
và trong Thánh Kinh- theo đó giữa thầy và trò phải thiết lập một mối liên hệ
tương tự mối liên hệ giữa cha và con, khiến họ thường gọi nhau là
"cha" và "con" (x. 2V2,12; Cn 4,1; 1Cr 4, 14-17; Gl 4,19;
2Tm 1,2; Tt 1,4; 1Pr 5,13; 1 Ga 2, 1.12). Chẳng hạn như trong các tiến sĩ Israel của 4
thế kỷ đầu hơn 50 vị được mang tước hiệu "Abba". Vì vậy trong các thể
chế Kitô giáo, người ta cũng dùng khá nhiều tước hiệu "cha" dưới mọi
hình thức (ví dụ: viện phụ, abbé; Đức Thánh Cha, Pape v.v...) theo nghĩa linh
tông ấy. Đấy chẳng phải là đi ngược lại Tin Mừng, vì cái quan trọng là tinh
thần chứ không phải chữ viết. Nên lưu ý là ở đây cũng vậy, các câu không nhấn
mạnh đến sự phủ nhận mọi quyền bính trong Giáo Hội cho bằng là đến mối nguy tạo
nên do những "đại nhân vật" chiếm hết danh dự dành cho Thiên Chúa và
Chúa Kitô.
Ở giữa ba lời khuyến
cáo chống Biệt Phái, lý do của chúng được lặp lại ba lần: Chỉ có một... thầy,
cha, chỉ đạo). Chiếu theo nguyên tắc ấy, nhân cách của những người lãnh đạo
Giáo Hội vừa bị hạ xuống vừa được đề cao: nhân cách đó phải nói lên sự hiện
diện của Đấng duy nhất và đồng thời là tấm màn trong suốt không ngăn che Ngài.
Cũng thế đối với vị Mục tử duy nhất (Ga), vị Thượng tế duy nhất (Dt). Kitô hữu
chỉ xem một con người như thầy, như cha, như thủ lã nh, thư mục tử, như linh
mục... trong mức độ con người ấy tham dự vào tư cách của vị Thầy, Cha, Thủ
lãnh, Mục tử, Linh mục đích thực.
"Kẻ nào tự hạ mình xuống
sẽ được nhắc lên":
ý tưởng hạ mình cần phải được giải thích theo ý tưởng phục vụ ở câu trước, vì
đây không phải là chuyện tự nhiên ưa thích xóa mình, hay anh hùng phủ nhận bản
thân hoặc khiêm nhường đến làm cho mình lụi bại. Theo nghĩa của Tin Mừng, không
ai hoạt động và sung sướng vì được hoạt động hơn kẻ phục vụ hết mình. Thì tương
lai của 5 động từ vừa có tính cách truyền lệnh (c. 11) vừa có tính cách cánh
chung (c. 12): các ngươi phải làm điều đó và Thiên Chúa sẽ trả lại cho các người
vào ngày Chung thẩm ("bị hạ xuống" và "được nhắc lên" là
những thể thụ động diễn tả hành động của Thiên Chúa). Thành thử các động từ này
không mô tả một định luật tâm lý hay xã hội tự nhiên cho rằng định mệnh con
người có thể thay đổi.
KẾT LUẬN
Óc tham vọng, tính
háo danh nói lên cái tinh thần thống trị của một quyền bính đã tách khỏi nguồn
gốc của mình, đã chiếm đoạt những quyền lợi chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa.
Khi vạch trần các tính xấu của Hội đường, Chúa Giêsu muốn đề phòng Giáo hội
Người cho khỏi nhiễm lây chúng, vì tính cách chính thống, vô hồn, tinh thần câu
nệ hình thức, óc giáo sĩ trị bao giờ cũng vẫn là những cám dỗ lớn cho Giáo Hội;
Giáo Hội chỉ có thể thoát khỏi chúng khi luôn nhớ rằng mình chỉ là "nữ tỳ
của Chúa" (Lc 1, 38), tuân phục một mình vị Chúa độc nhất ấy mà thôi, Đấng
không chấp nhận một chia sẻ nào (Mt 6, 24); uy quyền đích thực của Giáo Hội chỉ
có khi Giáo Hội biết hạ mình theo gương Chúa Kitô. Đấng vốn là lớn hơn cả nhưng
đã hóa thành kẻ bé nhất, là người đầu song đã tự: trở nên kẻ rốt hết, là Thầy
và là Chúa nhưng đã trở thành kẻ phục vụ mọi người (Mt 20, 26-27; Lc 22, 24-30;
Ga 13, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta cảm thấy
gì khi nghe lời Chúa Giêsu chỉ trích Biệt phái? Phải chăng là thỏa mãn vì nghĩ
rằng nó nhắm đúng vào những Biệt phái đời nay mà chúng ta biết rõ? Nhưng đấy
không phải là dấu chỉ của một lòng kiêu hãnh nào đó sao, lòng kiêu hãnh muốn
quả quyết rằng nhờ ơn Chúa, tôi không thuộc hạng người như vậy? Nếu chúng ta ra
khỏi nhà thờ mà trong lòng tự khen mình không phải là Biệt phái, thì đó thật là
một dấu hiệu chẳng mấy tốt lành. Môn đồ đích thực của Chúa Giêsu, kẻ biết lòng
mình rất yếu đuối và dễ buông theo đàng tội lỗi thì bao giờ cũng hiểu rằng mình
đang mang trong người mọi gốc rễ của Biệt phái, hiểu rằng bổn phận đầu tiên của
mình là tự tra vấn hơn là tự hỏi ai là Biệt phái trong xứ đạo.
2. Chúng ta cũng
vậy, mỗi người tùy theo vai trò xã hội, tuổi tác phái tính, kiến thức, chúng ta
đã chẳng từng đòi hỏi một lòng kính trọng nào đó, một sự tán thành công khai,
hay hơn nữa, một sự vâng phục và tùng quyền nào đó sao? Thanh danh và tăm tiếng
là một điều tốt, nhưng nỗi lắng lo quá độ về tiếng tăm là một chuyện không hay
gì. Sự đòi hỏi lòng vâng phục từ phía cha mẹ là một điều tốt khi nó phát xuất
từ tinh thần hiền lành và bác ái, nhưng lại trở nên xấu và hoàn toàn có tính
cách biệt phái lúc chỉ là một cái cớ để tỏ uy quyền và áp đặt ách thống trị.
3. Khi phê phán và
khinh bỉ tha nhân bằng cách đòi hỏi họ phải có một thái độ khác, chúng ta đã
đặt một gánh nặng trên vai họ và đồng thời tránh đặt lại vấn đề chính mình rồi.
Thật ra, chúng ta có thể nhận ra chính mình trong chân dung Chúa Giêsu mô tả về
Biệt phái.
4. Phẩm trật của
Nước Trời không ở trong kiến thức cũng chẳng nằm trong khả năng chuyên môn hay
trong việc điều khiển, nhưng là trong việc phục vụ. Trong Nước Trời, không ai
là chủ, chẳng ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em.
Ngay cả việc hành xử uy quyền, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng
chỉ là một hình thức phục vụ. Ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự gọi là "tôi
tớ của các tôi tớ Thiên Chúa".
5. “Kẻ lớn nhất sẽ
là người phục vụ", Chúa Giêsu đã nói thế. Rõ ràng đấy là vấn đề tập luyện
một đức khiêm nhường nào đó. Tiếng “sẽ là" chỉ rõ đây là tình trạng mà
chúng ta phải đạt cho được chứ chẳng phải là tình trạng tự nhiên. Thành thử
chúng ta không thể nào không chống lại cơn cám dỗ muốn thống trị, muốn đè bẹp
tha nhân, chống lại cơn cám dỗ muốn tỏ ra mình quan trọng mà làm thiệt hại cho
kẻ khác. Tuy nhiên đức khiêm nhường trong phục vụ không phải là việc dẹp bỏ
những khả năng tự nhiên hay là sự từ chổi hoạt động và phát triển, nhưng là một
thứ tâm trạng, một niềm xác tín rằng mình chỉ là một dụng cụ mà ước muốn duy
nhất là trở nên ngoan ngoãn trước sự thúc đẩy của Thánh Thần.
6. Có một tiêu chuẩn
cho phép ta nhận biết mình có trung thành với những lời khuyên nhủ khiêm nhường
mà Chúa Giêsu vừa ban cho ta không? "Vậy mọi điều họ nói với các ngươi,
các ngươi hãy làm theo và giữ lấy" hay nói cách khác: "Các ngươi hãy
có đủ lòng đói khát sự thật và công chính để phân biệt điều thiện bất cứ đèn từ
đâu". Một Kitô hữu thật sự khiêm nhượng không bao giờ từ chối lời lành của
một người nào đó, lấy cớ rằng kẻ ấy chẳng sống phù hợp với lời họ bảo, rằng họ
giả hình hay khoe khoang. Vì Chúa có thể dùng họ để làm cho chúng ta tốt hơn.