Mùa Vọng là thời gian chờ
Chúa đến. Cả lịch sử của nhân loại được đánh dấu bằng những lần Chúa
đến. Lần nào Ngài cũng đến bất ngờ. Ngài đã đến bất ngờ ở Bêlem, mang
hình hài trẻ thơ yếu đuối. Cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của
Ngài cũng là bất ngờ, khiến cho các môn đệ phải ngỡ ngàng. Kitô hữu là
người đang chờ, chờ ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Đây cũng
là một bất ngờ, vì không ai biết được ngày giờ Ngài trở lại. "Anh em
phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ"
(Mc 13,33-37).
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG - B
Lời Chúa: Is 63,16b-17.19b; 64,2-7; 1Cr 1,3-9;
Mc 13,33-37
MỤC LỤC
1. Tỉnh thức
Chọn bài Phúc Âm này để làm đề tài suy gẫm trong ngày
đầu năm phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta một bài học rất hữu ích và
cần thiết đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng để đón nhận Chúa vào ngày Giáng sinh
cũng như ngày Chúa gọi chúng ta đến tính sổ cuộc đời với Ngài.
Nhìn vào đời sống, chúng ta thấy tỉnh thức và sẵn
sàng là điều kiện cốt yếu để được sống còn. Ngay như trong thế giới loài vật
chúng ta cũng thấy như vậy. Một nông dân
Mỹ bị đàn quạ khoang phá hoại ruộng ngô. Ông mang súng ra bắn, nhưng không sao
lại gần được vì trên cây thông cao, có một con đậu để canh chừng khi các con
khác đang ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông mới lại gần được mà con gác không hay
biết. Một tràng đạn nổ vang, những con sống sót bay vù lên, nhưng chúng không
bay đi xa, chúng sà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ. Con chim
khốn nạn này bị đồng bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại
trong bầy, phải rời hàng ngũ mà đi nơi khác.
Câu chuyện trên đây cho thấy việc tỉnh thức và sẵn
sàng là điều rất cần thiết, loài vật còn cảm thấy phương chi là con người. Nơi
giống vật không chu toàn bổn phận tỉnh thức còn bị trừng phạt nặng nề, phương
chi là con người.
Trong cuộc sống, chúng ta thường nói: Mấy ai học được
chữ ngờ. Nghĩa là có nhiều biến cố xảy đến ngoài dự kiến của chúng ta. Nhưng có
một cái bất ngờ, tuy không do chúng ta dự liệu, nhưng lại tuỳ thuộc chúng ta
định đoạt số phận, đó là cái chết.
Đọc báo chí, nghe truyền thanh và xem truyền hình,
chúng ta thấy cái chết phảng phất ở mọi nơi, và trong mọi lúc. Nào là thiên tai
bão lụt giết chết hàng trăm người. Nào là núi lửa, động đất giết chết hàng ngàn
người. Nào là chiến tranh, đói khổ giết chết hàng vạn người. Dẫu vậy có ai nghĩ
rằng mình cũng sẽ phải chết, mà mấy ai đã tỉnh thức và sẵn sàng cho cái bất ngờ
cuối cùng ấy.
Sống sao thì chết vậy. Muốn được chết tốt lành, muốn
cho giờ chết không phải là giờ cay đắng bẽ bàng thì ngay từ lúc này, chúng ta
phải lo sống tốt lành. Đối với những người còn hồ nghi về đời sau, họ nên khôn
ngoan lý luận như nhà tư tưởng Pascal: Có đời sau hay không, điều ấy thật khó
mà chứng minh rõ rệt, tuy nhiên tôi vẫn tin có là hơn, vì dù không có, thì tin
như vậy cũng không thiệt hại gì. Còn như trong trường hợp mà có, thì không tin
quả là điều nguy hiểm. Cho nên tin và sống niềm tin ấy, thì khôn ngoan hơn.
Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây có nghĩa là hãy khử trừ
tội lỗi ra khỏi cuộc sống và tích trữ cho một kho tàng quý giá là những hành
động bác ái, là những công nghiệp chúng ta lập được khi còn sống ở đời này, để
bất kỳ lúc nào Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta cũng có thể sẵn sàng thưa lên:
Lạy Chúa, này con xin đến.
2. Tỉnh thức và cầu nguyện
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta
không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp
được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào
ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say
mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta
trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo
tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá ghìm ta xuống vực sâu vô
tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói
lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những
bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như
chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào
khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản
thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có
những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm
đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và
rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong
âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế,
nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không
mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị
quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương
dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người
đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những
khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người
lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra
ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo
đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những
nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới
gặp được Người.
Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh
thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta
được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia
đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang
sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa
phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức
là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức
là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa
hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm
khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy
sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu Mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức.
Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc
mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những
đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự
của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý.
Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa
hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường,
là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình,
hy sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức
ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp.
Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa
soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Có ơn
Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn con tỉnh thức để con nhận biết
Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Gợi ý chia sẻ
1) Tỉnh thức là đừng mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta
mê ngủ?
2) Tỉnh thức là tỉnh táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi
Chúa đến?
3) Tỉnh thức là phải hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm
những gì?
4) Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để tỉnh thức?
3. Người giữ cửa
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy niệm
Có bao nhiêu thời gian sống ở đời được chúng ta dành
cho việc chờ đợi?
Có sự chờ đợi làm ta căng thẳng, mệt mỏi; nhưng cũng
có sự chờ đợi đem lại hương vị và ý nghĩa cho cuộc sống. Người mẹ tần tảo nuôi
con, chờ ngày con thành tài. Người vợ chờ đợi ngày chồng trở về từ biên ải.
Con người không chỉ sống bằng quá khứ nhưng còn bằng
những ngóng đợi về tương lai.
Cái tương lai tưởng như mơ hồ, xa xôi mà lại lôi kéo
được cái hiện tại đi về một hướng.
Biết sống là
biết chờ đợi
Chờ đợi làm nên cuộc sống
Chờ đợi làm nên cuộc sống
Mùa Vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi. Chờ đợi Chúa
sẽ đến trong vinh quang mai này. Chờ đợi Chúa vẫn đến trong niềm vui và nước
mắt.
Chờ như người giữ cửa thức trắng đêm, vì không biết
giờ nào chủ trở về. Nhưng chờ không phải là thụ động khoanh tay mà là vuông
tròn sứ mạng được giao phó.
Ông chủ đi xa đã để lại ngôi nhà, giao quyền cho các
đầy tớ, mỗi người một việc (câu 34).
Có lẽ từ lâu ta đã thấy không cần chờ đợi Chúa, vì
chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong, những điều gần gũi hơn, thiết thực
hơn, cấp bách hơn.
Hãy nói cho tôi biết, bạn đang chờ gì, tôi sẽ nói cho
bạn biết, bạn đang đi về đâu.
Nếu không có ai để chờ, thì
cũng chẳng cần tỉnh thức.
Tỉnh thức trong đêm tối đâu phải là chuyện dễ dàng.
Tỉnh thức trong đêm tối đâu phải là chuyện dễ dàng.
"Ngài trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ... Rồi
Ngài lại đến và thấy họ vẫn đang ngủ, đôi mắt họ li bì nặng giấc" (Mt 26,40-45).
Chiến đấu chống lại sự buồn ngủ của mắt còn dễ dàng
hơn chống lại sự mê ngủ của tinh thần.
Cuộc sống vật chất ngày càng cao cung ứng cho con
người biết bao thứ ru ngủ và đưa con người vào cơn mê mà họ không hay biết.
Ma túy là mối đe dọa giới
trẻ hôm nay.
Ma túy đi vào trường học, được bán ở cổng trường, để
chích, để hút, để ngửi. Nó cho người ta sống lâng lâng trong một thế giới ảo,
để rồi không còn khả năng sống đời thực của mình nữa. Nhưng ma túy đâu phải chỉ
là bạch phiến, cần sa.
Ma túy là tất cả những gì gây nghiện, khiến con người
thành nô lệ và đánh mất mình.
Tiền bạc, tiếng tăm, tình dục, tiện nghi... vẫn là
những thứ ma túy mê hoặc con người.
Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, để thành thật tự hỏi:
"Tôi đang nghiện thứ
ma túy gì?"
Gợi ý chia sẻ
- Sống là có ước mơ và chờ đợi. Đâu là những ước mơ của bạn?
Chúa có chỗ trong những ước mơ đó không?
- Có bạn trẻ coi chuyện tình cảm là chuyện hết sức quan trọng,
đến độ dám tự tử nếu cuộc tình đổ vỡ. Bạn nghĩ thế nào là thái độ quân bình nên
có khi yêu nhau?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê mà tự sức con không sao
thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con bằng những biến cố đôi
khi mạnh mẽ, nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ đang cắt tỉa con vì
yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo để nhìn lại vẻ đẹp từng làm
con say mê, những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện, xin cho con thức
luôn và sáng luôn, trước nhan Chúa. Amen.
4. Đón chờ Chúa đến
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Khi màn đêm buông xuống, có
những người vẫn thức. Thức vì không ngủ được. Thức để xem nốt một cuốn truyện
hay một bộ phim vidéo nhiều tập... Nhưng cũng có người thức để làm việc. Họ trực
ở phòng cấp cứu, ở trạm cứu hoả, ở cơ quan an ninh, ở bưu điện. Họ là những
công nhân làm ca ba, những tài xế tàu hoả chạy suốt đêm đến sáng, những chuyến
bay ban đêm.
Và còn có những người khác
cũng thức. Thức không phải vì mất ngủ, không phải để đọc truyện hay xem phim,
mà thức để cầu nguyện. Trong các đan viện, các đan sĩ nam nữ là những người
không ngủ, với cái nghĩa là họ ca tụng Chúa 24 giờ một ngày luân phiên nhau.
Nhiều cộng đoàn tu sĩ nam nữ chầu Mình Thánh Chúa ngày đêm, từ năm này qua năm
khác. Họ tỉnh thức và cầu nguyện thay cho chúng ta, trong khi chúng ta ngủ.
Trên trái đất này, không
lúc nào mà không có người thức: Đang khi chúng ta lên giường ngủ thì ở bán cầu
bên kia, một nửa nhân loại đang vươn vai thức dậy, ăn uống, làm việc, vui chơi,
để rồi lại ngủ khi chúng ta ở đây thức dậy.
Như thế, trên thế giới,
Thánh lễ được hiến dâng liên tục ngày đêm. Nếu chỉ 2/3 trong số linh mục trên
thế giới cử hành Thánh lễ mỗi ngày, thì mỗi giờ ít nhất có hai ngàn linh mục cử
hành Thánh lễ, và mỗi phút, ngày cũng như đêm, đều có một số linh mục đang dâng
lễ cầu nguyện cho chúng ta.
Tuy nhiên, thức đêm không phải là điều tự nhiên và dễ
dàng. Ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã từng có kinh nghiệm về điều đó:
Trong Vườn Cây Dầu, mặc cho Chúa Giêsu hai lần gọi: Hãy tỉnh thức! Họ vẫn ngủ
li bì. Có lẽ lúc đầu, Chúa Giêsu tưởng họ sẽ thức cả đêm với mình để chia sẻ
nỗi khổ đau, nhưng cuối cùng, Ngài đau lòng khi thấy họ không thức nổi được một
giờ với Ngài (Mc 14,34-37).
Một trong những căn bệnh của thời đại là căn bệnh mất ngủ. Người ta phải dùng thuốc
an thần để tìm một giấc ngủ không tự nhiên. Hoặc chán đời, người ta dùng thuốc
ngủ quá liều lượng để tìm giấc ngủ ngàn thu!
Thế nhưng, hôm nay, Chúa Giêsu lại kêu gọi: Anh em
phải canh thức, kẻo bất thần ông chủ về bắt gặp anh em đang ngủ. Phải chăng
Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu phải thức suốt đêm để chờ Ngài? Chắc là không! Vậy
thì thế nào là thái độ tỉnh thức mà Chúa đòi hỏi nơi chúng ta?
Tỉnh thức không phải là không ngủ: Năm cô trinh nữ khôn ngoan
cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Điểm khác biệt là vào lúc nửa đêm,
khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan có thể ra đón với đèn sáng trong tay, vì
các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn đèn của các cô khờ dại thì đã tắt ngúm mà
lại không đem dầu theo. Lúc đó mới chạy đi mua, nên không kịp. Vậy tỉnh thức là
ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ.
Tỉnh thức là chu toàn bổn phận: Người quản gia được giao
trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (Mt 24,45-51). Nếu chủ về mà
gặp thấy anh đang làm công việc được giao, thì đúng là anh đã có thái độ tỉnh
thức. Mê ngủ là bỏ bê trách nhiệm, lạm dụng quyền hành và say sưa chè chén (Mt
24,49).
Tỉnh thức là làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được
sinh lợi (Mt 25,31-46). Số nén vàng có thể nhiều hay ít tùy người, và mỗi người
cũng chỉ phải sinh lợi tùy theo số vốn đã nhận. Mê ngủ là đào lỗ chôn giấu nén
bạc của mình, không dám đầu tư vì sợ mất vốn, nhưng cũng có thể vì lười biếng,
thụ động. Người tỉnh thức là người được chủ khen là đã trung tín trong việc
nhỏ, nghĩa là trung tín với ơn Chúa ban trong hiện tại.
Tỉnh thức là tỉnh táo để nhận ra Chúa bất ngờ đến với mình
và nài xin mình trợ giúp. Ngài xuất hiện dưới dáng dấp của một người đói khát, rách
rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam (Mt
25,31-46). Mê ngủ là để cho Chúa Giêsu ngửa tay đi qua đời mình mà không nhận
được chút gì làm quà tặng.
Cuối cùng, tỉnh thức là để cầu nguyện. Tỉnh thức luôn đi đôi với
cầu nguyện: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn cám dỗ (Mc 14,38). Chúng ta
đã làm nhiều việc cho Chúa, nhưng có thể vẫn chưa phải là con người tỉnh thức
và cầu nguyện. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ ngủ quên trong thành công tông
đồ, trong tiện nghi dễ dãi.
Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta vào bầu khí Mùa Vọng,
mùa tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng
ta phải chờ đợi. Có sự chờ đợi làm ta sốt ruột, khó chịu, nhưng cũng có sự chờ
đợi làm cho cuộc sống hiện tại trở nên đầy ý nghĩa. Dân Do Thái từ hơn 2000 năm
trước đây cho đến nay vẫn sống nhờ vẫn còn chờ đợi Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai
Cứu Thế. Sự chờ đợi như tăng thêm sức mạnh để con người can đảm sống cái hiện
tại hơn. Biết sống là biết chờ đợi. Chờ đợi làm nên cuộc sống. Sống mà không
còn gì để chờ đợi, kể như đã chết!
Mùa Vọng là thời gian chờ Chúa đến. Cả lịch sử của
nhân loại được đánh dấu bằng những lần Chúa đến. Lần nào Ngài cũng đến bất ngờ.
Ngài đã đến bất ngờ ở Bêlem, mang hình hài trẻ thơ yếu đuối. Cả cuộc sống, cái
chết và sự phục sinh của Ngài cũng là bất ngờ, khiến cho các môn đệ phải ngỡ
ngàng. Kitô hữu là người đang chờ, chờ ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh
quang. Đây cũng là một bất ngờ, vì không ai biết được ngày giờ Ngài trở lại.
Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ (Mc
13,33-37).
Chúa đã đến, sẽ đến, nhưng Ngài vẫn đang đến trong
thế giới, trong đời từng người, trong đời từng tập thể. Nếu chúng ta tập lắng
nghe, chúng ta sẽ nhận ra được tiếng bước chân của Ngài. Chúa đến với ta qua
mọi biến cố của cuộc sống, kể cả những biến cố đau buồn. Bước vào Mùa Vọng,
cùng với Giáo Hội sống một Mùa Vọng mới, chúng ta hãy mở tâm hồn ra tiếp đón
Chúa: Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến! (Kh 22,20).
5. Hãy tỉnh thức – Noel Quesson
(Trích
trong ‘Suy Niệm Tin Mừng’)
Ngày kia, một sinh viên
Rôma tới gặp thánh Philipphê Nêri. Anh say sưa nói về kế hoạch xây dựng tương
lai đời mình. Anh sẽ học luật, anh có đủ khả năng và kế hoạch đạt tiến sĩ luật.
Thánh nhân hỏi anh:
- Sau đó thì sao?
Chàng trai hăng hái trả
lời:
- Con sẽ tham gia bào chữa
những vụ kiện lớn và con sẽ thành công.
- Sau đó thì sao? Thánh nhân
hỏi tiếp.
- Rồi con nổi tiếng, con sống
thoải mái hạnh phúc, giàu sang.
- Rồi sao nữa? Nghe hỏi tiếp,
người thanh niên hơi bối rối.
- Dĩ nhiên rồi con cũng chết
như mọi người.
Thánh nhân vẫn tiếp tục câu
hỏi cũ:
- Sau đó thì sao? Con sẽ là
gì khi xuất hiện trước phiên tòa cuối cùng? Con sẽ là bị cáo và Thiên Chúa sẽ
là thẩm phán tối cao?
Chàng trai im lặng cúi đầu.
Từ đó anh suy nghĩ nhiều về ý nghĩa cuộc đời.
Cuộc sống của mỗi người đều có một sứ mệnh do Chúa
trao ban. Có thể đó là một nguồn vốn, một tài năng, một nhiệm vụ. Và sẽ có lúc
Chúa đòi ta tính sổ lại với Người. Điều đó chắc chắn, và cũng chắc chắn là ta
không biết thời gian phải tính sổ đó là lúc nào.
Để ứng phó với vấn đề này, Chúa dạy ra luôn luôn tỉnh
thức. Trong Tin Mừng, Chúa nhắc nhở nhiều lần: Hãy cẩn thận, hãy luôn tỉnh
thức. Ở đây, có thể hiểu về việc tính sổ cuối cùng của cuộc đời mỗi người. Ai
cũng phải sẵn sàng, bất cứ lúc nào, vì không ai biết ngày giờ Chúa tới. Chúng
ta cứ ước mơ, cứ xây dựng và dự tính tương lai, nhưng đừng khi nào quên mục
đích cuối cùng của cuộc đời và phải luôn tâm niệm: tất cả đều do Chúa ban và sẽ
có lúc Chúa đòi ta tính sổ. Chúa như một ông chủ đi xa, Ngài trao cho các tôi
tớ Ngài mỗi người một phần vốn, và một nhiệm vụ cụ thể. Mỗi người phải tự mình
xoay xở làm thế nào cho vốn Chúa ký thác được sinh lời.
Cha Charles de Foucault nói: “Bạn hãy sống như bạn sẽ
chết vào tối nay”. Đó là một lời khuyên khôn ngoan, một lời khuyên lặp lại lời
nhắn nhủ của chính Chúa: “Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ
về”. Nhưng thái độ “tỉnh thức” không chỉ ứng dụng vào cái chết, chúng ta còn
phải luôn luôn tỉnh thức trong cuộc sống hằng ngày, nhớ mình đang tham dự một
cuộc chiến đấu gay go, trường kỳ. Phải cẩn thận đón nghe, suy niệm Lời Chúa,
nếu không, ta sẽ là người nghe mà không hiểu gì (Mc 4,12); cẩn thận tránh men
biệt phái và men Hêrôđê (Mc 8,15); cẩn thận đừng lầm lạc theo các ngôn sứ giả
mạo có cả những kẻ mạo danh Đức Kitô mà đánh lừa chúng ta (Mc 13,5.23). Phải
cầu xin Chúa trợ giúp để biết luôn tỉnh thức hầu sống một đời Kitô hữu trung
tín, xứng đáng với các ân huệ Chúa trao ban.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng Chúa đang đến và sẽ đến
với chúng con bằng nhiều cách. Xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người trợ
giúp, chúng con biết tỉnh thức, kiên trì cầu nguyện, suy niệm và thực hành Lời
Chúa mỗi ngày; nhờ Người, chúng con biết đón nhận những vui buồn trong cuộc
sống như hồng ân Chúa ban. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Amen.
6. Tỉnh thức
(Trích từ tập sách ‘Giải Nghĩa
Lời Chúa’
của Đức cố GM Bart. Nguyễn Sơn Lâm)
của Đức cố GM Bart. Nguyễn Sơn Lâm)
Mở đầu niên lịch Phụng vụ, ba bài đọc Thánh Kinh của
Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng năm nay phác họa lại cho chúng ta một vài thái độ
trong khung cảnh sống của Dân Chúa: ngay giữa đêm tối của thử thách, nghi ngờ,
phấn đấu, tội lỗi, Dân Chúa đã cùng nhau tự thú những lỗi phạm của mình, cương
quyết sống trung kiên mong chờ ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu Kitô trong niềm
tin tưởng và thái độ tỉnh thức.
Quả vậy, bài đọc Isaia 63,16-64,7 trình bày lại bối
cảnh của đoàn dân Thiên Chúa sau thời Lưu đày. Kinh nghiệm ê chề của những năm
tháng sống kiếp nô dịch trên phần đất ngoại bang đã đem lại cho họ một ý thức
tập thể về những lỗi phạm của mình. Họ ngước mắt nhìn về Thiên Chúa là Cha để
thốt lên lời khẩn nguyện: "Ôi phải chi Người xé trời ngự xuống, thì núi
non cũng sẽ tiêu tan trước Nhan Ngài". Tâm trạng hối lỗi và tha thiết khẩn
nài ơn cứu độ đã giúp Dân Chúa nhận định lại ơn gọi của mình để sống trọn vai
trò chứng nhân trung thành giữa muôn dân qua thân phận mỏng dòn và hèn yếu của
cuộc sống con người.
Bảy thế kỷ sau, khoảng 25 năm sau ngày Đức Kitô về
trời, thánh Phaolô cũng đã nhắc nhở lại ơn gọi thực sự của người Kitô hữu:
không những chỉ ý thức những sai lỗi của mình, nhưng còn phải sống vươn lên
mong chờ ngày Đức Kitô trở lại. Các cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã sống trong
hoàn cảnh hồi hộp, nao nức mong chờ ngày trọng đại đó. Những lời nguyện:
"Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy trở lại" (1Cr 16,22) càng đặt họ vào
tâm trạng xao xuyến và đầy xúc động. Ngài ở đây! Ngài ở kia! (2Th 2,2). Và có
khi vì mỏi mệt đợi chờ, họ đã không ngần ngại thốt lên: "Có lẽ Ngài đến
chậm".
Tâm trạng khắc khoải đó cần bắt gặp được một cái gì
vững chắc củng cố lòng tin tưởng: nếu không, thái độ tỉnh thức mong chờ của họ
sẽ hão huyền, ảo vọng.
Quả vậy, mỗi lần cử hành nghi lễ bẻ bánh, cộng đoàn
dân Chúa vẫn long trọng tuyên xưng lại niềm tin của mình:
"Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu
chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến".
Nỗi lòng mong chờ khắc khoải đó như được xoa dịu và
soi sáng bởi lời Đức Kitô trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô 13,33-37. Ngài
như một chủ nhà phải ra đi, vắng xa và vắng lâu. Sau khi trao phận sự quản lý
cơ nghiệp cho gia nhân, mỗi người theo chức vụ của mình, Ngài đặc biệt tín cẩn
và căn dặn người canh cửa: "Hãy tỉnh thức". Phải, hãy tỉnh thức để
đón chờ ngày tái ngộ. Cuộc tái ngộ có thể xảy ra một cách rất bất ưng vào một
lúc nào đó trong ban đêm. Gia nhân và nhất là người canh cửa phải tỉnh thức,
luôn sống trong ánh sáng ban ngày để không ngái ngủ, không thất hứa với chủ nhà
trước lúc ra đi.
Đặt đoạn văn trên vào khung cảnh lịch sử cứu độ, giữa
ngày về trời và ngày trở lại của Đức Kitô, chúng ta có thể nói, thái độ tỉnh
thức đó chính là thái độ của Giáo Hội, của toàn dân Chúa và nhất là của những
người hữu trách các cộng đoàn.
Nhưng tại sao phải tỉnh thức?
Vì trước tiên, đó là ý muốn, là mệnh lệnh của chủ
nhà. Để cho cửa nhà êm ấm, an toàn và trường tồn, phận sự của người canh cửa,
không phải chỉ lo bảo vệ ngôi nhà, mà còn phải lưu tâm đến những người sống
trong đó.
Ngoài ra, tỉnh thức còn là thái độ của một gia nhân
trung thành đối với người đã tín nhiệm, ủy thác trách vụ cho mình. Và chắc chắn
niềm vui của ngày tái ngộ sẽ trọn vẹn nếu chủ nhà gặp được gia nhân trong tư
thế đợi chờ và sẵn sàng.
Hơn thế nữa, tỉnh thức cũng là để khỏi rơi vào giấc
ngủ! Mà thường người ta chỉ ngủ lúc ban đêm, trong bóng tối! Theo nghĩa Thánh
Kinh, ban đêm, bóng tối, gợi lên cho chúng ta hình ảnh một môi trường đầy nguy
hiểm, đầy thử thách. Bóng đêm đối nghịch lại ánh sáng ban ngày. Đó là chiều
kích thử thách của cuộc sống. Nó đưa đến tội lỗi, đau khổ, sự dữ... Nó đưa đến
sa ngã, nản chí, nghi ngờ. Người canh cửa có thể bội phản người thân xa vắng,
để chạy theo những quyến rũ của kẻ khác, của ngẫu tượng đồng lõa với bóng đêm.
Và tỉnh thức như thế nào?
Phải chăng là thắp đèn ngồi chờ? Là sống trong tâm
trạng viễn vông! Không! Đọc lại Thánh Kinh và lịch sử dân Chúa, chúng ta thấy
việc tỉnh thức đợi chờ không phải là một thái độ thụ động. Nhưng là một hành vi
ý thức của người hiểu biết lý do.
Vì thế, thái độ tỉnh thức của Giáo Hội và đặc biệt
của những người hữu trách dân Chúa phải sống động và đầy tính chất sáng tạo. Đó
là thức tỉnh hiệp thông với người bạn của mình. Đó là thái độ của một người bạn
trung thành, cởi mở để luôn lắng nghe lời nói của bạn mình. Như thế, tỉnh thức
đối với Giáo Hội, có nghĩa là không ngừng chiến đấu để sinh tồn, để trung thành
với Lời Chúa. Dầu xa vắng, nhưng hầu như tiếng nói, lời hứa và sự hiện diện của
Ngài luôn xoáy động trong lòng Giáo Hội và chi phối mọi sinh hoạt của dân Chúa.
Với ánh đèn soi sáng và sưởi ấm đó, Giáo Hội như có một nghị lực để cảm thông
và tìm ra được ý muốn của Ngài qua mọi biến cố trong cuộc sống, qua mọi dấu chỉ
thời đại.
Sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên trong
tâm hồn mỗi người và trong đời sống Giáo Hội một sự giằng co căng thẳng, mà
chúng ta phải dùng như một đà tiến để vươn lên, Giáo Hội có phận sự rút kinh
nghiệm từ các sự kiện xảy ra trong lịch sử quá khứ và hiện tại để sửa chữa lỗi
lầm, tự thanh luyện mình để tiến tới sự hoàn thiện như Chúa Kitô mong muốn. Đặc
biệt Giáo Hội phải sẵn sàng từ bỏ địa vị ưu thế trong xã hội để chấp nhận thân
phận đầy tớ phục vụ chủ nhà mình và anh em.
Để tỉnh thức chờ Chúa đến, Giáo Hội phải nhẹ lòng đối
với của cải trần thế và dứt khoát với những quyến rũ của các ngẫu tượng. Khi
làm như thế, Giáo Hội thực sự đang cầm đèn trong tay sẵn sàng đợi Đức Kitô, vì
ngày trở lại của Ngài sẽ xảy tới bất chợt.
Đồng thời, nếp sống của Giáo Hội sẽ là ánh sáng thức
tỉnh mọi người để họ nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Thế đích thực. Giáo Hội đang
mang trong lòng sức sống và động lực thúc đẩy chính mình và cả thế giới tiến
lên gặp Đức Kitô. Thế nên, tỉnh thức là phận sự cần thiết của những con người
chứng nhân cho ánh sáng. Và Giáo Hội phải là kho dự trữ sức sống phong phú và
sung mãn chuẩn bị cho mọi người đón nhận thời viễn lai. Vì thế, khi hướng về
ngày Chúa Kitô trở lại, Giáo Hội quả là niềm hy vọng cho toàn thể thế giới và
vũ trụ.
BÀI GIẢNG
1. Đời sống con người, có thể
nói, bao giờ cũng bao hàm một khía cạnh đau thương khổ sở. Không phải chỉ thời
nay mới khổ; thời trước cũng đã khổ rồi và bao lâu còn sống ở trần gian thì con
người vẫn phải chịu đựng hy sinh và đau khổ. Bài sách Isaia chúng ta đọc hôm
nay, đã được viết ra sau thời dân Dothái bị lưu đày bên Babylon. Bài sách ấy cho ta thấy rằng: tuy
hết bị lưu đày, nhưng dân Dothái vẫn tiếp tục gánh chịu đau khổ. Điều làm cho
họ đau khổ nhất, chính là họ nhận thức ra rằng họ đã "đi lạc xa đường
Chúa", đã "phạm tội" và "đã bị phó mặc cho quyền lực tội
lỗi".
Tội lỗi của con người, đó chính là nguyên nhân sâu xa
gây nên mọi đau khổ. Bài sách Isaia hôm nay thôi thúc ta nhìn vào khổ sở hiện
tại như là tiếng gọi cảnh tỉnh ta nhận thức tội lỗi của mỗi người và của cả
nhân loại để mau hoán cải trở về với Thiên Chúa. Ngài là Cha yêu thương, là
Đấng cứu độ nhân từ và luôn luôn trung thành với lời Ngài đã hứa.
Những khó khăn kinh tế hiện nay cũng gây nên cho ta
những khổ sở, nhưng ta nên biết rằng đó là hậu quả không thể tránh được của một
nước vừa bị 30 năm chiến tranh tàn phá như nước ta. Và chúng ta, người công
giáo còn phải nhìn nhận như dân Chúa thời xưa "Này Chúa thịnh nộ vì chúng
tôi đã phạm tội". Với ý chí đổi đời và cải tạo, với quyết tâm từ bỏ mọi
ích kỷ cá nhân, mọi tham lam và hận thù, Chúa sẽ ban cho ta nguồn nghị lực mới
để xây dựng một xã hội tốt đẹp và huynh đệ hơn.
2. Trong công cuộc này, chúng
ta hãy lắng nghe những lời đầy an ủi trong thư thánh Phaolô: "Tôi hằng cảm
tạ Chúa thay cho anh em, vì anh em được đầy tràn mọi ơn, trong khi mong chờ Đức
Kitô lại đến". Thánh Phaolô ảo tưởng, không nhìn thấy thực tế sao? Ngài
không ảo tưởng. Ngài biết rõ các giáo đoàn của ngài. Họ là dân không giàu có,
không thế lực. Nhưng hết thảy họ là những người được kêu mời hiệp nhất với Con
Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Phải, chúng ta là những con người như thế. Chúng
ta đừng chỉ nhìn vào đời sống vật chất của mình để thấy xót xa vì thiếu thốn,
nhưng còn phải biết nhìn vào tâm hồn, vào tinh thần, vào thiên chức được làm
con cái Thiên Chúa, được vinh dự phát huy tình yêu của Ngài đối với trần gian.
Chúng ta cũng hãy hãnh diện, tin vào ý kiên trì của
dân tộc Việt Nam trong quá khứ, đã khắc phục được bao khó khăn để vươn lên
trong tư thế độc lập tự do, thì trong tương lai cũng sẽ thành công trong việc
xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, ấm no và có tình yêu thương giữa mọi
người đồng bào cùng máu mủ.
3. Mùa Vọng nhắc lại cho ta
cả hai chân lý ấy, một đàng dân Chúa như đang lầm than khổ sở, nhưng đàng khác
cũng chính dân ấy đã được bảo đảm một tương lai tốt đẹp, trước hết theo ý nghĩa
tinh thần, nhưng sau đó cũng kèm theo tất cả mọi khía cạnh được Chúa thánh hóa
để làm nên hạnh phúc toàn diện cho con người. Thế nên, Đức Kitô trong bài Tin
Mừng hôm nay dạy ta hãy tỉnh thức đừng mê ngủ. Những than vãn, thở dài, chỉ làm
cho thân xác rũ xương và đời sống trở nên đen tối. Trái lại, nếu tỉnh táo, nhìn
về tương lai với niềm tin vững mạnh, thì một chân trời mới đang dần dần mở ra
trước mắt ta.
Người tín hữu cũng sống trong trần gian và phải hy
sinh gian khổ như mọi người. Nhưng nhờ niềm tin như đèn sáng trong tay, chúng
ta là những người đang tỉnh thức chờ Đức Kitô trở lại: Ngài là Chúa đem lại hòa
bình, là Đấng cứu độ trần gian. Thế nên, lòng ta tràn đầy hy vọng và ta có phận
sự chiếu tỏa niềm hy vọng phấn khởi ấy chung quanh ta.
4. Chúng ta hãy mạnh dạn
tuyên xưng niềm tin của Giáo hội chúng ta, trước khi đem cuộc đời lam lũ đặt
vào đĩa thánh, hiến dâng sự sống và con người của ta cho vinh quang Nước Trời mà
Chúa đang dành cho các con cái của Người.
7. Tỉnh thức để bảo toàn sinh mạng
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Tai nạn giao thông ngày
càng gia tăng khốc liệt, gây ra chết chóc, thương tật, tai hoạ cho hàng chục
ngàn người mỗi năm tại Việt Nam.
Chưa từng có trận chiến nào trong lịch sử chiến tranh Việt Nam cận đại
ngốn nhiều nhân mạng và gây nhiều thương vong cho bằng tai nạn giao thông trên
các tuyến đường dọc theo chiều dài đất nước trong những năm qua.
Nguyên nhân chính gây ra
tai nạn giao thông là người lái xe không tỉnh táo. Phải lái xe suốt đêm trường
trên những con đường dài thăm thẳm khiến người lái thiếp đi lúc nào không hay.
Một số khác mất tỉnh táo vì men rượu, nên không thể chủ động và phản ứng kịp
thời khi tình huống xấu xảy ra. Thế là tai hoạ và chết chóc chụp xuống trên đầu
nhiều người thật khủng khiếp.
Khi tài xế ngủ gật, say
rượu bia thì nguy cơ gây nên cái chết cho mình và cho người liên hệ hầu như
chắc chắn. Người lái xe không tỉnh thức, vì ngủ gật hay vì ma men, là kẻ sát
nhân và là người tự sát, gây nên những hậu quả nghiêm trọng khôn lường cho
nhiều nạn nhân vô tội.
Chính vì thiếu tỉnh thức dễ đưa đến những hậu quả
nghiêm trọng khôn lường nên Chúa Giêsu đã nhiều lần kêu gọi mọi người đừng mê
ngủ nhưng hãy tỉnh thức dưới nhiều hình thức:
Tỉnh thức như người tôi tớ chong đèn đợi chủ đi ăn
cưới mãi đến hai hoặc ba giờ sáng mới về (Lc 12,35-48); tỉnh thức như người
chủ nhà canh phòng kẻ trộm thâm nhập giữa đêm khuya (Mt 24, 42-44); tỉnh thức
như người quản lý được người chủ đi xa giao trọng trách quán xuyến việc nhà mà
không biết giờ nào chủ trở lại kiểm tra công việc đã được giao phó (Mc 13,
33-37. Lc 12, 42-46); tỉnh thức như những cô phù dâu mang dầu đèn đi đón chàng
rể có thể vào giữa đêm khuya mới đến. (Mt 25,1-13)
Trong các trường hợp được nêu trên đây, việc tỉnh
thức sẽ mang lại phần thưởng lớn lao và sự ngủ mê sẽ gây hậu quả tai hại.
Mỗi người chúng ta là những người tài xế điều khiển
chiếc xe cuộc đời của mình, có trách nhiệm với vận mệnh đời đời của mình cũng
như những người liên hệ.
Những nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước là những
người lèo lái chiếc tàu quốc gia. Nếu những vị nầy "mê ngủ", chắc
chắn sẽ gây ra hậu quả đau thương cho đất nước, cho dân tộc và cho thế giới.
Đại biểu cho những "tài xế" kiểu nầy gồm những nhân vật như Hitler,
Stalin, Sadam Hussein và rất nhiều tên tuổi khét tiếng khác.
Những nhà lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo là
những người cầm lái cỗ xe tôn giáo, có trách nhiệm uốn nắn lương tâm của số
đông tín đồ, nếu không tỉnh táo thì cũng sẽ dẫn đưa hàng vạn tín đồ của mình
lao xuống vực thẳm bạo lực, chiến tranh tôn giáo hoặc những hình thức khủng bố
dã man như đã xảy ra lâu nay.
Những thầy cô giáo nắm tay lái cỗ xe học đường, có sứ
mạng đào tạo những mầm non hôm nay thành những rường cột cho nước nhà mai sau,
nếu không tỉnh táo thì sẽ đưa bao thế hệ học sinh xuống vực.
Vị chủ chăn trong giáo xứ hay bậc phụ huynh trong các
gia đình cũng đều là những "tài xế" điều khiển những chiếc xe Chúa
trao cho mình quản lý, nếu không tỉnh táo, không sáng suốt thì gây phương hại
cho mình cũng như cho vô vàn người khác.
Người lái xe đường dài ban đêm không bao giờ dùng
bia, rượu, những chất gây ngủ hoặc bất kỳ loại thức ăn nước uống nào làm cho
đầu óc mất tỉnh táo.
Là tài xế cầm lái chiếc xe đời mình, chúng ta quyết
không để cho men say của lạc thú, bóng tối của dục vọng, những cơn lốc của đam
mê... làm mờ tối lương tri, làm thui chột con mắt linh hồn, làm mê muội tâm
trí, khiến chúng ta không còn tỉnh táo để lèo lái đời mình theo đường lối Chúa
Giêsu.
Người chạy xe đêm đường dài cần đến cà phê, thuốc lá,
nước tăng lực, khăn lạnh... để làm cho đầu óc luôn tỉnh táo hầu tránh được tai
nạn giao thông, khỏi làm thiệt hại mạng sống mình cũng như những người liên hệ;
thì chúng ta, những người đang lèo lái đời mình qua nhiều khúc quanh của cuộc
sống, xuyên qua bóng đêm cuộc đời, cũng luôn cần Lời Chúa lay tỉnh, để khỏi gây
gương mù làm hại linh hồn người khác và có thể tỉnh táo, sáng suốt đưa đời
mình, linh hồn mình về đến bờ bến bình an.
8. Những cuộc vi hành của Đức Kitô
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn nhỏ này khuyên nhủ cảnh giác tâm hồn, chủ yếu
nói về sự trở lại của Đức Giêsu ngày tận thế. Ông chủ vắng nhà là Đức Kitô sau
khi Người lên trời. Người đã thiết lập Giáo Hội và giao cho các môn đệ nhiệm vụ
hoạt động cho việc cứu rỗi thế gian. Là thành phần Giáo Hội, chúng ta phải canh
thức tích cực để chuẩn bị ngày Chúa trở lại. Dụ ngôn cũng áp dụng cho mỗi chúng
ta. Chúng ta phải được báo trước phải tỉnh thức để nghênh tiếp những chuyến
thăm viếng bất chợt của Chúa. Người đến trong ân sủng ban phát hàng ngày, hoặc
bằng những lời mời gọi chúng ta nhận lấy công việc Người định giao, hoặc ở giây
phút cuối cùng đời chúng ta.
Chung cục, điều quan trọng là chúng ta phải lưu ý đến
nhiều cách Chúa Giêsu hiện diện trong con người và trong cuộc đời chúng ta.
Liệu chúng ta có nhận ra Đức Kitô trong những cuộc vi hành của Người? Chúa đến
với chúng ta hằng ngày. Chính vì sự kiện đó, để chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, Giáo
Hội dạy đọc đoạn Phúc Âm này nói về ngày Chúa trở lại. Nếu chúng ta mong ước,
chúng ta sẽ nhận được ân sủng Chúa Giêsu mỗi ngày. Chỉ cần làm thế nào để ơn
Chúa gặp chúng ta sẵn sàng đón tiếp. Làm thế nào để cảnh giác, để biết nhận ra
Chúa những lúc Ngài đến bất ngờ?
1.- Khởi điểm là một niềm ước nguyện nào đó, ao ước Chúa đến
với ta.
Ta có thể hình dung khi đọc dụ ngôn, cảnh những đầy tớ bất lương đang khoái trá
vì chủ đi vắng, chúng không mong ông về – trong khi đó nhóm đầy tớ tốt thì nóng
nảy ước mong chủ chóng về. Ông chủ là Đức Kitô, chúng ta là đầy tớ và cũng là
bạn hữu Người. Tất nhiên chúng ta mong ước Người đến, hiện diện và can thiệp
vào cuộc đời chúng ta. Tình bạn thiết với Đức Giêsu giữ cho tâm hồn tỉnh thức
để đón nhận sự hiện diện tác động của Chúa. Tách rời một điều khỏi bối cảnh đức
tin, điều đó có vẻ không quan trọng, nhưng môn đệ Chúa có thể xem đó như là một
lời phán của Đức Kitô, một sứ điệp, một lời mời, một phương thế để gặp gỡ và
hiệp thông. Vui buồn, thành tựu, đau khổ, lo nghĩ, biến sự cá thể hoặc tập thể,
điều gian ác ta phải chịu hoặc cư xử, nhã ý ta nhận được, thành công hoặc thất
bại trong hoạt động tông đồ, v.v… - bất kỳ biến sự nào trong cuộc đời cũng có
thể, trong môi trường đức tin, trở nên phương thế nghênh đón Đức Giêsu Kitô –
nhưng muốn được thế, chúng ta phải mong ước.
2.- Người có tâm hồn cảnh giác thì cũng muốn làm sáng tỏ
việc Chúa thăm viếng kẻ khác. Một trong những công việc hòa hợp nhất với sự tôn
trọng kẻ khác là giúp đỡ tha nhân nhận biết Chúa khi Người đến trong cuộc đời
họ. Chúng ta có thể tự đặt những câu hỏi về ảnh hưởng chúng ta muốn có đối với
tha nhân, một ảnh hưởng ít nhiều chính đáng, trong sạch, khéo léo. Nếu ước
nguyện sâu rộng của chúng ta là hướng tha nhân chú ý đến Thiên Chúa ngự trong
họ, chúng ta sẽ xử sự giống như thánh Gioan Tẩy giả từng chuẩn bị các tâm hồn
cho cuộc gặp gỡ Đức Kitô, và trong khi làm công việc đó, ông cố ý khiêm hạ
khuất mình đi.
9. Chúng ta có phải là những đứa con hư không?
(Trích trong ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’
của Yvane Fournier-Guérard)
của Yvane Fournier-Guérard)
Dù chúng ta đã nhận được mọi sự từ Chúa Cha nơi Con
Một Ngài, chúng ta cũng phải chu toàn sứ vụ, tỉnh thức và thiết tha ước muốn ơn
cứu độ nhờ việc Chúa Kitô đến.
Chẳng bao lâu nữa... có quà
Mọi sự đều sẵn sàng khi chúng ta mở những gói quà
tượng trưng cho Tình yêu mà Chúa Kitô đến đổ tràn trên trần thế.
Hàng nghìn trẻ con sẽ nhận được quà đến nỗi sau khi
được đầy dẫy như vậy tâm tình duy nhất còn lại sẽ đôi khi là tâm tình thiếu
vắng vô cùng. Vì nhận được quá nhiều nên thường ta có cảm tưởng đã không nhận
được gì cả, vậy nên thất vọng chua xót và chờ đợi.
Trái lại, đứa trẻ chỉ mong muốn và xin một điều thôi
và được điều này thì sẽ mãn nguyện. Tất cả thời gian chờ đợi, hy vọng có được
điều mình ham muốn, mang đến cho điều này một giá trị hầu như vô song.
Bà nội, bà ngoại chúng ta còn nhắc chúng ta nhớ một
cách cảm động quả cam và vài cục kẹo đặt trong vớ của họ treo lên trước ngày
đầu năm. Quả thật, tầm quan trọng của việc chuẩn bị đón nhận làm cho niềm vui
(hoặc nỗi thất vọng) tăng lên khi biến cố xẩy đến. Người ta sẽ nói về đứa trẻ
không hài lòng với những món quà của mình rằng nó khổ sở nếu cha mẹ không cho
nó những gì nó xin; hoặc nó là con cưng nếu nó nhận được mọi sự mà không gì làm
nó hài lòng cả.
Chúng ta có phải là những đứa con hư không?
Chúng ta bắt đầu vào Mùa Vọng. Chúng ta chờ đợi gì
nơi việc Chúa Kitô đến? Có thể là những đòi hỏi của chúng ta nhiều đến nỗi lời
đáp của Chúa có vẻ không làm chúng ta hài lòng? Hoặc hơn nữa chúng ta đã ngưng
cầu xin, vì tưởng rằng mọi sự sẽ được ban dư dật không cần cố gắng nào cả?
Tốt nhất là chỉ chờ một điều thôi, điều quan trọng
nhất, chờ đợi Chúa Kitô đến trong cuộc đời chúng ta. Ta hãy xem có cách nào để
cải tiến cuộc đời mình không.
Một thái độ tỉnh thức
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc Ngài đến. Ngài
nhắc cho họ nhớ rằng thế giới cần ơn cứu độ hơn mọi sự khác. Ngài cố gắng làm
cho họ hiểu rằng điều chính yếu là Ngài, nhưng phải khát khao, chuẩn bị đón
tiếp Ngài.
Như người đầy tớ được chủ giao nhà cho, phải chờ đợi
chủ về bất cứ giờ nào, ban ngày và ban đêm, cũng vậy chúng ta phải tỉnh thức,
hy vọng, ước mong Chúa đến trong cuộc đời chúng ta.
Ngôi nhà được cho chúng ta mượn chứ không phải cho
đứt đâu. Lời Chúa được giao cho chúng ta, nhưng để làm cho chúng ta sống. Lẽ ra
việc hiểu biết Chúa phải soi sáng những lựa chọn của chúng ta về cuộc sống.
Những ơn thiêng liêng dùng để tôn vinh Ngài và sự kết hợp với Chúa Con giúp
chúng ta đứng vững cho đến cùng.
Hiện diện và vắng mặt
Cuộc nhập thể đã xảy ra. Ngài đã đến trong thế giới
chúng ta. Ngài đã bước đi trên những nẻo đường của chúng ta, đã sống cuộc đời
làm người hằng ngày của Ngài, đã yêu thương và cầu nguyện. Khi Chúa Giêsu nói
với các môn đệ về niềm mong đợi Ngài đến, thì hôm nay chúng ta đã hiểu Ngài
muốn nói gì vì chúng ta đang sống vào thời cuối của lịch sử. Ngài sẽ chết, sẽ
sống lại, sẽ sai Chúa Thánh Thần đến và sẽ hứa rằng một ngày kia mọi sự sẽ được
qui tụ lại trong một Trời mới Đất mới. Đây là cái nhìn về ơn cứu độ theo đường
thẳng.
Có một cái nhìn khác, có lẽ đúng theo hình ảnh Thiên
Chúa hơn, một cái nhìn của chốn vĩnh hằng nơi mà mọi sự đã có rồi và mọi sự
luôn luôn đang thể hiện. Theo cái nhìn này ta có thể chờ mong Ngài đến mọi ngày
trong lúc vẫn cám ơn Ngài đang có mặt và đã có mặt ở giữa chúng ta. Món quà của
Ngài, ta phải chờ mong, nhưng đồng thời đã được nhìn thấy tất cả những món quà
được ban cho ta hằng ngày, biểu lộ tình âu yếm và lòng tốt của Thiên Chúa qua
những người xung quanh chúng ta.
Vấn đề của con tim
Nơi Con Một Ngài. Thiên Chúa trao hiến chính mình để
cứu độ nhân loại. Nơi chúng ta, Ngài đã đặt Thần Khí của Ngài và những ân huệ
thiêng liêng mà chúng ta phải khám phá ra mỗi ngày để đi vào sự hiệp thông với
Ngài. Cuối cùng, việc Con Chúa đến trong lòng chúng ta chỉ được thể hiện tốt
đẹp khi chúng ta biết nhận ra Ngài và đồng thời khát khao Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin “Ngài đến và tỏ
Thánh Nhan Ngài cho chúng ta”, để phép lạ của Tình yêu muôn thuở của Ngài được
thể hiện, hôm qua, hôm nay và ngày mai.
10. Trách nhiệm
Đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, lặp đi lặp
lại tới bốn lần lời kêu gọi: "Hãy tỉnh thức!".
Nằm giữa những lời kêu gọi ấy là một dụ ngôn ngắn kể
lại rằng: Người kia sắp đi xa, để nhà cửa lại, giao trách nhiệm cho đầy tớ
trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy phải tỉnh thức luôn vì không
biết chừng nào ông ta về. Sẽ không may mắn cho người đầy tớ nào khi chủ bất
thần trở về mà bắt gặp còn đang ngủ mê. Ngôi nhà ông chủ trao cho tôi tớ, chính
là thế giới mà Đức Kitô trao cho loài người chúng ta chịu trách nhiệm. Chúng ta
có bổn phận phải quản lý nó. Cũng như Chúa dạy chúng ta phải chịu trách nhiệm
về cuộc đời của mình và phải quản lý cuộc đời mình sao cho phù hợp với ý muốn
của Chúa, theo lề luật bác ái yêu thương.
Rồi ngày kia, Ngài sẽ xuất hiện tỏ tường với chúng ta
và Ngài sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng ta hoàn thành nhiệm vụ của mình
như thế nào. Chúng ta phải sống cuộc đời hiện tại trong sự tỉnh thức, nghĩa là
không quên ngày Chúa đến, đó là ngày tận thế cũng như ngày cuối cùng cuộc đời
chúng ta. Vì qui hướng về Đức Kitô như thế, chúng ta sẽ tích cực dùng thời gian
hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của mình. Chúa Giêsu đã đến, rồi
Ngài đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Đến ngày quang lâm,
Ngài sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mắt muôn dân. Trong thời gian Ngài ẩn mình
đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Chúa sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng Chúa
ẩn khuất như thế chính là vì muốn tôn trọng chúng ta, muốn cho chúng ta nên
người trưởng thành.
Thực vậy, làm sao con cái có thể lớn khôn khi cha mẹ
cứ bám sát lấy nó, lo cho nó từng ly từng tí. Dĩ nhiên Chúa vẫn lo cho chúng ta
ta nhưng có thể nói là một cách kín đáo, tế nhị, không bao giờ dành mất tự do
và trách nhiệm của con người.
Có ba quan niệm dễ dàng tạo nên một thái độ tiêu cực
trong cuộc đời:
- Một là cho rằng chết là hết, không còn gì nữa. Nếu quả thực mọi sự sẽ
chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu rồi sẽ như nhau cả, thì
người ta có lý để lập luận rằng: Hãy ăn uống, vui chơi, hưởng thụ giây phút
hiện tại.
- Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là cho rằng mọi sự đã
được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được định đoạt do các vị thần
thánh. Nếu
thế thì con người chẳng cần làm gì nữa, chẳng cần cố gắng hy sinh hoặc sáng
tạo.
- Ba là tin vào thuyết luân hồi, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt hạnh
phúc thì ta còn có thể chờ kiếp sau đầu thai lại và tiếp tục xây dựng hạnh
phúc.
Quan niệm Kitô giáo về cuộc đời, về thời gian và về
lịch sử rất khác với những quan niệm trên. Đó là một quan niệm có tính biện
chứng. Người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại hết sức nghiêm chỉnh như thế là sẽ
mãi mãi ở đây vì đó là thánh ý Chúa và vì số phận của mình được định đoạt ngay
trên cõi đời này, đồng thời họ lại thanh thoát, tự do, sẵn sàng rời bỏ mọi sự
bất cứ lúc nào Chúa gọi họ ra đi. Quan niệm Kitô giáo là một quan niệm cho
những con người trưởng thành. Bởi vì, hãy tỉnh thức có nghĩa là hãy sống có
trách nhiệm.
11. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy trong bất kỳ lĩnh vực
nào, người ta cũng cần phải đề cao cảnh giác, có nghĩa là phải tỉnh
thức và sẵn sàng.
Thực vậy, trong một quốc gia, để bảo đảm an ninh và
trật tự, chính phủ phải luôn tỉnh thức bằng cách đặt các đồn canh ở các nơi
trọng yếu, rồi lại còn phải thường xuyên huấn luyện các binh lính, công an và
cảnh sát.
Trong một gia đình, muốn không bị trộm cắp, nhất là
vào những đêm tối trời, thì chúng ta cũng phải tỉnh thức. Ngoài ra, lại còn
phải nuôi thêm chó để canh giữ, làm cổng cho kiên cố, đặt ổ khóa cho chắc chắn.
Trong phạm vi cá nhân cũng thế, muốn được khỏe mạnh,
thì phải sắm sẵn mũ áo, phòng lúc trời mưa cũng như lúc trời nắng. Rồi lại còn
phải sắm sẵn những thứ thuốc thông thường, phòng khi cảm cúm bất ưng.
Chúng ta có biết khẩu hiệu của hướng đạo là gì hay
không? Tôi xin thưa: - Đó là khẩu hiệu: Sắp
sẵn.
Powell, ông tổ của ngành
hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu Châu, lần kia
đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân những chín ngàn.
Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến thuật nghi binh.
Ở mặt trận, ban ngày thỉnh
thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn ban đêm trong một vùng
rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích là để đánh lừa đối
phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở khắp nơi, chớ có
liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối phương và đã
giành được thắng lợi.
Giữa lúc chính phủ nước Anh
định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút lui, để rồi lập nên phong
trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành những người hữu ích cho
bản thân, gia đình và xã hội.
Mục đích của hướng đạo là
lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với mọi hoàn cảnh.
Đối với việc linh hồn của chúng ta cũng vậy. Có nghĩa
là chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn
sửa đổi lại những tính hư tật xấu, đồng thời cố gắng thực hiện những hành động
bác ái yêu thương, để bất kỳ lúc nào Chúa viếng thăm chúng ta cũng sẵn sàng
thưa lên cùng Chúa: "Lạy Chúa, này con xin đến".
Nhờ đó, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Để kết luận tôi xin kể lại một mẩu chuyện như sau:
Có một du khách, sau khi đã
thăm viếng những danh lam thắng cảnh ở Thụy sĩ. Ông ta dừng chân trước một vườn
hoa đẹp bao quanh một tòa lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ đón chào. Ông bèn lên
tiếng hỏi:
- Cụ ở đây đã bao lâu rồi?
- Thưa hai mươi bốn năm.
- Có lẽ chủ của cụ ít khi tới
đây.
- Vâng, tôi chỉ mới gặp ông
chủ có bốn lần mà thôi và lần cuối cách đây đã mười hai năm.
- Thế thì ai thưởng thức cảnh
đẹp mà cụ phải tốn công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy?
- Thưa ông, tôi làm như thể
chủ tôi sẽ đến hôm nay, ngay bây giờ và ngoài ra, khi chăm sóc cho thửa vườn
thì chính vợ chồng tôi được thưởng thức vẻ đẹp của muôn hoa trước hết.
Nếu như Chúa đến viếng thăm chúng ta ngay lúc này thì
liệu chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng hay chưa?
12. Canh thức chờ Chúa đến
(Lm Bùi Thượng Lưu)
Bắt đầu từ Chúa Nhật 1 Mùa Vọng hôm nay, toàn thể Giáo Hội chính thức bước vào Năm Phụng Vụ mới, cùng với lời mời gọi của Chúa
Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Maccô: "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh
thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Vậy anh em phải canh thức, vì
anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay
tảng sáng, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ "(Mc
13, 33, 35-36).
Tại các nhà thờ Đức có một
tục lệ rất ý nghĩa là mỗi nhà thờ đều trang điểm vòng hoa Mùa Vọng với những
cành thông tươi xanh và bốn cây nến, tượng trưng cho 4 Chúa nhật Mùa Vọng. Khởi
đầu thánh lễ mỗi Chúa nhật, đang khi cộng đoàn hát bài Mùa Vọng, cây nến được
thắp sáng. Chúa nhật thứ nhất thắp sáng một cây. Chúa nhật thứ hai thắp sáng
hai cây. Khi cả bốn cây được thắp sáng, thì đại lễ Giáng Sinh cũng đã gần kề.
Tục lệ này cũng được lan rộng trong nhân gian, tới hầu hết các công sở, các gia
đình. Nơi nào cũng bầy vòng thông Mùa Vọng với đủ loại nến mầu đỏ, tím...
Như vậy ý nghĩa thứ nhất trong Mùa Vọng là mùa canh
thức chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa Giáng Sinh. Trọng tâm của lịch sử và Tin
Mừng cứu độ chính là biến cố: Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân độ
thế.
Ngày giáng trần của Chúa Giêsu phải được đón mừng vì
đây là Biến Cố có một không hai trong lịch sử cứu độ: nhờ Ngôi Lời nhập thể làm
người thì vũ trụ vạn vật lại được đổi mới (TNKB, s. 3). Kể từ Biến Cố này, Trời
giao hòa với Đất, nhân loại được Thiên Chúa yêu thương và toàn thể vũ trụ được
đón nhận Tin Mừng cứu độ. Chính vì thế, Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu đã
trở nên Trung Tâm điểm của lịch sử nhân loại, mốc điểm thời gian.
Theo Kinh Thánh, canh thức là thái độ của một người
“đang tỉnh thức chờ đợi”, không ngủ mê, không thụ động, nhưng canh chừng, luôn
phòng bị để kịp đối phó với kẻ địch tấn công bất ngờ (Tv 127, 1t), lòng nhiệt
tâm chu toàn trách nhiệm hiện tại, biết nhận ra những dấu chỉ thời đại, khám
phá ra thánh ý Thiên Chúa, kiên tâm phục vụ trong yêu thương, đang khi ngóng
chờ một biến cố sắp xẩy đến... sẵn sàng đón tiếp Chúa, khi Ngày của Ngài điểm.
Đây là lời khuyên nhủ, dặn dò chính yếu của Chúa
Giêsu dậy các môn đệ của Ngài. Vì Chúa đến bất chợt như kẻ trộm ban đêm (Mt
24,43t), như ông chủ trở về mà không báo cho các đầy tớ biết (Mt 13,35t), như
chàng rể đến lúc canh khuya, và chỉ năm cô trinh nữ khôn ngoan đang canh thức
với đèn đầy dầu, mới kịp ra đón rước chàng rể vào dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13).
Vậy canh thức là đặc tính căn bản, là thái độ
sắp sẵn của người môn đệ Chúa, để chỗi dậy khỏi giấc ngủ đam mê, nghĩa
là dứt khoát với tội lỗi, dứt bỏ trần thế và những đam mê dục vọng (Lc 21,
34tt). Canh thức là hoán cải và trở về với Chúa, không nằm lì trong tội ác,
không cứng lòng và khinh thường tiếng mời gọi thống hối của Chúa. Canh thức
trong cầu nguyện, tiết độ, không chè chén say sưa, không cờ bạc, không say đắm
nhục dục... quyết không để “ba cái lăng nhăng” nó quấy ta!
Canh thức để nhận diện ra kẻ thù và chiến đấu với thần dữ. Trong giờ kinh tối, các
linh mục và tu sĩ thường đọc: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ,
thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8). Ma
quỷ có thể ẩn hiện trong những phim ảnh xấu, những sách báo đồi trụy, ma túy...
những dịp tội gần xa đưa chúng ta xa Chúa, lạc đường về Quê Trời.
Canh thức để phân biệt phải trái: đừng bị ru ngủ, bị đầu
độc, bị tuyên truyền bởi óc hưởng thụ, bởi tinh thần vị kỷ cá nhân, bởi các học
thuyết vật chất vô thần, bởi những ông đạo buôn thần bán thánh, bởi những mê
tín dị đoan, bởi những quảng cáo quyến rũ, những truyền đơn loan tin thất thiệt
ngày tận thế...
Canh thức để khỏi bị chán nản, ngã lòng nản chí, bỏ cuộc. Có những tín hữu gặp thử
thách trong đời sống gia đình, gặp những khó khăn về vật chất, bị đau ốm lâu
dài... đã nản lòng, kêu trách Chúa, và nhiều khi bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ
Giáo Hội!
Canh thức trong cầu nguyện theo gương Chúa trong vườn cây
dầu.
Cầu nguyện ở đây được hiểu là cầu kinh sớm tối. Cầu nguyện là đọc và suy gẫm
Lời Chúa trong Thánh Kinh. Cầu nguyện có thể là lần chuỗi Mân Côi, miệng đọc
lòng suy. Cầu nguyện cao đẹp nhất là tham dự thánh lễ Chúa nhật... Tất cả những
hình thức cầu nguyện trên đây, giúp người tín hữu luôn hiệp thông với Chúa, tâm
hồn luôn lắng nghe những “thánh chỉ” của Chúa.
Canh thức để trung tín giữ luật Chúa: luật yêu thương, luật
công bằng. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, người tín hữu hằng để luật Chúa
như đèn soi, như kim chỉ nam cho mọi ước muốn, mọi tư tưởng, mọi lời nói và
việc làm của mình.
Canh thức để phục vụ anh em: người tín hữu luôn được
Chúa mời gọi để sống đời phục vụ trong bác ái và trong yêu thương. Đời sống gia
đình là môi trường phục vụ lý tưởng nhất. Vợ chồng Kitô hữu hiến thân cho nhau,
tha thứ cho nhau, biết tận tâm giáo dục con cái, biết dùng của cải Chúa ban để
mưu sống gia đình, nhưng đồng thời cũng biết chia cơm sẻ bánh cho anh em nghèo
đói kém nay mắn hơn trên khắp thế giới. Mỗi tín hữu còn được Chúa mời gọi để
phục vụ cộng đồng, các giáo xứ, Hội Thánh, tùy theo khả năng và hoàn cảnh.
Canh thức để đón chờ Chúa đến. Tín hữu Chúa Kitô biết rõ
ràng rằng: cuộc sống trần gian, tất cả của cải đều mau qua chóng hết, không ai
sống mãi, nhưng đi về vĩnh cửu. Điều chắc chắn là mỗi người chúng ta sẽ có một
ngày phải từ giã cõi đời tạm này. Nhưng chết vào ngày giờ nào, chết cách nào,
chết ở đâu? Chẳng có ai biết được. Do đó, tín hữu Chúa phải tỉnh thức để đón
chờ Chúa đến.
Từ ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy, người tín hữu là
con cái của ánh sáng, nên phải luôn tỉnh thức để mình khỏi rơi vào đêm tối của
sự chết, không mất mục tiêu, không quên ngày Chúa đến cuối đời của mình...
13. Sự mê ngủ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, đến bốn lần Đức Giêsu hối
thúc các môn đệ “Hãy tỉnh thức”. Lời kêu gọi “Hãy tỉnh thức” này cũng có ý
nghĩa cả đối với chúng ta. Đây là một lời kêu gọi rất phù hợp khi mở đầu năm
phụng vụ mới.
Người ta nói rằng mỗi năm, những con chim sẻ đều quay
trở lại tổ vào đúng thời điểm. Bằng mọi cách, chúng phải kết thúc chuyến bay
tại cùng một địa điểm. Điều này nói gì với chúng ta về những con chim sẻ? Chúng
là những tạo vật sống theo thói quen.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong
cuộc sống của chúng ta. Ngoại trừ những đứa trẻ còn rất nhỏ, tất cả chúng ta
đều là những tạo vật sống theo thói quen ở mức độ lớn. Người ta nói rằng chúng
ta sống nửa phần sau của cuộc đời mình tuỳ theo những thói quen đãđược hình
thành từ nửa phần đầu cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại dễ chịu cho người đã hình
thành được những thói quen tốt. Nhưng sẽ gây rắc rối cho người nào đã nhiễm
phải những thói quen xấu.
Thói quen có khía cạnh tích cực. Sự lập đi lập lại là
điều cần thiết. Đây là một công việc cực nhọc đều đều và là một kỷ luật nghiêm
khắc, nhưng có thể đem lại kết quả. Các vận động viên đã chứng tỏ cho chúng ta
thấy rằng sự lập đi lập lại có thể tạo ra những thành quả. Chỉ bằng cách đó,
người ta mới làm chủ được một kỹ năng. Từ đó, chúng ta có thể đạt được những
hành động hoàn hảo nhất, mà không cần phải cố gắng gì cả, bởi vì qua hàng loạt
thói quen đã được khắc sâu, chúng trở thành một bản chất thứ hai đối với chúng
ta.
Những thói quen có thể thông truyền và duy trì sức
sống. Thói quen và công việc hằng ngày có thể giúp chúng ta tiếp tục tiến tới,
và vượt qua được những thời điểm khó khăn, khi mà cả những thói quen hằng ngày
nhỏ bé nhất đều trở nên có ý nghĩa.
Nelson Mandela cho chúng ta một ví dụ về điều này.
Khi viết về thời gian ở tù, ông nói “Để tồn tại được ở trong tù, người ta phải
triển khai những cách thức để đạt được sự thoả mãn trong cuộc sống hằng ngày.
Người ta vẫn có thể cảm thấy dễ chịu bằng cách giặt giũ quần áo, quét hành
lang…”
Nhưng thói quen cũng có khía cạnh tiêu cực. Cuộc sống
có rất nhiều sự lập đi lập lại, đặc biệt trong công việc. Khi làm cùng những
công việc đó hết ngày này sang ngày khác, chúng ta dễ đi vào lối mòn, để rồi
cuối cùng, chúng ta thường chỉ làm việc theo thói quen mà thôi. Điều này đưa
đến hậu quả là chúng ta có thể làm việc mà không ý thức, theo một cách thức vô
tình, không cần suy nghĩ gì cả. Trong những công việc này, người ta không hề
thực sự có tâm hồn hoặc cảm giác. Tình trạng này thật đáng buồn và huỷ hoại tâm
hồn.
Thói quen có thể là một nhân tố gây u mê, làm lu mờ
các giác quan, đặc biệt là đối với thị giác và thính giác. Thói quen có thể đưa
chúng ta đi vào giấc ngủ mê, để rồi chúng ta không còn sống động nữa, mà chỉ
biết hành động theo thói quen mà thôi.
Ngoài ra, thói quen có thể mang tính ích kỷ, rất khó
bẻ gẫy, đặc biệt là đối với những thói quen xấu. Chúng ta vẫn có thể quen thuộc
đối với bất cứ thứ gì, ngay cả đối với các bức tường của nhà tù. Ban đầu, bạn
ghét chúng, thế rồi bạn quen thuộc với chúng, và sau đó, bạn lệ thuộc vào
chúng.
Nếu bạn đặt một con ếch vào một nồi nước nóng, thì nó
sẽ nhảy ngay ra ngoài. Nhưng nếu bạn đặt một con ếch vào một nồi nước lạnh, rồi
từ từ đun sôi lên, thì nó sẽ chỉ ngồi yên ở đó. Hệ thần kinh của nó quá sơ
đẳng, nên cần một cú sốc nẩy đột ngột, thì nó mới nhận ra rằng mình đang gặp
nguy hiểm.
Có lẽ đó là mục đích của Mùa Vọng, khi đưa ra một lời
mời gọi tỉnh thức, cung cấp cho chúng ta một cơ hội bắt đầu lại. Chúng ta có
thể dễ dàng trở thành những Kitô hữu chỉ theo thói quen. Chúng ta có thể chỉ
sinh hoạt, tham gia vào các lễ nghi phụng vụ, nhưng đã bị mất đi tất cả nét
tươi mát và ý nghĩa. Chúng ta không còn biết lắng nghe Tin Mừng nữa.
Mùa Vọng kêu gọi chúng ta tỉnh thức, để rũ bỏ lớp bụi
của công việc hằng ngày và thói quen, và một lần nữa, để cho Đức Kitô sống động
trong đời sống của chúng ta.
14. Những đầy tớ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có một dụ ngôn ngắn, nói
về người chủ nhà có nhiều đầy tớ. Một lần kia, trước khi trẩy đi phương xa, ông
gọi họ lại và trao cho mỗi người một việc. Ông hối thúc họ phải giữ trách nhiệm
bằng cách nói với họ “Khi tôi trở về, tôi muốn rằng anh em phải tỉnh thức”. Ông
ta ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức đặc biệt.
Câu chuyện của Đức Kitô chấm dứt ở đó, với lời cảnh
báo vang lên ở tai chúng ta. Chúng ta hãy xem xét đôi chút, bằng cách tập trung
vào người giữ cửa. Có lẽ sự nguy hiểm lớn nhất trước mặt anh ta không quá
nhiều, đến nỗi anh có thể ngủ ngay trong giờ làm việc, cho bằng vì anh ta có
thể càng ngày càng quen thuộc đối với công việc đó.
Lúc đầu, anh ta hoàn toàn phấn khởi với công việc
này. Anh cảm thấy hãnh diện vì được chủ tin tưởng nơi anh nhiều đến thế. Anh
thích bộ đồng phục. Khi mặc bộ quần áo này, anh cảm thấy mình trở thành một con
người khác hẳn. Anh ý thức rằng mình phải rất cẩn thận. Đối với anh, đó không
phải là một việc quá nặng nề, cho bằng đó là một công việc của lòng quí mến.
Nhưng thời gian trôi qua, có thể công việc mở cửa và
đóng cửa trở nên nhàm chán, cảm giác mới lạ bị hao mòn. Lớp bụi của thói quen
tích lũy trên con người và trên thế giới của anh một cách từ từ nhưng chắc
chắn, thay vào đó, là một công việc chán chết. Anh vẫn còn có tinh thần trách
nhiệm, vẫn còn liên tục giữ vị trí của mình. Nhưng anh chỉ thuần túy coi đó là
công việc mà thôi. Lòng quí mến và cảm hứng ban đầu đã bay đi hết. Anh không còn
đặt cả tâm hồn mình vào công việc nữa. Khi ông chủ trở về, chắc chắn ông sẽ
nhìn thấy anh ta đang làm việc. Anh ta sẽ tỉnh thức, nhưng anh không còn sống
động nữa. Anh sẽ bị tê liệt, bởi vì anh đã đánh mất tâm hồn của mình rồi.
Thói quen bóp chết chúng ta một cách từ từ, và sau
cùng tiêu diệt tất cả mọi sự sống. Chúng ta bị chìm ngập trong những lối mòn
của truyền thống và sự tùng phục. Chúng ta quên đi rằng mình đã từng có những
giấc mơ. Chúng ta cứ ngồi yên một chỗ, trong khi thực hành những thói quen cũ
kỹ và không có hiệu quả, rồi phê phán tất cả mọi sự và tất cả mọi người.
Những gì xảy đến cho đời sống bình thường, thì cũng
xảy đến cho đời sống kitô hữu của chúng ta. Chúng ta có thể đi vào một lối sống
hằng ngày nhàm chán, hậu quả là chúng ta chỉ là những Kitô hữu theo thói quen.
Chúng ta chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi. Chúng ta đang tham gia vào
những lễ nghi phụng vụ đã bị mất đi tất cả ý nghĩa và nét tươi mát. Chúng ta
không còn biết lắng nghe Tin mừng nữa. Lời Chúa chỉ đi vào tai này rồi trôi qua
tai kia. Dưới cái nhìn của chúng ta, gương mặt của Đức Kitô đã bị tiêu tan.
Vậy chúng ta phải có giải pháp nào? Đôi khi, chúng ta
cần được xáo động lên. Đó là khi Mùa Vọng đến. Mùa Vọng đưa ra một lời mời gọi
“Tỉnh thức” mạnh mẽ đối với chúng ta, cung cấp cho chúng ta một cơ hội để rũ bỏ
lớp bụi của thói quen, và một lần nữa, để cho Đức Kitô sống động trong đời sống
của chúng ta.
Chúa đang đến. Người sẽ đến với chúng ta vào giờ
chết, và đến với thế giới vào thời sau hết. Chúng ta không biết Người đến vào
ngày nào hoặc giờ nào. Bất cứ thời điểm nào đều cũng không phù hợp đối với
người đầy tớ không trung tín. Nhưng bất cứ thời điểm nào đều cũng phù hợp với
người đầy tớ tín trung. Người đầy tớ trung tín không e sợ Chúa đến: Họ sẵn sàng
tiếp đón ngày đó.
Chúng ta phải luôn sẵn sàng. Bằng cách nào? Bằng cách
trở thành những người đầy tớ sống động, cảnh giác và có tinh thần trách nhiệm
của Chúa và của nhau.
15. Tỉnh thức
Có ba cậu cậu thiếu niên
lên đường để leo núi. Khi lên được gần ba ngàn mét, thì một cơn bão tuyết bất
ngờ thổi tới, khiến cho các cậu phải đào hầm chui vào đống tuyết để thoát khỏi
những luồng gió lạnh buốt, cũng như để chờ đợi cho cơn bão qua đi.
Thế nhưng, mười một ngày
rồi mà cơn bão vãn còn tiếp tục thổi một cách dữ dội. Những chiếc túi dùng để
ngủ đã bị uớt sũng và đông cứng. Thức ăn dự trữ chỉ còn đủ cho mỗi người một
ngày hai muỗng bột mà thôi.
Nguồn an ủi duy nhất của
các cậu trong thời điểm kinh hoàng này chính là cuốn Kinh Thánh mà một cậu đã
mang theo. Các cậu đọc Kinh Thánh mỗi ngày tám tiếng đồng hồ và tìm thấy trong
đó một hoàn cảnh giống như hoàn cảnh các cậu đang gặp phải. Đó là hoàn cảnh của
Đavit.
Thực vậy, Đavít cũng đã lâm
vào tình trạng cô đơn, đói khát và không biết chuyện gì sẽ xảy đến. Cuối cùng,
ông chỉ còn biết tin tưởng vào Thiên Chúa. Các cậu cũng vậy. Không ai có thể
giúp đỡ và cứu thoát các cậu được, ngoại trừ chính Thiên Chúa. Vì thế, ngoài
việc nghe đọc Kinh Thánh, các cậu đã cầu nguyện với hy vọng cơn bão sẽ chấm dứt
và người ta sẽ đến tiếp cứu.
Cuối cùng, vào ngày thứ
mười sáu thì trời quang mây tạnh, các cậu bò ra khỏi hầm tuyết của mình. Tình
trạng sức khỏe lúc bấy giờ thật bi đát. Các cậu đã yếu lả, không thể bước đi.
Tuy nhiên cũng rất may mắn là toán cấp cứu đã tới kịp và tìm thấy các cậu.
Tôi nghĩ rằng câu chuyện trên chính là một hình ảnh
sống động giúp chúng ta sống tinh thần mùa vọng.
Thực vậy, Mùa Vọng là thời gian chúng ta sống lại nỗi
chờ mong của dân Do thái, bởi vì suốt dòng lịch sử họ đã mòn mỏi trông đợi Đấng
Cứu Thế. Và nỗi trông mong này đã kết đọng lại thành những lời nguyện cầu tha
thiết: - Như người lính gác mong chờ hừng đông, Israen đang mong chờ Chúa. -
Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.
Tuy nhiên không phải chỉ có thế. Mùa Vọng còn là thời
gian để chính chúng ta trông chờ việc Đức Kitô sẽ trở lại vào thời điểm cuối
cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Vì thế, Chúa Giêsu đã lên
tiếng cảnh giác: - Hãy tỉnh thức.
Chúng ta đang sóng giữa hai cột mốc của thời gian.
Cột mốc đầu tiên là lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất trong cảnh khó nghèo của máng
cỏ Bêlem. Còn cột mốc tiếp theo là lúc Ngài đến lần thứ hai trong vinh quang
của ngày phán xét.
Và như vậy, theo một nghĩa nào đó thì cuộc đời chúng
ta cũng chính là một Mùa Vọng liên tục.
Vì thế, công việc của chúng ta không phải chỉ là ngồi
yên và chăm chú nhìn theo những ánh sao trên bàu trời để tưởng nhớ việc Ngài đã
đến lần thứ nhất, đồng thời trông đợi việc Ngài đến lần thứ hai.
Thế nhưng bổn phận của chúng ta là phải hoàn tất công
việc Ngài đã trao phó. Đó là rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Ngài giữa lòng
cuộc đời.
Do đó, Mùa Vọng còn là thời gian để chúng ta kiểm
điểm lại xem: chúng ta đã làm những công việc ấy như thế nào? Chúng ta đã thực
sự chu toàn sứ mạng Chúa trao phó hay chưa?
Nếu như ngày hôm nay Chúa trở lại và xét xử, thì liệu
chúng ta có được Ngài đón nhận vào quê hương Nước Trời hay không?
16. Phải tỉnh thức và sẵn sàng
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1.
Nếu biết trong tuần tới kẻ trộm sẽ đến nhà bạn, không biết vào lúc nào, ngày
hay đêm, bạn có làm gì khác lạ hơn bình thường không? Tại sao?
2.
Tỉnh thức nghĩa là là gì? Cho một vài thí dụ khác nhau về tỉnh thức.
3.
Để tỉnh thức theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay, một cách cụ thể thì phải làm
những gì?
Suy tư gợi ý:
1. Nếu tôi biết tuần này kẻ trộm sẽ đến nhà tôi, thì ...
Chúng ta thử xét một cách thật nghiêm túc xem: phản
ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào khi được báo tin chắc chắn một bọn
trộm cướp đã dự định đến “thăm” nhà ta tuần này. Được tin ấy, thử hỏi ban đêm
ta còn ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán kẻ trộm cũng có thể đến cả vào
ban ngày nữa, thì ta có đề phòng cả ban ngày không? Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa
những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám con cái còn bé nhỏ chưa kinh nghiệm
không? - Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta sẽ gia tăng đề phòng, không
để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật gì. Muốn đề phòng hữu hiệu, ta phải
canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề phòng lúc nào là kẻ trộm có thể
đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề phòng
liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.
Chỉ vì sợ mất của cải vật chất chóng qua mà ta lo
canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của ta, của cải tâm linh của ta
là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo lắng canh giữ?
2. Cách sống hiện tại quyết định số phận vĩnh cửu
Số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại
của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai
sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh
cửu đã bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại, và định hình vĩnh viễn ngay khi
ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta chết. Nhưng ta chết lúc nào?
Không ai biết được! Những người chết trong hai tòa nhà cao tầng ở New York ngày 11-9-2001,
hay trong tòa nhà 6 tầng các Trung Tâm Thương Mại tại Sàigòn ngày 29-10-2002
không ai ngờ được trước khi vào đó rằng hôm ấy là ngày tận số cuộc đời mình.
Không ngờ được vì thấy rằng còn gì bảo đảm an toàn hơn khi ở trong những tòa
nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào,
trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối với cái chết, chẳng lúc nào,
chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an toàn cả! Thật đúng như thánh
Phaolô nói: “Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!"
thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống” (1Tx 5,3). Cái chết đến quả thật như
kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào, và thế
nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng. Vấn đề hết
sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế nào?
Số phận của chúng ta đời sau chính là kết quả của
cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống vị tha, yêu thương mọi người đúng
theo bản chất của mình là “hình ảnh của Thiên Chúa” cũng là “con cái Thiên
Chúa”, thì đời sau chúng ta sẽ được sống trong một môi trường đầy yêu thương,
được gần gũi với chính Thiên Chúa của Tình Thương. Trái lại, nếu đời này ta
sống ích kỷ, ít tình thương, không tình nghĩa, thường lãnh đạm, nhạt nhẽo, ganh
ghét, hận thù… với tha nhân, thì đời sau chúng ta sẽ phải sống trong một môi
trường không có tình thương, đầy hận thù và xa cách Thiên Chúa. Điều đó xảy ra
không khác gì một quy luật, luật nhân quả: “Cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu
thì sinh quả xấu” (Mt 7,17). Tương tự như một người luôn yêu thương và vui vẻ
với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt thòi cho người khác, thì tự
nhiên người ấy tạo ra chung quanh mình một bầu khí vui tươi, thoải mái, yêu
thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy hạnh phúc và quí mến
người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chẳng biết yêu thương
hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho mình, tự nhiên
người ấy sẽ tạo ra chung quanh mình một bầu khí ảm đạm, căng thẳng, buồn tẻ, và
chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú gì khi ở với người ấy.
3. Ngày của Chúa
Đối với mỗi cá nhân, Ngày của Chúa - hay ngày Chúa
đến - chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần thế để đến trình diện trước mặt
Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của mình. Đối với toàn thế giới,
Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả mọi người đã từng sống trên
trần gian đều phải trình diện trước mặt Chúa. Ngài sẽ phán xét Giáo Hội cũng
như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ,
mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi tập
thể... Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa sẽ biết rõ ràng
và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí mật trên thế giới
trong tất cả mọi lãnh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất cả mọi người thấy,
không một che dấu nào mà không bị hiển lộ... Trước mọi sự được tỏ bày, ai nấy
đều tự mình biết mình là công chính hay tội lỗi, và công chính hay tội lỗi ở
mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của mình, của mọi
người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp lý và quang
minh.
Ngày ấy sẽ là ngày vui mừng, vinh quang cho những
người thật sự công chính, vì họ sẽ được giải oan, được mọi người nhìn nhận sự
trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những gì tốt đẹp của mình, đồng thời được
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày u buồn, nhục nhã, xấu hổ cho
những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ gian ác, vì mọi giả dối, xấu
xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến đâu cũng đều bị lột trần,
phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là đau khổ muôn đời.
4. Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng
Ngày của Chúa đến như kẻ trộm, không ai biết trước
được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời đời của ta. Vì thế, thái độ
khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn
sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh
phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?
Tỉnh thức trái với ngủ quên, trái với tình trạng mê
mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta quên mất điều ta phải nhớ, phải
canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người nhà tôi bận việc, yêu cầu tôi
canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ý thức. Nhưng chờ lâu quá, để
tiết kiệm thì giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới lúc chợt nhớ tới ấm nước thì
đã quá muộn, ấm đã cạn sạch nước. Chậm một chút nữa là ấm sẽ bị cháy! Công việc
đã thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!
Tỉnh thức theo nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là luôn
luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của
mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa, nhờ đó đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Điều
đó đòi hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu
thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần mình nhất. Điều tôi cần quan
tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho tha nhân, mà còn là làm những
gì họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt
25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những điều
mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng mình không
làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là mình vô tội, mình công chính.
Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho
tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể như khi
đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng thì bất công ấy đã không xảy ra,
hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đã không lên
tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không có đủ
tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với hạnh
phúc vĩnh cửu.
Chúng ta có thể trở nên “mê ngủ”, mất tỉnh thức khi
ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần tục. Nhiều người mê mải tìm
kiếm tiền bạc, quyền lực... đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận mình phải làm
cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng trước bất công...), mà còn
sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu khống, gây bất công, thù
oán, giết người...) Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời,
thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở thích...), cũng có thể
làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng lễ, đọc kinh, cầu
nguyện...) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải làm cho tha
nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu đẹp lòng Thiên
Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19). Đáng lẽ việc thờ
phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối với tha
nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn luôn ý
thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Cha, thì ra có rất nhiều điều có thể làm con mê
ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc nhiên là ngay cả những đam mê tốt
lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam mê làm tông đồ, đam mê làm ăn...
có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm đối với những người chung quanh
con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng xóm... Con có bổn phận rất quan
trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh phúc. Xin Cha đừng để những
đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức.
17. Hãy tỉnh thức và đợi chờ
(Lm Mark Link)
“Bạn không
biết được lúc nào chủ nhà sẽ về tới”
Một ngày trong tháng 12,
cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt.Hood dự
tính trong vòng 4 ngày.
Lên được 9.000 bộ (tức gần
3 km), ba cậu bé bị một cơn bão tuyết có lẫn đá thổi tới và vùi lấp. Chẳng bao
lâu tuyết đã ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm chui vào đống tuyết để
thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ đợi cho qua trận bão
tuyết.
Mười một ngày sau, trận bão
tuyết vẫn còn tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui vào ngủ của các cậu đã
bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ còn đủ cho mỗi người mỗi ngày được
hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu bây giờ là cuốn Thánh
kinh gọn nhỏ mà một cậu đã mang theo trong túi hành trang.
Các cậu mở sách Thánh Kinh
và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ nghĩnh: trong một cái hầm
đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2), có ba cậu bé mới mười mấy tuổi
đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc sách. Chỉ có một chút ánh
sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía trên.
Tại đó, ba cậu tụm lại với
nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác, cùng nhau lắng nghe Lời
Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.
Cuốn Thánh Vịnh dường như
là cuốn nói hay nhất về tình trạng hiện tại của các cậu. Đavid có viết một vài
bài khi ông bị lâm vào những tình trạng không khác gì các cậu; đói, cô đơn,
không biết chuyện gì sắp xẩy đến, chỉ còn biết tin tưởng ở Chúa. Nếu có ai cứu
giúp, thì người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải chuyện
dễ. Các cậu chỉ còn biết cầu nguyện, hy vọng cơn bão tuyết sẽ chấm dứt và sẽ có
người tới cứu giúp.
Cuối cùng, vào ngày thứ 16,
bầu trời trong sáng trở lại, các cậu bò ra khỏi hầm bằng tuyết của mình. Qua cơn
ngặt nghèo ấy các cậu trở thành yếu đuối, và ra khỏi hầm các cậu chỉ có thể
bước đi được một ài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu trợ bắt gặp cáccậu
trong tình trạng như thế. Cuối cùng cơn thử thách khiến các cậu phải chờ đợi
lâu dài đó đã chấm dứt. Câu chuyện của các cậu bé, phải tụm lại với nhau trong
hầm bằng tuyết chờ đợi cơn bão chấm dứt, là một hình ảnh tuyệt hảo tượng trưng
cho mùa vọng.
Mùa vọng nhắc lại thời gian chờ đợi lâu dài của dân
Do Thái mong mỏi Đấng Cứu Thế đến. Họ không biết làm gì để cho Đấng Cứu Thế mau
đến hơn họ chỉ biết chờ đợi và cầu nguyện y như các cậu bé kia đã làm trên ngọn
núi Mt.Hood. Dân Do Thái chỉ còn biết tin tưởng và chờ đợi Thiên Chúa sẽ đến để
giải cứu họ.
Một trong những bài Thánh vịnh mà ba cậu bé cứ đọc đi
đọc lại để cầu nguyện trên ngọn núi Mt.Hood là thánh vịnh 130. Trong đó có một
câu như sau: “Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa cứu độ, và tôi tin tưởng ở lời Ngài.
Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa còn hơn ngừơi lính gác mong chờ hừng đông”. Nếu
không có Lời Chúa nâng đỡ tinh thần, thì các cậu dễ dàng thất vọng lắm. Dân Do
Thái cũng như vậy khi họ mong chờ Đấng Cứu Thế. Nếu không có Lời Chúa ủi an họ,
thì họ cũng sẽ thất vọng dễ dàng.
Nhưng Mùa Vọng không hẳn là thời gian để chúng ta nhớ
lại và sống lại việc người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Mùa
Vọng còn có ý nghĩa hơn như thế nhiều.
Mùa Vọng cũng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc
Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi
nhất. Chính vì thế mà Thánh sử Marcô nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay
như sau: “Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức… Đừng để khi Đức Giêsu bất ngờ đến mà
Ngài lại thấy các bạn còn đang ngủ. Những gì tôi nói với các bạn, thì tôi cũng
nói với tất cả mọi người: Hãy tỉnh thức”.
Điều này dẫn chúng ta đến quan điểm thứ hai về Mùa
Vọng. Bạn và tôi, chúng ta đang sống trong khoảng thời gian quan trọng giữ hai
thời điểm: lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất và lúc Ngài đến lần thứ hai.
Công việc của chúng ta không phải là cứ ngồi chăm chú
và thánh thiện nhìn lên bầu trời để tưởng nhớ việc Đức Kitô đến lần thứ nhất và
trông chờ Ngài đến lần thứ hai. Bổn phận của chúng ta là hoàn tất công việc mà
Ngài đã giao cho chúng ta làm. Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói
với kẻ theo Ngài: “Các con hãy đi khắp nơi, đến với mọi dân tộc, rao giảng cho
họ về nước trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, và dạy họ
tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con. Và Thầy sẽ luôn luôn ở cùng
các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28, 19-20).
Mùa Vọng là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem
chúng ta đã làm điều đó tốt đẹp thế nào. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta tự
nhủ một cách đặc biệt rằng: khi Đức Giêsu trở lại, Ngài sẽ xér xử chúng ta xem
chúng ta đã làm việc như thế nào để loan truyền nước Thiên Chúa ở trần gian
này.
Đức Kitô đã chết. Đức Kitô đã phục sinh. Đức Kitô sẽ
trở lại. Cho tới khi Ngài trở lại, chúng ta phải lưu tâm tới công việc mà Ngài
đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta phải cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ
rách rưới mặc, tiếp đón khách đến nhà, làm việc cho hoà bình, và yêu thương
nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Đây là sứ điệp mà những bài đọc hôm nay muốn nhắn nhủ
chúng ta. Sứ điệp đó là: Chính Đức Giêsu, Đấng đã sống ở trần gian cách đây hơn
hai ngàn năm, sẽ trở lại vào ngày tận thế đúng lúc chúng ta không ngờ tới. Khi
Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử từng cá nhân mỗi người chúng ta về cách thức chúng
ta hoàn thành công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm. Chúng ta hãy hồi tâm
lại để cầu nguyện, xin Đức Giêsu giúp chúng ta trung kiên trong công việc mà
Ngài đã giao cho chúng ta thực hiện.
- Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con sức mạnh, vì đôi
khi chúng con gặp phải những vấn đề khó khăn rắc rối khiến chúng con muốn bỏ
cuộc.
- Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Ngài, vì
đôi khi chúng con bị người khác hất hủi khiến chúng con bị cám dỗ ghét bỏ họ.
- Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con đôi mắt của Ngài,
vì đôi khi cuộc đời trở thành đen tối khiến chúng con không còn biết đâu là
đường chúng con phải đi.
- Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban chính Ngài cho chúng con. Tâm
hồn chúng con đã được dựng nên để yêu Ngài, nên tâm hồn chúng con sẽ không bao
giờ an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ an trong Ngài.
18. Mở rộng tâm hồn đón Chúa
(Lm Nguyễn Bình An)
“Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu
tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa
Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy
của con người. Sa lầy trong cuộc đời
khổ ải và gian truân. Sa lầy vì
duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa
lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con
người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc
vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa
lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân
tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục
vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và
tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa
ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của Mùa Vọng.
Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm
ý nghĩa và đáng sống.
Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ
đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt
mẹ và ngây thơ tâm sự “Mẹ ơi, con muốn
chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất
phúc thiên đàng”. Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc
chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng
trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy
kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy
và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra
khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa
đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh
và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương
tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại
chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta
trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã
bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.
Trời vẫn ban mưa. Cứu Tinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp
tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo “đời
ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng
không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”
Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận
hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa
văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa
nhân loại. “Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ”.
Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không
cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ
nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng
lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người
yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín
múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ
biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác,
thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.
Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn
rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới
tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa Mùa Vọng?
19. Chú giải của Fiches Dominicales
TỈNH THỨC CHỜ NGÀY CHÚA TRỞ
LẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Trong ánh sáng ngày Con Người trở lại
Người ta chờ đợi phụng vụ năm B sẽ mở đầu bằng những
trang đầu của Tin Mừng theo thánh Maccô là một điều hợp lý. Thế nhưng, không
như người ta tưởng, phụng vụ hôm nay lại trích dẫn một đoạn trong phần gần cuối
của Tin Mừng Maccô nói về "Ngày Tận Thế" để giúp soi sáng thêm ý
nghĩa của Mùa Vọng ta đang bước vào.
Sở dĩ Đức Giêsu nói về ngày Tận Thế là vì các môn đệ
đã lo lắng hỏi Người khi nghe Người loan báo đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá.
Khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói với các môn đệ về ngày Tận Thế, thánh
Maccô muốn các độc giả của Ngài hiểu rằng lời Chúa xưa nói với các môn đệ cũng
là lời Người nói với họ hôm nay:
- Với những độc giả của Tin Mừng Maccô, là những
người đã biết hay sẽ biết những năm tháng bi đát (năm 64 Nêrôn bắt bớ, năm 66
cuộc nổi dậy ở Palestin, năm 70 đạo binh của Titus chiếm đóng và phá hủy đền
thờ), thì phải học biết rằng ngày Chúa trở lại mà họ tin là sắp đến còn lâu mới
xảy ra.
- Còn với độc giả hôm nay và mọi thời cho đến ngày
Đức Giêsu trở lại, lời Chúa loan báo soi sáng cho họ biết tầm quan trọng của
thời họ đang sống: lịch sử đang tiến đến viên mãn và Đấng sẽ đến gặp gỡ chúng
ta ở thời sau cùng này là Đức Giêsu cũng là "Con Người”.
2. Mạc khải những thách thức thời hiện đại
Thật ra khi né tránh câu hỏi KHI NÀO - bí mật của
Chúa Cha - và NHƯ THẾ NÀO, Đức Giêsu có ý khuyến khích các môn đệ mình sống
giây phút hiện tại trong sự dấn thân khiêm tốn và tin tưởng cùng với sự tỉnh
thức nhạy bén. Người nói với các ông: "Anh em phải coi chừng (tiếng Hy
lạp: hãy mở mắt), phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy
đến."
Những lời đó được minh hoạ tức khắc bằng dụ ngôn ngắn
gọn cuối cùng: Dụ ngôn một người trẩy đi phương xa, chắc là xa lắm, và trao tất
cả quyền hành cho các đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc, và dặn người gác cửa
tỉnh thức. Chúa nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày giờ sẽ đến (người ta
không biết khi nào thời ấy sẽ đến: c. 33, người ta phải chờ đợi việc Chúa trở
lại cách thình lình, không báo trước: c. 33,35,36) có mục đích duy nhất như một
lệnh truyền hãy tỉnh thức.
Cách chỉ giờ giấc nối tiếp nhau của trình thuật rất
có ý nghĩa, chứ không chỉ có tính cách kể chuyện, vừa thể theo cách người Rôma
chia đêm thành bốn canh, vừa gợi nhớ bốn giai đoạn của cuộc thương khó, vừa đề
ra bốn giai đoạn mà các môn đệ phải tỉnh thức, nghĩa là không những phải chống
trả với sự buồn ngủ về thể lý, nhưng còn phải sẵn sàng đối đầu với sự việc sắp
đến cách bất ngờ.
- "Buổi chiều”: Giờ mà Đức Giêsu
đoán trước sự phản bội của Giuđa và sự từ chối của chính Phêrô (14,13-31).
- "Nửa đêm": Giờ Chúa hấp hối trong vườn Giếtsêmani, mời gọi các
môn đệ tỉnh thức, và ba lần "Người thấy họ ngủ”. Người nói: "Hãy tỉnh
thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (14, 32-42).
- "Lúc gà gáy”: Giờ Phêrô chối Thầy
trong sân thượng tế (14,66-72).
- "Sáng sớm": Giờ các môn đệ
bỏ trốn, Đức Giêsu bị Hội đồng trao nộp cho Philatô (15,1 ...).
Một lần nữa khi nhấn mạnh lệnh truyền của Thầy
"Hãy tỉnh thức” trước cuộc tử nạn, thánh sử Maccô muốn khuyến khích anh
chị em ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai đừng để cho lòng mình ra nặng nề, rối
loạn, thất vọng. Nhưng luôn vững tâm tỉnh thức đón tiếp Đấng vẫn đến cho những
ai luôn biết hiện diện với Người, và một ngày kia, Người sẽ đến trong vinh
quang. Bởi lẽ chính ngay bây giờ, chính trong thực tại khiêm tốn diễn ra hằng
ngày, mầu nhiệm cuộc gặp gỡ được thể hiện.
Sau hết, hình như điều quan trọng Đức Giêsu muốn nói
với chúng ta không nằm trong chữ KHI NÀO hay BẰNG CÁCH NÀO vào thời sau hết mà
nằm trong chữ AI: Phải gặp gỡ AI trong cuộc gặp gỡ sau cùng, cũng như nằm trong
sự tỉnh thức tích cục giữa những lo toan của cuộc sống hằng ngày. Đó chính là
điều Con người mời gọi mời gọi các tín hữu khi Người đến.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của các môn-đệ: trở nên người canh thức cho thế
giới.(Mgr. L.Daloz, trong "Vậy Ngài
là ai?, Desclée de Bouwer, tr 83-84)
Chương này dựng cảnh trí cho Đức Giêsu nói đến bi
kịch của thế giới sẽ diễn ra: viễn ảnh của ngày tận thế. Sự chết và sống lại
của đức Giêsu làm cho lịch sử nhân loại có ý nghĩa. Tại núi Câu Dầu, đối diện
với Đền thờ, Đức Giêsu tâm sự với bốn môn đệ mà Người kêu gọi trước hết là
“Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê...". Qua các ông, Người mạc khải cho chúng
ta ý nghĩa của thời kỳ ta đang sống: đó là thời kỳ chờ đợi, người môn đệ phải
là người canh thức, ngóng chờ chủ trở về. Đó là thời kỳ đầy mơ hồ cần sự phân
định, và chúng ta được mời gọi phải canh phòng cẩn mật, đừng để bị phỉnh gạt
chạy theo những đấng Mêsia giả hiệu. Đó là thời kỳ phấn đấu và chịu bách hại,
thời kỳ chuyển bụng của một thế giới đang đau đớn trước khi sinh con. Đó là
thời kỳ được ban cho các nhân chứng để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân mọi nước.
Đó là thời kỳ của Thần Khí, Đấng hướng dẫn miệng lưỡi các vị tử đạo.. Sự chết
và sự sống lại của đức Giêsu phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của những biến cố xoay
vần bất tận. Xuyên qua ngay cả những bất an và những cùng khổ, từ nay lịch sử
quy hướng về Con Người đang đến. Khi mọi chỗ nương tựa chắc chắn hữu hình và cả
đến "trời và đất" đều sụp đổ, Người để lại cho các môn đệ Người một chỗ
nương tựa vững chắc, đó là những lời Người không thể qua đi. Họ có bổn phận
phải kiên trì quan sát những cành cây vả, để nhận ra và loan báo rằng, cây sắp
đâm chồi nẩy lộc, và sau mùa đông rét buốt thì mùa hạ đang đến gần. Họ có bổn
phận phải lắng tai để nghe hồi chuông báo hiệu giờ quyết định, mà không ai
ngoài Chúa Cha được biết, và phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm ngày mới, tỏa ánh
vinh quang của Con Người. Từ nay ơn gọi của người môn đệ cho đến ngày tận cùng
thời gian là làm người canh thức cho thế giới... "Lạy Đức Giêsu, xin hãy
đến!”
2. “Đợi chờ rạng đông”. (H.Vulliez, trong
"Thiên Chúa rất gần năm B, Desciée de Brouwer, tr. 9-10).
Đức Giêsu luôn đến với ta cách đột ngột. Ngài loan
báo những ngày thống khổ, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sẽ không còn chiếu
sáng, đồng thời Ngài gợi lên "sự trở lại của Con người” sự trở lại của
chính Ngài, "trong uy quyền và vinh quang” viên mãn. Tất cả là để nói lên:
"Hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức”.
“Hãy tỉnh thức”, đó là lời mời gọi khẩn cấp vang lên
trong khung cảnh của ngày sau hết trong lúc xuất hiện một thế giờ mới. Trong
bài đọc ngày hôm nay, lời mời gọi này được lặp lại bốn lần! Khi nói như thế,
không phải Đức Giêsu muốn tung ra một lời đe doạ ghê gớm của ngày chung thẩm,
hay muốn tạo cho người nghe cảm giác nổi gai ốc về tai hoạ sắp xảy đến. Nhưng ở
đây qua dụ ngôn nén bạc chẳng hạn, không phải là chuyện tính sổ, mà trước hết
là đừng ngủ mê, phải tỉnh thức sẵn sàng để đón tiếp, vì bất cứ lúc nào Thầy
cũng có thể đến một cách bất ngờ. Làm sao các môn đệ hiểu được những lời này
khi Đức Giêsu nói với các ông? Phải đợi đến sáng sớm Phục sinh, bóng lên trong
ánh sáng mờ ảo của bình minh, dụ ngôn ngắn ngủi nay mới rõ nghĩa. Một chi tiết
của bài đọc làm ta ngạc nhiên: Thầy sẽ đến ban đêm, vào bất cứ giờ nào: buốt
tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay lúc rạng đông? Không ai biết cả. Từ muôn thuở, từ
lúc Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, ngày và đêm chiến đấu với nhau
và sẽ như thế mãi cho tới khi Chúa đến chiến thắng vĩnh viễn cho ánh sáng.
Chiến thắng trên những quyền lực sự dữ của bóng tối. Thời gian ở đời này là
thời gian chiến đấu. Đức Giêsu thúc giục bạn hữu mình và các môn đệ của Ngài
hãy tỉnh thức, không như những người lính gác hay người lính tuần đêm, nhưng
như người đợi chờ ánh bình minh, mong ngày tới để hưởng niềm vui và loan báo
cho mọi người. Người cũng muốn các ông luôn phải sẵn sàng đón người, vì Chúa
đến bất cứ lúc nào, chứ không chỉ vào "giờ chết” hay "ngày tận thế”
mà thôi đâu. Trong mọi giây phút tăm tối của cuộc đời, ánh sáng soi dẫn của Chúa
luôn bên ta. Nhiều người mời gọi người ta ăn năn trở lại bằng cách loan báo
những tai hoạ khủng khiếp: "Hãy run sọ, hãy chuẩn bị”. Còn Đức Giêsu kêu
mời một cách thanh thản, thực tế. Thanh thản như bầu trời lúc bình minh đầy ánh
sáng. Thực tế như trái đất sống nhờ ánh sáng. Cái nhìn thanh thản và thực tế
này tạo nơi chúng ta niềm cậy trông bởi vì nó đưa chúng ta vượt qua cái chết,
vượt qua trần thế này. Cái nhìn ấy cũng hướng về ánh sáng luôn đến gần bên ta.
Chúng ta có phải là những người đang mong chờ ánh bình minh không? Bước vào
ngượng cửa Mùa Vọng này, chúng ta có sẵn sàng nhìn ngắm và đi theo ngôi sao dẫn
chúng ta đến với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người không?
20. Chú giải của Noel Quesson
Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức
Từ “Hãy tỉnh thức” được Chúa Giêsu nhắc lại bốn lần
trong Tin Mừng Maccô.
Đó là lệnh truyền Đức Giêsu, ngay trươc lúc Người lên
đường. Bởi vì, trong Tin Mừng Maccô, cuộc Thụ Khổ khởi sự liền sau trang này.
Lạy Chúa, Chúa nhấn mạnh, Chúa yêu cầu chúng con luôn luôn sống tỉnh thức “Tỉnh
thức”. Khi sắp tới vườn Ghétsêmani. Chúa thấu biết không một môn đệ nào của
Chúa đứng vững. Thế nên, Chúa cố đề phòng cho họ: Anh em phải tỉnh thức, tỉnh
thức, tỉnh thức!
Lạy Chúa, xin hãy lặp lại cho chúng con lời căn dặn
như thế.
“Anh em phải coi chừng”. Đức Giêsu thường sử dụng
từ này trong một bối cảnh cuộc “giao chiến”. Tình thức là để giao chiên. Tỉnh
thức là chú ý đặc biệt, trong trường hợp nguy hiểm. Cần phải “coi chừng” để
nghe lời Chúa (Mc 4,12), nếu không ta chỉ đứng bên lề mà để cho lời Chúa vuột
qua. Cần phải “ coi chừng”, để ta giữ mình khỏi “men Pharisêu”, nếu không nó
thấm nhiễn vào ta mà khong hay biết (Mc 8,15-12,38). Cần phải “coi chừng”, để
không tin những kẻ báo trước tương lai, như thể họ nắm vững (Mc 13,5-13).
Thánh Phaolo sẽ sử dụng một thứ ngôn ngữ bi thiết để
nói về thái độ tỉnh thức. Ngài đòi hỏi “thức dậy ngay” (Rm 13,11). Chính vì
chúng ta đều dễ bị đờ đẫn nên cần phải nghĩ tình trạng mê mẩn sẽ xảy đến, khi
ta lạm dụng nhiều thuốc ngủ. Đúng vậy, ta phải coi chừng trước tình trạng mê
ngủ của lương tâm: Phản ứng tự vệ không còn hoạt động nữa... cũng như người lái
xe vì uống quá nhiều, chỉ còn biết đâm đầu vào vật chắn cản. Như thế cần phải
“dứt mình” ra khỏi tình trạng mê ngủ! Hơn nữa, để nói về thái độ “tỉnh thức”.
Phaolô không ngần ngại sử dụng đến từ vựng về chiến tranh: Những “vũ khí” trang
bị cho thái độ tỉnh thức (Rm 13,12; Ep 6,10; 1 Tx 5,6-8).
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay, xin hãy lặp lại cho con
“phải coi chừng”. Đời sống Kitô hữu luôn là cuộc giao chiến với những quyền
lực, xem ra mãnh liệt hơn chúng con. Lạy Chúa xin giữ gìn chúng con biết tỉnh
thức, cho giờ Chúa xuất hiện.
Vì anh em không biết khi nào ngày giờ ấy đến...
Môn đệ của Chúa Giêsu đặt cho Ngài câu hỏi: “Bao giờ
các sự việc ấy xảy ra, và khi tất cả sắp đến tận cùng thì có điềm gì báo
trước?” (Mc 13,4). Đức Giêsu không trả lời câu hỏi này. Các sấm ngôn đủ loại và
thuộc mọi thời đại, đã báo trước ngày thế mạt cả rồi! Ở đây, Ngài trả lời một
lần dứt khoát: “Anh không biết được bao giờ”. Đức Giêsu không muốn ta mất giờ mơ
tưởng về quá khứ hay tương lai. Ngài đòi hỏi chúng ta phải tập trung vào “giây
phút hiện tại”, vào chính ngày Hôm nay: Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em
không biết... Anh em hãy luôn sẵn sàng.
Cha Charles de Foucault đã coi lời sau đây như châm
ngôn sống: “Cố sống mỗi ngày, như thể chiều tối nay bạn sẽ chết”.
Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại giao trách
nhiệm cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc...
Thiên Chúa xem ra “vắng mặt”, như thể người kia trẩy
phương xa! Đây là hình ảnh đẹp, diễn tả chọn vẹn cảm tình mà ta thường nghiện
thấy: Lạy Chúa, sao Chúa ở xa quá! Chúa như là kẻ hoàn toàn khác lạ! Nhưng ta
nên lưu ý, đối với Đức Giêsu, thời gian vắng mặt nêu trên, trước hết không phải
là thời gian bất hạnh hay âu lo, nhưng là một thời mang đầy trách nhiệm: Mỗi
người đều nhận một phận vụ, một công việc. Hầu như ta có cảm tưởng rằng ông
“Chủ” này cố ý đi xa, để tạo cho các đầy tớ ông, một tầm quan trọng, để họ khỏi
phải lúc nào cũng ám ảnh tới ông: Nào, hãy đảm nhận lấy trách nhiệm. Các bạn
đâu còn là trẻ con nữa. Hãy quyết định, hãy suy nghĩ. Tôi tin tưởng các bạn …
Tôi giao cho các bạn “mọi quyền hành”! Lạy Chúa xin giúp chúng con sống xứng
đáng với trách nhiệm đã được Chúa giao phó: Trong gia đình, trong phạm vi nghề
nghiệp, nơi khu phố, trong đoàn thể này hay hiệp hội kia trong Giáo Hội.
Ông ra lệnh cho người giữ cửa canh thức…
Ban đêm, người giữ của có một tầm quan trọng đặc
biệt, bởi vì bổn phận của ông là phải nghiêm chỉnh “canh thức”, đề phòng để
ngôi nhà khỏi bị tấn công bất ngờ, không mở cửa cho bất cứ ai nhưng lại là
người đầu tiên mở cửa đón tiếp ông chủ khi ông trở về. Thánh Maccô quen đề cao
vai trò của Phêrô trong nhóm Mười Hai. Khi phân biệt được người giữ của với các
đầy tớ khác, Đức Giêsu muốn lưu ý rằng, các vị chủ chăn trong Giáo Hội được mời
gọi một cách hết sức đặc biệt phải “tỉnh thức”: Phêrô vị Giáo Hoàng, các Giám
mục là những người đầu tiên có trách nhiệm tỉnh thức đối với toàn thể dân Chúa,
cũng như người giữ cửa có bổn phận chăm sóc toàn thể ngôi nhà này. Lạy Chúa,
con cầu xin Chúa cho những vị đang nắm giữ vai trò đó trong Giáo Hội hôm nay.
Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ
nhà đến.
Đức Giêsu đã nói đến thời gian vắng mặt… Ngài cũng
loan báo thời gian trở lại … Chúng ta sẽ đi tới cuộc gặp gỡ này. Một ngày kia
con sẽ gặp gỡ Chúa, mặt đối mặt và con sẽ thực sự nhận biết Chúa, như Chúa biết
con (1Cr 13,12). Cuộc đời Kitô hữu là một hành trình tiến tới cuộc gặp gỡ đó.
Ông chủ sẽ trở về… vào lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy
hay tảng sáng.
Thật là kỳ lạ khi ta nhận thấy Đức Giêsu chi gợi lên
một cuộc trở về vào lúc đêm khuya! Thế mà tại Đông phương xưa kia, vì sợ nguy
hiểm trên đường đi, người ta thường không du hành vào ban đêm. Chi tiết hơi kỳ
di trên đây, mang một ý nghĩa biểu tượng, Kinh Thánh thường nhắc đi nhắc lại.
Đêm khuya, đó là thời gian của bóng tối, thời gian của “quyền lực tối tăm” (Lc
22,23; Mc 14,49; Ep 6,12). Do đó đêm tối cũng chính là thời gian của cám dỗ,
thời gian của thử thách. Vì thế phải đặc biệt tỉnh thức lúc đêm khuya. Cựu Ước
mong đợi thời của Đấng Thiên sai như giai đoạn mà bóng tối sẽ chấm dứt, để
nhừng lại chỗ cho ánh sáng. Để diễn tả nỗi lòng mong ước, ngôn sứ đã cất tiếng
nói: “Hỡi người canh thức, đêm còn mấy chốc nữa?” (Is 21,11). Và để tăng cường
niềm hy vọng, Thánh Phaolô đã nói: “Đêm sắp tàn, ngày gấn đến” (Rm 13,12). Để
loan báo Noen, vào thánh lễ nửa đêm, Giáo Hội hát lên cho chúng ta bài thơ
tuyệt diệu của I-sai-a (9,1). “Dân đi trong tăm tối đa thấy bừng lên một luồng
sáng lớn”. Và trong mùa vọng, ta vẫn thường ca lên: các dân tộc bước đi trong
đêm dài, những ngày sắp tới … Đây là lúc hãy ngẩng đầu lên!
Hãy tỉnh thức trong đêm tối. Hãy tỉnh thức trong
những khó khăn… Hãy nắm giữ hy vọng, ngay cả khi ta ở trong đêm đêm đen… Hãy
đứng vững, khi mọi sự như sụp đổ. Như một bình minh mới đang xuất hiện trong
đêm tối đời ta. Thiên Chúa sắp đến để cứu độ dân Người. Chính nhờ đêm tối ta dễ
tin vào ánh sáng. Đề tài này Gioan Thánh Giá rút ra được một xác quyết: Thiên
Chúa vẫn có đó là nguồn tín nhiệm, hiện diện mãi mãi, nhưng vẫn còn là đêm tối.
Lúc gà gáy…
Maccô, thư ký riêng của Phêrô đã đưa ra một so sánh
tực tiếp. Ngay trước khi chịu khổ hình, trước lúc vào vừơn Ghét-sê-ma-ni, nơi
Phêrô sẽ ngủ thay vì phải tỉnh thức trước khi bước vào đêm bi thảm mà tiếng gà
sẽ nhắc cho Phêrô biết mình thiếu tỉnh thức (Mc 14,72), thì Đức Giêsu nói cho
“người giữ cửa” của Giáo Hội cần phải tỉnh thức. Nhưng ta biết, ông thiếu thái
độ đó. Ôi! lúc gà gáy, Phêrô mới nhận ra tôi lỗi và sự chối bỏ của mình! Điều
đó cho ta nhận ra rằng, Giáo Hội cũng mang tính nhân loại biết bao! Và điều đó
mời gọi ta không nên thất vọng trước những yêu đuối của Giáo Hội.
Ông chủ có thể đến bất thần…
Thiên Chúa luôn đến bất thần, không ngờ, đột ngột!
Hầu như có thể nói được rằng, đó là dâu hiệu của Thiên Chúa đích thực: Đấng
hoàn toàn khác lạ! Mỗi lần ta tưởng mình đã xác định phạm vi của Thiên Chúa,
thấu hiểu và đặt nhãn hiệu cho Người, chắc chắn là ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa,
đã lấy ước muốn ta làm thực tại. Lạy Chúa, xin giúp con biết mở rộng tâm trí
đón nhận sự mới mẻ trong cách Chúa hiện diện. Xin giữ gìn chúng con luôn sẵn
sàng trước việc Chúa đến viếng thăm cách bất ngờ.
Bắt gặp anh em đang ngủ.
Trước Thiên Chúa, ta vẫn thường mê ngủ… nên dễ sửng
sốt. Cần phải thoát ra tình trạng mê ngủ thiêng liêng, lờ đờ đó. Cần phải nỗ
lực tự tạo một lối sống linh hoạt, cương nghị, thay vì buông xuôi tới ù lì, mê
ngủ. Lạy Chúa, xin giữ chúng con trong tình trạng tỉnh táo, luôn tỉnh thức.
Thầy nói với hết thảy mọi người là: Phải canh thức
Đối với Đức Giêsu, sự “hiện diện” của Chúa vẫn ở đó,
giữa các biến cố ta đang sống. Lạy Chúa xin giúp chúng con tỉnh thức, chú ý
nhận ra sự hiện diện của Chúa. Xin giài thoát chúng con khỏi tình trạng mê ngủ,
khô nhạt, dễ làm chúng con không nhận ra Chúa vẫn thường xuyên đến viếng thăm.
Mùa Vọng bắt đầu! Đây là thời gian “canh thức”…