Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: Is 40,1-5.9-11;
2Pr 3,8-14; Mc 1,1-8
MỤC LỤC
1. Dọn đường
Vào một
buổi sáng Chúa nhật đẹp trời, Cordell, một con người bệnh tật và đau yếu, được
mời đến nói chuyện tại câu lạc bộ dành cho những người khoẻ mạnh, giàu sang và
gặt hái những thành công sáng chói. Anh đã mở đầu như sau: Tôi biết rằng tôi
rất khác biệt với quý vị. Rồi anh trích dẫn lời thánh Phaolô: Nhưng nhờ ơn Chúa
mà tôi được như thế này. Suốt 20 phút đồng hồ, anh đã nói về lòng nhân từ của
Thiên Chúa được thể hiện trong đời sống của anh. Và rồi anh đã kết luận: Quý vị
có thể thành công trong suốt cả cuộc đời và lợi nhuận hàng năm có thể lên tới
hàng triệu đồng, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà quý vị nhắm mắt buông tay giã
từ cuộc sống và bị vùi sâu dưới lòng đất lạnh, thì quý vị sẽ chẳng khác tôi
chút nào. Đó là giây phút mọi người chúng ta đều giống nhau. Tôi không cần tới
những gì quý vị đang có trong cuộc sống, nhưng tôi chắc chắn rằng quý vị cần
một điều mà tôi đang có đó là Đức Kitô.
Câu chuyện trên làm cho tôi thích
thú, bởi vì nó rất thích hợp với bầu khí của mùa vọng. Nó mời gọi chúng ta thử
kiểm điểm xem cái gì thực sự quan trọng đối với chúng ta? Cái gì chiếm địa vị
ưu tiên trong cuộc sống? Và hơn nữa Đức Kitô giữ vai trò nào trong đời sống
chúng ta? Trong giây phút này, Ngài có phải là thần tượng chiếm chỗ nhất trong
con tim chúng ta hay không? Như trái đất xoay quanh mặt trời, thì liệu toàn bộ
cuộc đời chúng ta có quy hướng về Ngài, có xoay quanh Ngài hay không?
Cũng trong chiều hướng ấy, phụng
vụ lời Chúa hôm nay thôi thúc chúng ta hãy đặt lại vấn đề xem: Chúng ta đã đi
đúng hay đi sai? Chúng ta đã đặt trọng tâm của cuộc sống vào đâu? Cũng như
chúng ta đã xây dựng con người chúng ta trên nền tảng nào?
Tại Luân Đôn có một ngôi nhà
nguyện được sử dụng để tưởng niệm những người dân đã bị thiệt mạng trong thành
phố do máy bay oanh tạc thời đệ nhị thế chiến. Trong nhà nguyện có 4 cuốn sách
lớn, ghi tên sáu ngàn nạn nhân. Mỗi ngày người ta mở một trang, và khi đọc
những tên ấy, chúng ta không sao biết được nạn nhân là người nghèo hay giàu, da
đen hay da trắng, già hay trẻ, đẹp hay xấu. Bởi vì lúc đó không còn một khác
biệt nào nữa. Có chăng sự khác biệt duy nhất đó là bản chất con người mà cá
nhân chúng ta đã tạo ra cho mình khi còn sống ở trần gian này. Và như thế,
chúng ta phải làm gì nếu như đã không sống đúng với cách thức chúng ta phải
sống. Chúng ta phải làm gì nếu như Đức Kitô thực sự đã không chiếm chỗ nhất
trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta phải làm gì nếu như chúng ta chưa chuẩn bị để
gặp gỡ Đức Kitô trong ngày sau hết.
Gioan Tiền Hô hôm nay đã đưa ra
những việc cần phải làm ngay, đó là phải ăn năn sám hối, cải tà quy chính và
làm lại cuộc đời, nghĩa là hãy dọn đường Chúa đến. Khi tôi là một em nhỏ thì
thời gian như bò tới. Khi tôi là một thanh niên thì thời gian như đi tới. Khi
tôi là một người trưởng thành thì thời gian như chạy tới. Khi tôi là một người
già cả, thì thời gian như bay tới. Còn khi tôi cận kề với cái chết, thì tời
gian như đã mất đi. Vậy chúng ta đã làm được những gì để đón mừng Chúa đến?
2. Người dọn đường
(Trích trong ‘Manna’)
Suy niệm
Để chuẩn bị cho Con của Ngài đến
trần gian, Thiên Chúa cần nhiều người dọn đường trong dòng lịch sử.
Người nổi
bật nhất là Gioan
Gioan là nhịp cầu thân thương để
Đức Kitô đến gặp dân Ngài, và để dân Ngài đón nhận Đức Kitô cứu thế. Ông đã
quen biết cả đôi bên và ông hạnh phúc được làm người phù rể cho đám cưới giữa
Đức Kitô và dân được chọn.
Thời nào Thiên Chúa cũng cần những
sứ giả, những người dọn đường, những Gioan mới.
Đó là sự khiêm tốn muôn thuở của
Thiên Chúa, Ngài chẳng bao giờ đường đột đến với con người.
Hôm nay, Đức Kitô muốn đi vào thế
giới của bạn: đất nước, gia đình, trường học, nơi làm việc, bạn bè... Ngài cần
bạn làm người giới thiệu. Nhờ bạn, Tin Mừng được khởi đầu nơi một ai đó, như
xưa Tin Mừng đã được khởi đầu nhờ Gioan.
Chúng ta cần ngắm nhìn lối sống
của Gioan. Ông sống độc thân trong hoang địa, ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc
áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Lối sống khắc khổ ấy đã trở nên một dấu
hỏi.
Gioan đã chọn lối sống phù hợp với
lời ông giảng. Ông kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng quyền thế hơn ông,
thì chính ông đã sống như con đường thẳng. Ông mời gọi người ta sám hối, thì
chính đời ông đã mang nét sám hối rồi. Bởi thế tiếng gọi của ông có sức thu hút
mãnh liệt.
Biết bao người từ khắp nơi kéo đến
với ông, để khiêm tốn thú tội và chịu phép rửa, nhằm chuẩn bị đón Đấng Mêsia
sắp đến.
Chúng ta không thể vào hoang địa
như Gioan, cũng không thể ăn mặc như ông, nhưng chắc chắn để làm chứng cho Đức
Kitô hôm nay, chúng ta không thể sống y như mọi người.
Lắm khi chúng ta phải từ khước một
cuộc sống dễ dãi, tiện nghi, thoải mái, để tìm kiếm một cái gì sâu xa hơn, ý
nghĩa hơn. Không phải chúng ta thích lập dị, nhưng ơn gọi Kitô hữu đòi chúng ta
dám lội ngược dòng với thế gian, dám sống một cách khác thường trong chính cuộc
sống bình thường của ta.
Làm sao chúng ta có sức thu hút
như Gioan để đưa con người hôm nay đến gặp Chúa? Chúng ta phải thay đổi lối
sống mình như thế nào, để người ta tin được lời chúng ta rao giảng?
Đức Kitô hôm nay vẫn cần những
người dọn đường tuyệt vời như Gioan.
Gợi ý chia
sẻ
· Nhiều người đã không đón nhận Tin Mừng chỉ vì gương
xấu của các Kitô hữu. Bạn có nhìn thấy, nghe thấy những gương xấu đó ở quanh
bạn không? Làm sao để có một cuộc sám hối tập thể như Gioan đã khơi dậy?
· Bạn sẽ làm gì để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu và làm
cho Ngài được mọi người yêu mến?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải
là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa
là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa. Chúa
đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn và yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường
xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo
tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn
hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn
đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng
con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
3. Dọn đường cho Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong một
trận lũ lụt kia, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc - Nam bị kẹt ở
miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn
đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc - Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều
làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không
còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi,
nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan
trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người
bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người.
Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách
người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn
cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
Con đường vật lý đã cần. Nhưng con
đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh
nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.
Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa
đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường
thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu
ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém
người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao
giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Tâm hồn ta có những hố sâu tham
lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có
những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn
nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú.
Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co
của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và
không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn
tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ
ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng
không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ
trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực
sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta.
Nên hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng
cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.
Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn.
Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ,
bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những
quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng
những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành
nói xấu.
Đổi mới một con đường thì dễ,
nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần
đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3
phương thế rất tốt.
Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc
là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu
xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong
thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Đức Giêsu, trước khi đi
rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm Thánh Ý Chúa Cha. Sa mạc đây được
hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo
da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú
là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi
lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm
để tiến lên trên con đường thánh đức.
Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý
nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi
hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần
thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Thánh Gioan Baotixita đã sống theo
chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế.
Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm
hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.
Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội
lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.
Gợi ý chia sẻ
1. Con đường tâm hồn tôi có những đồi núi, vực sâu, khúc
quanh nào cần sửa chữa?
2. Tôi có cần đến những phương thế của Thánh Gioan
Baotixita không?
3. Tôi sẽ làm gì trong tuần này để thực hành Lời Chúa?
4. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi
tâm đắc nhất câu nào?
4. Vì Ngài ở với chúng ta …
(Suy niệm của Jean Ratlé)
Đây là thời đổi mới
Giáng Sinh sắp đến! Bạn có biết
không? Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ: Hãy trang hoàng nhà cửa, chuẩn bị một
bữa tiệc, chẳng bao lâu nữa sẽ là Giáng Sinh rồi.
Giáng Sinh đã có nơi bạn rồi, bạn
có nghe lòng mình hát lên không? Để đón nhận Giáng Sinh, bạn hãy để trào dâng
lên nơi mình Giáng Sinh đang có ở nơi bạn, hãy để nó chiếu tỏa ra chung quanh
bạn, Giáng Sinh đã có đó rồi.
Thiên Chúa trong thâm tâm
Nhưng ai sẽ làm nẩy sinh như vậy
được niềm hoan lạc trong cuộc đời làm người của bạn? Ô! Bạn biết rằng chính
Ngài đã đến, bạn cũng biết rằng Đấng đang đến sẽ có mặt ở đó trong vài ngày nữa.
Chỉ có vậy sao? Hãy nghe rõ, còn một ít nữa, tận đáy lòng, hãy nghe tiếng hát
của con tim bạn… Bây giờ bạn đã nghe chưa? Phải, chính Ngài đó, chính Ngài là
Thiên Chúa đang đến. Ngài đã có mặt ở đó, nơi thâm tâm bạn, Ngài hiện diện,
Ngài đến đổi mới bạn, qua trung gian của bạn, quyền năng của Thần Khí Ngài.
Nhìn kìa: Ngài tiến tới như kẻ đi
chinh phục, chính Ngài là vị đại thắng. Điều Ngài trao cho bạn là một trời mới
đất mới. Một quả đất nơi Công lý và Hòa bình ngự trị, một trái đất giàu tình
thương và chân lý.
Hãy lắng nghe tiếng hát của Ngài
đang dâng lên, du dương như làn gió nhẹ, sâu thẳm như đêm dài, ấm áp như ngọn
lửa. Đó là tiếng hát của Tin Mừng, bạn hiểu chưa?
Niềm hoan lạc trong lòng
Nhưng có phải bạn chỉ giữ điều này
trong trí thôi, lặp đi lặp lại nói mà không thực sự hiểu chăng? Nó phát xuất từ
lòng bạn, vậy hãy nghe bằng con tim, lúc đó bạn sẽ hiểu. Vả lại, Chúa nói với
con tim của bạn. Ngôn ngữ của Ngài là Tình yêu, và chỉ mình con tim mới hiểu rõ
được. Và nếu cuối cùng bạn hiểu được thì cả bạn nữa hãy ra đi chuẩn bị đường
nẻo của Chúa.
Nhưng bạn sẽ hỏi: tôi đi đâu?
Trước hết hãy đi vì bản thân bạn. Đi trên những con đường đời của bạn, và vạch
ra ở đó một con đường bằng phẳng cho Thiên Chúa chúng ta. Nơi bạn, hố sâu hãy
lấp cho đầy, núi đồi hãy bạt xuống, nẻo quanh co hãy làm cho thẳng băng và hãy
biến đổi những chỗ gồ ghề ra bằng phẳng.
Bạn thấy đấy, trước hết chính nơi
bạn mà công việc phải bắt đầu. Bạn phải thay đổi thói quen, những cách làm và
những cách nhìn của bạn. Bạn phải tìm cách loại bỏ đi khỏi đời bạn tất cả những
gì không thuộc về Thiên Chúa, tất cả những gì giam hãm con tim của bạn. Bạn hãy
học biết đừng phán đoán hoặc kết án người đồng loại, cho dù hành động của họ có
xấu đi nữa. Vì khi loại trừ họ bạn cũng dứt bỏ Thiên Chúa ở nơi họ nữa. Bạn
cũng hãy học biết chia sẻ, vì khi bạn thu góp dư thừa, bạn sẽ làm cho đồng loại
thiếu thốn, không có được những gì cần thiết để sống. Bạn hãy học biết tìm kiếm
Thiên Chúa khắp mọi nơi, nhất là nơi mà bạn không bao giờ tìm được Ngài, vì con
người biết giấu Ngài rất kỹ.
Phá bỏ để xây dựng lại
Nếu bạn thấy Đấng Cứu Thế chậm đến
bạn đừng than phiền vì nếu Ngài hoãn lại hoạt động của Ngài, chính là vì bạn –
bởi vì Ngài đang chờ bạn. Là Tình yêu, Ngài không thể chấp nhận để cho ai bị hư
mất nhưng ban cho họ tất cả mọi cơ may. Ngài để cho bạn thời gian để bạn hoán
cải.
Vì thế bạn đừng sợ, đây là thời
gian phá hủy nơi bạn các ngẫu tượng và bàn thờ của Chúa, thời gian xé những bức
màn dối trá đã làm cho đời bạn ra u ám. Cất khỏi bạn tất cả những gì chiếm chỗ
của Thiên Chúa. Hãy để chỗ cho Ngài xây dựng. Hãy cùng với Ngài tái thiết một
con người mới được sinh ra cho thế giới mới mà Ngài mang đến cho bạn. Vì con
người cũ không thể đi vào trong thế giới mới được. Hãy đi đến cùng tận con
người bạn, tận cùng nỗi nghèo nàn của bạn, nỗi đau khổ làm người của bạn và lúc
đó bạn sẽ tìm thấy Ngài, vị Thiên Chúa mà bạn tìm kiếm.
Và khi bạn đã tìm được Ngài rồi
thì hãy nhanh chóng đi loan báo Ngài cho tất cả những ai chưa tìm được Ngài,
những ai không biết tìm Ngài ở đâu. Hãy đến nói với họ rằng Thiên Chúa đang có
mặt và Ngài đang làm những điều mới mẻ cho hết thảy mọi người. Hãy đi nói với
họ rằng Ngài yêu thương và chờ đợi họ. Hãy đi nói với họ rằng thế giới mới đã
bắt đầu rồi và họ được mời gia nhập vào đó.
Và như bạn thấy, Giáng Sinh đang
đến! Và như bạn thấy, Giáng Sinh đã đến rồi, nơi thâm tâm bạn cũng như tận đáy
lòng của mọi con người. Đây là lúc Chúa đến đổi mới con người. Vậy hãy mở rộng
lòng bạn ra và để cho Ngài đặt bạn dọn tiệc, vì hôm nay đây, Ngài mời bạn đi
vào trong thế giới mới mà bạn đợi chờ.
5. Hoang địa phì nhiêu – Achille
Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn mở đầu Phúc âm theo thánh
Maccô là một tuyên cáo. Đây là một bản loan Tin Mừng, bằng những lời mạnh không
hoa mỹ, nó chứa đựng những yếu tố chủ yếu của sứ điệp, đó là: Thời đại Cứu
chuộc đã khởi sự, những lời tiên tri đã được thực hiện –Đức Giêsu Kitô là Con
Thiên Chúa- Người đã đến thanh tẩy loài người trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là
đến cứu rỗi nhân loại. Đoạn Phúc âm mời gọi mọi người hãy sám hối, thanh tẩy
bản thân cách xứng đáng để được tha thứ.
Tiền hô Gioan Tẩy giả được trình
bày với dáng vẻ cường tráng, trung kiên và khiêm hạ. Thánh sử đặt ông ngay phần
mở đầu, giống như các kiến trúc sư thời trung cổ thiết bị cửa chính nhà thờ như
một lời mời hãy tiến vào thánh đường. Ta ghi nhận Gioan Tẩy giả đã sống trong
sa mạc, nghĩa là trong cô tịch, thiếu thốn tiện nghi thể xác, quang đãng vật
chất, và khoáng đạt tâm hồn. Được khai quang hết những gì không tối cần thiết,
ông sẵn sàng để Thiên Chúa sử dụng. Điều này mời chúng ta suy niệm về ý nghĩa
thiêng liêng của hoang địa.
1) Hoang
địa là sự chuẩn bị bắt buộc phải có cho mỗi thực hiện đáng giá trên bình diện
nhân phẩm hoặc trên bình diện hành động. Chúng ta hiểu “hoang địa” theo
nghĩa: đó là những khoảnh khắc cầu nguyện trong vắng vẻ, những giây phút suy tư
và suy niệm, yên lặng, cố gắng dọn dẹp loại bỏ cái thừa. Ân sủng chính của
“hoang địa” là khám phá thấy con người tùy thuộc trước hết vào Thiên Chúa.
Người ta nhớ tới cuộc xuất hành
khi Môisê dẫn dắt dân ông. Kinh nghiệm về hoang địa của Israel trốn
chạy khỏi Ai cập để tiến về Đất hứa, chính là 1 nhận thức về hai điểm. Trước
hết họ hoàn toàn tùy thuộc vào sự chăm nom của Thiên Chúa. Điểm hai: họ có thể
trông nhờ vào sự chiếu cố ấy, một sự ân cần săn sóc không lúc nào vắng thiếu.
Đời sống Kitô hữu cũng vậy. Trên đường tiến đến tận cùng số mệnh mình, người
Kitô hữu phải biết sức mạnh đó miễn là phải loại bỏ tất cả những gì ngăn chặn
Chúa đến. Để chuẩn bị đón tiếp Chúa trong dịp lễ Giáng sinh, chúng ta sẽ khai
quang tâm hồn chúng ta như thế nào?
2) “Hoang
địa” là một chuẩn bị ưu tiên cho hành động đặc biệt cho cho hoạt động Tông đồ. Cũng như
Gioan Tẩy giả, người làm việc Tông đồ chuẩn bị cho người ta nghênh đón “Đấng đến
để thanh tẩy trong Chúa Thánh Thần”. Hoạt động Tông đồ được bồi dưỡng cường lực
và hiệu năng, nếu trước đó đã được thuần luyện bằng suy niệm và nguyện cầu,
trong tâm trạng “hoang địa” nó khai phóng tâm trí, thanh luyện tâm hồn, củng cố
ý chí, mở rộng linh hồn đón nhận cường lực của Thiên Chúa.
Giống Gioan Tẩy giả lúc từ sa mạc
trở về, đã lôi cuốn những đám dân chúng đông đảo, chiến sĩ của Đức Kitô lôi
cuốn người khác nếu họ cảm thấy trong con người chiến sĩ tính chất chân chính
có được nhờ thời gian lâu dài sống vắng vẻ với Chúa. Một yếu tố đặc biết đáng
lưu ý. Ta có thể tự hỏi: sống vắng vẻ với Chúa, phải chăng là sống ngoài trần
thế? Vậy mà tín đồ của Chúa phải dấn thân vào thế gian, để trong thế gian trở
nên một thứ men sinh động cho đời sống và tiến hóa của thế gian. Lời đáp nằm
trong một nhận định sơ đẳng. Mọi cuộc đời đều có một nhịp độ hấp thụ và cống
hiến. Người ta chỉ có thể cống hiến điều gì đã được hấp thụ. Không được nuôi
dưỡng thì cơ thể không làm được những cố gắng thể lực. Cũng vậy, đời sống
thiêng liêng không thể hoạt động thật sự, nếu không hấp thụ sức mạnh của Thiên
Chúa. Chính trong sự gặp gỡ Thiên Chúa, thực hiện được bằng cầu nguyện và tĩnh
tâm, trong vắng vẻ (dù chỉ vài ba phút) trong từ bỏ không luyến tiếc những cái
ngổn ngang rườm ra, mà chiến sĩ Đức Kitô trở nên men tác động giữa thế gian,
môi trường sinh hoạt của mình.
6. Giấc mơ hay hiện thực
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người
kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự
nguy nga. Bước vào trong, tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ: Bên phải
dành cho người Công giáo, bên trái dành cho kẻ ngoại đạo. Theo bảng chỉ dẫn,
tôi đi theo hành lang bên phải dành cho người Công giáo.
Đi được
một lúc, tôi thấy mình đứng trước một ngã rẽ khác. Lần này tôi đọc thấy bảng
chỉ dẫn như sau: Bên phải dành cho kẻ có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho
kẻ có đức tin yếu kém. Và tôi lại đi bên phải.
Đến một
ngã rẽ khác, tôi lại thấy một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những người có
lòng bác ái, bên trái dành cho những người ích kỷ. Tôi lại chạy qua bên phải mà
đi.
Cuối cùng
tôi gặp một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện,
bên trái dành cho những kẻ tội lỗi. Một lần nữa tôi cứ chọn bên phải mà đi.
Nhưng tôi đang hân hoan rảo bước, thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp
hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào
tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức giấc.
Sau một
phút tôi hoàn hồn và tự hỏi: “Phải chăng đời sống đạo của tôi cũng chỉ là một
giấc mơ hãi hùng?”.
Câu hỏi trên đây có lẽ cũng có thể
được nêu lên cho mỗi người chúng ta trước tiếng hô của Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng
hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người
đi”. Thường thì chúng ta cứ chọn bên phải mà đi, chứ mấy ai lại thích đi bên
trái. Cái ảo tưởng về sự tốt lành của mình luôn luôn bám sát chúng ta như hình
với bóng. Lòng tự cao tự đại thường mê hoặc chúng ta, làm cho chúng ta như chìm
sâu mãi vào một giấc mơ hãi hùng.
“Anh em hãy tỉnh cơn mê, đêm đã
tàn, ngày đang đến”. Lời ấy của thánh Phaolô muốn thôi thúc chúng ta thành khẩn
nhìn lại giá trị đích thực của đời mình. Tôi có thực sự xứng đáng đứng bên phải
trong ngày phán xét cuối cùng không? Hay đó chỉ là một giấc mơ hãi hùng?
Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng ta hãy
dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Dọn đường cho Ngài đến thực hiện một cuộc giải
phóng mới, không phải giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập hay khỏi nơi lưu đầy
Babylon, mà là khỏi tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Vì vậy, Gioan Tẩy Giả kêu
gọi mọi người hãy sám hối. Ông đã dùng phép rửa như một dấu hiệu của lòng sám
hối, từ bỏ tội lỗi để đón nhận Chúa Kitô, đồng thời như một dấu hiệu tiên báo
một phép rửa hoàn hảo hơn -Phép rửa của Chúa Giêsu: “Tôi thì tôi làm phép rửa
cho anh em bằng nước, còn Ngài, Ngài sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh
Thần”.
Gioan không chỉ rao giảng sám hối
mà còn sống tinh thần sám hối, không chỉ thức tỉnh dân chúng trước biến cố đang
xảy đến mà còn lay tỉnh chính mình trước công việc mầu nhiệm của Thiên Chúa:
cách ăn mặc của Gioan nói lên tâm tư và phong cách sám hối. Thực vậy, lối sống
đơn giản và khổ chế của Gioan – mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn
châu chấu và mật ong rừng – chứng tỏ ông đã thoát khỏi những ràng buộc phiền
toái của xã hội Do Thái và những bận tâm quá đáng về vật chất để quy hướng cuộc
sống vào việc chào đón và rao giảng về Đấng Cứu Thế. Ông đã làm chứng về Đấng
Cứu Thế và chờ đợi Ngài đến bằng một đời sống khổ hạnh và tỉnh thức.
Đời người là một Mùa Vọng dài
hướng về ngày Chúa đến lại. Mỗi tín hữu là một Gioan Tẩy Giả, và toàn thể Giáo
Hội có sứ mạng tiền hô. Người tín hữu hôm nay, khi nhắc đến mầu nhiệm Chúa đến,
phải có tâm tư và thái độ sống thế nào để dọn đường cho những anh chị em chung
quanh biết đón chờ Chúa? Chúng ta đã gia tăng cầu nguyện, hoán cải đời sống để
dọn đường Chúa đến, để chuẩn bị cho Chúa tỏ mình ra chưa?
Lòng sám hối đích thực không nằm ở
nơi những tình cảm tốt đẹp, những sáo ngữ hấp dẫn, những nghi thức rầm rộ bên
ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể: sửa lại cho thẳng những lối
đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng của
tâm trí, lấp đầy hố thẳm nghèo đói Lời Chúa của tâm hồn.
Thánh Phêrô trong thư của ngài đã
cho thấy lòng sám hối không phải là một thái độ nhất thời, mà là thái độ thường
xuyên của người Kitô hữu trong suốt giai đoạn chờ Ngày của Chúa. Ngài nhắn nhủ:
“Anh em thân mến, trong khi chờ đợi ngày đó, anh em phải cố gắng nên tinh
tuyền, không chi đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa” (2Pr 3,14). Lời
nhắn nhủ đó là những lời kêu gọi các tín hữu sám hối để tạo nên cho mình một
thái độ tương xứng cần thiết.
Hiển nhiên là lời kêu gọi sám hối
trong Phụng Vụ Chúa Nhật 2 Mùa Vọng này không thể chỉ được giới hạn trong việc
xét mình ăn năn và xưng tội để có được một tâm hồn trong sạch xứng đáng cho
Chúa ngự, vào thánh lễ đêm Giáng Sinh. Sám hối là một thái độ sống của người
Kitô hữu. Sám hối là một sự đổi mới, một sự đổi mới toàn diện: trong tư tưởng,
trong sự chọn lựa, trong hành động. Sự đổi mới này không chỉ diễn ra một lần là
đủ, mà là một đổi mới liên tục. Người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ con người cũ,
lối sống theo lòng ích kỷ, tham lam, tàn bạo, không đếm xỉa đến quyền lợi của
người khác, để sống theo con người mới với lòng yêu thương, với tình liên đới
với người chung quanh, ở trong gia đình, trong trường lớp, trong cơ quan, xí
nghiệp… Người Kitô hữu vẫn tin rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện
không chỉ nơi thâm sâu thầm kín của từng con người mà còn ngang qua lịch sử
trong xã hội con người.
Tiếng hô của Gioan Tẩy Giả trong
hoang địa là một tiếng gọi mang đầy hy vọng và niềm vui: “Hãy dọn đường cho
Đấng Cứu Thế, vì Người sắp đến rồi!”. Hãy thay đổi bộ mặt trái đất này cho loài
người được sống ấm no hạnh phúc, để cho Trời Mới Đất Mới xuất hiện, trong đó
công lý và hòa bình sẽ ngự trị và mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa chúng ta.
7. Chú giải và suy niệm của Quesson
Hôm nay, chúng ta sẽ đọc trang đầu
tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô. Trong suốt năm phục vụ này, năm B, chúng ta
sẽ đọc cách đặc biệt Tin Mừng Maccô.
Truyền thống thường giới thiệu
Maccô như môn đệ của Phêrô. Vì thế trong trình thuật của ông, ta được nghe lại
những kỷ niệm và giáo lý của vị tông đồ, đã từng mục kích Đức Giêsu. Người ta
cho rằng: Tin Mừng này đã được soạn thảo tại Rôma, khoảng năm 70, và gửi cho
một cộng đồng Latô gồm những người gốc ngoại giáo, chưa từng sống tại Palestine.
So sánh với ba Tin Mừng khác, Tin
Mừng của thánh Maccô rất thực tế: đó là câu truyện của một người bình dân, có
những nét gây thích thú. Nhưng ta đừng vội lầm, Maccô cũng là một nhà thần học,
sẽ tỏ lộ cho ta cuộc khám phá dần dần của Phêrô. Suốt trong phần đầu, mọi người
đều tự hỏi: “Đức Giêsu là ai!” Đức Giêsu thể hiện những hành động, nói những
lời luôn đặt thành vấn đề. Nhưng thật lạ lùng. Người vẫn đặt “bí mật” trên con
người mình. Mãi tới phần thứ hai của đời sống công khai, người mới từ từ thông
tỏ về bản thân Người.
Khung cảnh địa lý Máccô sử dụng
cũng mang tính thần học. Theo đó ông đề cao xứ Galilê, miền đất mở ngở và để
đón nhận sứ điệp của Đức Giêsu, nghịch lại với Giêrusalem, thành phố luôn chối
từ Đức Giêsu.. Hơn nữa đối với Maccô, biển hồ Galilê mang một ý nghĩa biểu
tượng (Phêrô người thuyền chài, biết rõ từng vũng nhỏ trong hồ ông sinh sống!).
Bờ hồ phía tây, là người Do Thái. Bờ hồ phía đông, là anh em dân ngoại Máccô có
ý nhấn mạnh cho ta thấy, Đức Giêsu đang đi vào "miền đất ngoại giáo
"... như thế khai mở "vùng truyền giáo" của Giáo Hội mà Tin Mừng
ông muốn gửi tới.
Cuối cùng Tin Mừng của Maccô đượm
vẻ "bi thảm”. Ba nhóm người được miêu tả trong đó. Trước hết đó là Đức
Giêsu và các môn đệ của Người, luôn chung sống với nhau. Rồi tới đám dân chúng
theo Đức Giêsu, nhưng không hiểu biết gì về Người. Sau hết, đó là các kẻ thù
nghịch, ngay từ đầu chỉ xoi mói rình rập nhằm kết án Đức Giêsu.
Khởi đầu Tin Mừng
Có lẽ không phải là ngẫu nhiên mà
lời đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô cũng là lời đầu tiên trong Bộ Kinh
thánh: 'Khởi đầu trời và đất" (St 1,1). Thánh Gioan cũng sử dụng cùng một
từ đó, cũng bắt đầu Lời tựa trong Tin Mừng của ông: “Khởi đầu vẫn có Ngôi
Lời" (Ga 1,1). Còn Mát-thêu và Luca, cũng gợi lên thực tại của một khởi
đầu này: “Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô " (Mt 1, 18; Lc 1 3). Như thế, cả
bốn thánh sử đều gợi lên cho ta thấy, nhờ Đức Giêsu, chương trình của Thiên
Chúa đã có một bước khởi đầu mới: Có thể nói, một cuộc tạo thành mới đang khởi
sự. Và mỗi năm, Mùa Vọng bắt đầu, cũng là một dịp khởi đầu lại. Lạy Chúa, thế
mà chúng con vẫn thích dừng chân tại chỗ để thốt lên: Đủ rồi, xin Chúa không ngừng
ban lại cho chúng con tinh thần biết "khởi sự". Xin làm sống lại
trong chúng con niềm hy vọng.
“Tin Mừng": Chúng ta
quá quen thuộc với từ này. Nó dịch từ tiếng Hy Lạp “Evangélion”. Nhưng từ này
không có ý diễn tả “một cuốn sách" hay một sự việc. Đó là Tin Mừng nước
Thiên Chúa đã khơi sự trong con người của Đức Giêsu. "Tin Mừng”, đó là sự
sống lại, là Phục sinh, là sự chiến thắng vĩnh viễn của sự sống? Tin Mừng phát
xuất từ sấm ngôn của I-sai-a, khi ông loan báo cho những người bị lưu đày biết
tình trạng khổ ái của họ sắp chấm dứt: “Hãy an ui, hãy an ủi dân Ta... Dịch vụ
của nó mãn rồi. Hãy nhủ lòng cùng Giêrusalem, hãy công bố tội của nó được tha.
Hãy lên núi cao, hỡi Sion, người loan Tin Mùng. Hãy gióng tiếng lên cho mạnh và
loan báo: Kìa Thiên Chúa của ngươi đang đến... (Is 40,1-11). Tôi có tin tưởng
như thế không? Đức tin của tôi có là một thứ gánh nặng, tôi phải vất vả đeo
mang, hay là một Tin Mừng “Vui tươi”, “Tốt đẹp”, "Tuyệt diệu”.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa
Ngay từ dòng đầu của Tin Mừng,
Máccô đã nói ngay nếu ông muốn bàn. Những “tước hiệu" trên đây của Đức
Giêsu là chìa khóa khai mở toàn bộ trình thuật của ông. Những tước hiệu đó sẽ
được lặp lại vào giây phút cuối đời; khi một người "dân ngoại" nhận
biết Đức Giêsu chết trên thập giá: “Quả thật người này là con Thiên Chúa"
(Mc 15,39). Đó là điều ta thường gọi là một thứ “hệ luận” theo kiểu nói
“Xê-mít". Đó là kiểu cách văn chương nhằm biểu thị ý nghĩa sâu xa của một
câu chuyện, mà toàn bộ "bao gồm" trong hai từ được lặp đi lặp lại từ
đầu đến cuối.
Giêsu... trong ngôn ngữ Do Thái muốn
nói lên "Thiên Chúa cứu độ " – “Yéshouah”. Đó là một từ quen thuộc,
diễn tả tính cách nhân bản, lịch sử trần thế của con người Na-za-rét. Kitô....
trong ngôn ngữ Do Thái có ý nghĩa Đấng được “Đức Chúa xức dàu":
“Meshiah" Tước hiệu này biểu lộ, Đức Giêsu chính là Đấng mà toàn dân
ít-ra-en mong đợi, là con cháu nhà Đa-vít, là "Vua nước Thiên Chúa”.
Con Thiên Chúa... tước hiệu
cuối cùng này, chỉ mang ý nghĩa trọn vẹn, lúc Chúa sống lại: Vào thời Maccô
viết Tin Mừng, các Kitô hữu đã dùng kiểu nói mạnh này để tuyên xưng đức tin vào
thần tính của Đức Giêsu.
Trong sách Ngôn sứ I-sai-a có chép
rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi tnrớc Con, để dọn đường cho con đến".
Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho
thẳng để Người đi".
Một lần nữa không phải ngẫu nhiên,
mà Tin Mừng Máccô bắt đầu bằng một câu trích dẫn trong Cựu ước. Đức Giêsu không
phải là một “sao băng" từ một hành tinh khác mà đến. Ngài được ghi tên
trong tịch sử của một dân tộc Ngài được người ta "mong chờ', "loan
báo”, "chuẩn bị"... Từ sau Công đồng Vatican, bài đọc Cựu ước mà ta đọc
mỗi Chúa nhật, không phải là một việc làm mới lạ của Giáo Hội hiện nay. Các
Kitô hữu tiên khởi, các tín hữu của Máccô, cũng như của Mátthêu, Luca và Gioan,
đã từng đọc Kinh thánh Cựu ước... và ứng dụng cho Đức Giêsu. Còn chúng ta thìn
sao? Chúng ta thường phàn nàn vì không gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng ta có coi Kinh
thánh như phương thế tiếp gặp Chúa chưa?”
Ta làm gì để gặp gỡ Chúa? Ta có chuẩn
bị con đường cho Chúa đến không? Mùa Vọng này có thể là một thời gian để ta suy
niệm lại Kinh thánh.
Ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong
hoang địa, rao giảng kêu gọi dân chúng chịu phép rửa, tỏ lòng sám hối để được
ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giêrusalem kéo đến với ông.
Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ tại sông Gio-đan.
Chúng ta đừng có mơ tưởng rằng, ta
sẽ “gặp" được Thiên Chúa, chẳng- hạn như dịp Noen này, mà không cần phải
“chuẩn bị" cho Người đến, không cần phải thanh tẩy, không cần phải làm
việc để hoán cải thay đổi đời sống.
Chính Gioan Tẩy Giả không chút nể
nang thính giả của ông. ông bảo họ: "Các ngươi phải thay đổi hoàn toàn nếp
sống... Hãy trở lại!. Đó là ý nghĩa của từ “Metanoia" bản dịch là
"hoán cải". Các người đã làm điều này sao? Giờ đây, hãy làm ngược
lại. Điều xấu, điều ác mà các ngươi đã thực hiện, hãy chấm dứt ngay? Điều tốt
lành như vậy mà sao các ngươi không làm, hãy bắt tay thi hành ngay đi! Phải
thay đổi, cần thay đổi gấp!
Sắp tới lễ Noen rồi, mọi Kitô hữu
lại được mời gọi lãnh nhận “bí tích giao hòa" để được ơn tha tội. Ngay từ
bây giờ, tôi muốn chuẩn bị lãnh nhận, để nhờ bí tích đó tôi có một bước tiến
đáng kể, trưởng thành và có trách nhiệm hơn. Và cũng như dân chúng xưa kia tuôn
đến sông Giođan, tôi cần phải bắt đầu “nhận biết” tội lỗi mình, cách sáng suốt.
Lạy Chúa xin mở rộng đôi mắt con.
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da,
ăn châu chấu và mật ong rừng".
Đó là y phục tiêu biểu của những
"người vùng hoang địa”, những con người du mục.
“Hoang địa"! Để tới
đó theo sự lôi cuốn của Gioan Tẩy Giả, dân chúng phải rời bỏ một thế giới nào
đó họ đang sống, để bước vào một thế giới khác. Lui vào "hoang địa"
nghĩa là từ chối dễ dãi, tiện nghi. “Hoang địa" đó là vùng đất mở tới rất
xa, là nơi không thể nhận rõ dấu vết lộ trình, là tiếng mời gọi ta dấn thân mạo
hiểm? “Hoang địa" đó cũng là nơi cô tịch và yên lặng: Mời gọi ta hướng đến
cuộc gặp gỡ nội tâm? ở đây ta không thể vui chơi giải trí hay lánh ẩn để kiếm
tìm những việc bề ngoài, những điều xem ra giả tạo mà là nơi con người gặp lại
bản thân, đối mặt với chính mình, trong tình trạng bị bóc lột trần trụi. Trong
tư thế lột xác và thinh lặng này, Thiên Chúa mới có thể làm cho ta nhận ra
tiếng Người: Đó là lời mời gọi ta nhận ra thực tại của bản thân, khi các mặt nạ
đã được trút bỏ, trong tiếng Nga, từ “hoang địa" được dịch là “poustinia”.
Và luôn luôn có những người nam cũng như nữ lui vào trong “poustinia" của
họ: Cuộc gặp gỡ giữa họ với Thiên Chúa sẽ mang tính chất nào, đều phụ thuộc vào
giá trị này cả. Tôi có lợi dụng Mùa Vọng này, để tạo cho mình một thời gian
chính thức sống cô tịch không?
Ông loan báo: "Có một Đấng quyền thế hơn tôi
đang đến sau tôi. Tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho người. Tôi thì tôi làm
phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng
Thánh Thần".
Gioan Tẩy Giả chỉ hiện diện tại đó
để tiến dẫn một kẻ khác, một người nào đó chưa được gọi tên: “Đấng đang
đến"... Đấng quyền năng nhất"... “Đấng xứng đáng nhất!... Đấng dìm
trong Thánh Thần”... Nếu ta quyết định hoán cãi Thiên Chúa sẽ không là người
phong kiến ngoại cuộc: Người sẽ dìm chúng ta trong Thần Khí của Người.
THÁI ĐỘ
CẦN CÓ ĐỂ ĐÓN NHẬN CHÚA
Charles
Lamb là một văn sĩ nổi tiếng của nước Anh vào thế kỷ thứ 18. Buổi tối nọ, năm sáu
văn sĩ khác tụ họp ở nhà ông để thảo luận về các đề tài văn chương. Bỗng nhiên,
có người đặt vấn đề: Chúng ta sẽ làm gì nếu được gặp gỡ các danh nhân thế giới
trong các thời đại đã qua. Có người gợi ý:
- Nếu giờ
đây Dante bước vào phòng này?
- Giả như
đêm nay có Shakespeare cùng tham gia thảo luận với chúng ta?
Charles Lamb
hô to:
- Tôi sẽ hân
hoan giơ tay đón tiếp các vị như các hoàng đế của tư tưởng.
Cuối cùng
một người nói:
- Còn nếu
bây giờ Đức Kitô bước vào phòng này?
Charles
Lamb nghiêm nét mặt nói:
- Dĩ nhiên
tất cả chúng ta đều quỳ xuống.
Đó là thái
độ đúng đắn để tiếp đón Chúa Kitô. Người khác với mọi danh nhân trong lịch sử,
vì Người là Thiên Chúa.
Chúng ta vừa nghe thánh sử Maccô
mở đầu sách Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Đây là một câu chuyện, nhưng là một câu
chuyện đem lại ơn cứu độ. Tuy nhiên để đạt hiệu quả mong muốn chúng ta phải
chuẩn bị cho mình một thái độ đặc biệt để tiếp nhận câu chuyện về Đức Kitô cùng
với những lời truyền dạy của Ngài.
Đầu tiên, Đức Kitô là Thiên Chúa.
Người tới trần gian như một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
Câu chuyện bắt đầu bằng những từ ngữ trang trọng giống như những lời khởi đầu
toàn bộ Kinh Thánh: “Khởi đầu của Tin Mừng…”
Câu chuyện về cuộc đời Đức Kitô
bắt đầu bằng lời ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu nơi hoang mạc: Hãy dọn đường cho
Chúa”. Đức Kitô xuất hiện muộn màng trong lịch sử, nhưng Người chính là trung
tâm của lịch sử, toàn bộ Cựu Ước cốt chuẩn bị cho nhân loại đón tiếp Người.
Trước khi tới trần gian, Người đã hiện diện với tư cách Thiên Chúa, nhưng chỉ
khi nhân loại được dọn dẹp, được dạy dỗ, được huấn luyện bằng các biến cố lâu
dài, bằng những lời mặc khải cặn kẽ, lúc ấy con người mới có đủ khả năng và tư
cách tương đối xứng đáng đón nhận Chúa.
Sau khi được chuẩn bị bằng cả
chiều dài lịch sử, Gioan Tiền Hô dạy chúng ta dọn dẹp chính tâm hồn mình bằng
thái độ thống hối ăn năn. Nếu không cải thiện, không đổi mới hoàn toàn, ta sẽ
chẳng bao giờ gặp được Đức Kitô. Để đón mừng Chúa trong lễ Giáng Sinh, chúng ta
phải đổi mới ngay từ bây giờ. Những việc xấu đã từng làm phải ngưng lại. Những
việc thiện còn chần chừ ngần ngại phải sẵn sàng bắt tay làm ngay.
Dọn lòng trí đón tiếp Chúa với
thái độ của một người hành trình qua sa mạc. Bỏ hết xa hoa hào nhoáng, từ chối
cao lương mỹ vị, sẵn sàng chay tịnh và ăn mặc đơn sơ nghèo khó.
Khi đó chúng ta mới có thể gặp
được Chúa và con đường theo Chúa mới thực sự là một Tin Mừng chứ không phải một
gánh nặng. Vì một khi chúng ta đã cố gắng hết sức, Chúa sẽ ban phép rửa bằng
Thánh Linh, chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh và hân hoan.
Xin Chúa ban Thánh Thần cho chúng
con. Nhờ Người, tâm tư tình cảm chúng con được đổi mới, cũng nhờ Người, chúng
con tích cực chuẩn bị đón Chúa bằng cách nghe, suy niệm và thực thi lời Chúa
dạy bảo.
8. Tháo gỡ để giao hòa
(Lm. Trần Ngà)
Có hai hình thức cản trở khiến con
người không đến được với nhau: cản trở bên ngoài và cản trở bên trong.
Cản trở bên ngoài có nhiều thứ như
lũng sâu, núi cao, đường sá quanh co hiểm trở... đã được tiên tri Isaia đề cập
đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay.
Lại có những hình thức cản trở
khác do chính con người tạo ra để ngăn chận sự thâm nhập của quân thù như người
xưa phải xây thành cao, đào luỹ sâu; hay ngày nay người ta dùng hàng rào kẽm
gai cài thêm bom mìn để ngăn chặn đối thủ.
Ngoài ra còn có những ngăn cách
khác như dòng sông Bến Hải trước đây đã chia cắt đất nước Việt Nam thành hai
miền thù nghịch, hoặc bức tường Bá Linh ở Đức chia cắt đất nước nầy thành hai
quốc gia đối lập.
Thành luỹ bên ngoài tuy vậy mà dễ
vượt qua, còn thành luỹ bên trong tâm tư con người còn khó vượt qua hơn; đó là
lòng hận thù, nghi kỵ, giận hờn, ghen tỵ, tranh chấp, cãi cọ, kiêu căng, khép
kín... Những thứ thành luỹ nầy tuy vô hình, không đồ sộ, không có bề cao, bề
rộng, bề sâu nhưng có khả năng ngăn cách con người rất hiệu quả: Có những gia
đình ở kề bên nhau nhưng vì hận hờn ghen ghét nên không hề lui tới với nhau;
thậm chí có những anh em ruột thịt mà mấy chục năm trời không nhìn mặt nhau chỉ
vì tranh chấp đố kị. Có khi vợ chồng cùng sống chung phòng nhưng tâm hồn hai
người cách xa nhau vạn dặm.
Lời Chúa qua miệng Ngôn sứ Isaia
(trong bài đọc thứ nhất hôm nay) tha thiết mời gọi chúng ta hãy tháo gỡ những
thành luỹ vô hình đó để giao hoà với nhau. "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa
đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu và bạt mọi núi đồi: con đường
cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng..."
Và trong Tin Mừng hôm nay, Thánh
sử Mác cô nhắc lại: "Có tiếng kêu trong hoang địa: hãy dọn đường Chúa, hãy
sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Dọn đường đón Chúa không là gì
khác ngoài việc tháo gỡ những rào cản đang được dựng lên trong lòng ta để người
anh em có thể đến được với mình.
Tha nhân là hiện thân của Chúa
Ki-tô, là chi thể của Chúa Ki-tô.
Nếu chúng ta không tháo gỡ những
ngăn cách để cho tha nhân là hiện thân của Chúa Giê-su đến được với ta, thì
chúng ta đang ngăn chặn Chúa đến với mình.
Cha mẹ trần gian rất đau lòng khi
nhìn thấy con cái trong nhà xích mích, chia rẽ và ly tán.
Thiên Chúa là Cha nhân lành cũng
vô cùng đau đớn khi con cái Người trên dương thế sống xa lìa chia cắt.
Mỗi người chúng ta là một tế bào,
là một chi thể làm nên Thân Thể Chúa Ki-tô. Vì thế, khi để cho hận thù, nghị
kị, ganh ghét chia rẽ chúng ta là chúng ta đang chia cắt Thân Thể Chúa. Thế là
vô tình Chúa Ki-tô đang bị phanh thây! Chúa Giê-su rất đau lòng vì Thân Mình
Người bị chia năm xẻ bảy nên Người tha thiết đòi buộc con cái phải mau tháo gỡ
những ngăn cách đó để giao hoà với nhau, để cho Thân Mình Người được lành lặn.
Vì thế Người nghiêm khắc đòi buộc những chi thể phân cách hãy mau mau giao hoà:
"Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em
đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm
hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5, 23-24).
Dòng sông Bến Hải cắt đôi đất nước
Việt Nam và biến đồng bào Việt Nam thành thù địch trong suốt 21 năm trời cuối
cùng đã trở thành gạch nối liên kết hai miền bắc nam.
Bức tường Bá Linh chia cắt Đức
quốc thành hai quốc gia thù nghịch suốt 28 năm cuối cùng cũng bị triệt hạ để
cho dân tộc Đức được thống nhất và trở nên hùng cường.
Nhiều ngăn cách lớn lao giữa các
dân tộc đã dần dần được tháo gỡ.
Vậy biết đến bao giờ những
"bức tường" do chính chúng ta dựng lên ngăn cách chúng ta với người
khác được tháo gỡ để Thiên Chúa có thể đến với chúng ta?
9. Tiếng kêu
(GM Bart. Nguyễn Sơn Lâm)
Điểm nổi bật trong các bài đọc hôm
nay là tiếng kêu. Khi một âm thanh vang động, thì tiếng ấy phải phát xuất từ
đâu, muốn nói gì và cho ai? Tiếng kếu chúng ta nghe hôm nay phát xuất từ Thiên
Chúa qua Gioan Tiền hô loan báo cho ta một sứ điệp: "Này Ta sai sứ giả của
Ta đi trước để dọn đường cho con". Sứ giả Gioan chính là tiếng kêu trong
sa mạc: "Hãy dọn đường cho Chúa, chỗ quanh co hãy uốn lại cho ngay thẳng"
(Mc 1,1-3).
1. Tiếng
kêu của Chúa
Từ ngày xưa cũng như bây giờ,
Thiên Chúa vẫn làm phát xuất những tiếng kêu: qua các ngôn sứ, qua tiếng lương
tâm và qua cả những trạng huống của đời sống con người. Những tiếng kêu bi
thiết trầm thống của mọi thời đại đã vang tới Chúa. Phải chăng chỉ vì vậy mà
Chúa mới nhắn bảo các sứ ngôn: "Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta. Hãy nói cho
Yêrusalem biết rằng: nó không còn phải mang kiếp tôi đòi nữa và tội lỗi của nói
đã được tha" (Is 40,2-2).
Vì thế tiếng kêu của Chúa là một
tiếng kêu đặc biệt. Thông thường khi nói tới tiếng kêu, chúng ta quen nghĩ tới
kêu cứu, kêu gọi, kêu cầu: kêu cứu vì mình đang lâm nguy; kêu cầu để van xin
giúp đỡ; kêu gọi để nhắc bảo phải làm một cái gì. Tiếng kêu của Chúa không hàm
nghĩa kêu cứu và kêu cầu, mà chỉ ngụ ý kêu gọi.
2. Chúa
kêu gọi ta làm gì?
Để lay động thức tỉnh ta, bắt ta
chú ý và chuẩn bị đón nhận một sứ điệp. Tiếng kêu của Gioan tiền hô giữa nơi
hoang vắng tiên vàn cũng đánh thức, gây chú ý và quy tụ dân chúng để nghe ông
nói.
Sứ điệp của ông cũng tương tự như
những điều ngôn sứ trong sách Đệ nhị Isaia đã nói với dân Dothái vào thế kỷ VI,
sau khi họ vừa thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
Chúa đã thẳng tay trừng trị Giêrusalem,
nhưng giờ đây họ không còn phải làm nô lệ nữa, và tội lỗi của họ đã được tha thứ.
Phải dọn đường cho Chúa trong sa
mạc. Chỗ gập ghềnh khúc khuỷu hãy uốn lại cho ngay.
Mọi người sẽ được nhìn thấy vinh
quang của Thiên Chúa, vì Người đến với đầy vẻ lẫm liệt oai phong.
Người lãnh đạo dân mình như mục tử
chăn dắt đoàn chiên (Is 40,1-5.9-11).
Những năm tháng lưu đày đã giúp họ
hồi tâm lại và nhận thức lý do đem tới đau khổ là chính tội lỗi của họ (Is
7,25-28). Từ đó nhóm dậy trong lòng họ những tâm tình sám hối, dẫn đến quyết
định dứt khoát với tội lỗi.
Khi làm như thế là họ sửa sang đường
lối trong tâm hồn cho ngay thẳng để đón tiếp vinh quang Chúa đến. Đó chính là
điều các ngôn sứ nhắm, khi các ngài gióng lên tiếng kêu.
3. Tiếng
kêu của Gioan gây nên âm hưởng nào đối với người Do Thái đương thời?
Chắc chắn, tiếng kêu ấy đã khiến
họ ngỡ ngàng, băn khoăn và làm cho họ như phải đối diện với một số vấn đề thuộc
phạm vi lương tâm và công bình xã hội (Lc 3,7-14). Họ đã chịu phép rửa sám hối,
xin ơn tha tội để dọn tâm hồn tiếp nhận Đức Kitô.
Còn đối
với chúng ta hôm nay thì sao?
Sứ điệp của sách Đệ nhị Isaia và
của Gioan tiền hô vẫn thúc bách chúng ta dọn đường cho Chúa trong sa mạc, nhưng
là để đón Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Quả vậy, kinh nghiệm sa mạc của
người Dothái trong biến cố Xuất hành khỏi Aicập hướng về Đất Hứa và trên đường
hồi cư từ Babylon trở về Quê Hương vẫn mang một giá trị hiện thực cho cuộc sống
chúng ta hôm nay. Sa mạc trong lịch sử cứu độ mang những ý nghĩa thần học sâu
xa. Chính trong sa mạc con người chịu thử thách và phải chiến đấu để trung
thành với Giao ước; cũng chính trong sa mạc, con người được thanh luyện tinh
tuyền để xứng đáng với Thiên Chúa trong cuộc gặp gỡ ân tình. Giáo hội hôm nay
cũng phải trải qua kinh nghiệm sa mạc bằng cuộc sống chiến đấu và thử thách để
minh chứng lòng trung thành với ơn gọi Kitô hữu của mình và để tự thanh luyện
xứng đáng gặp lại Đức Kitô đến thiết lập Trời mới Đất mới (2P 3,13).
4. Phải
chăng trời mới đất mới chỉ hình thành trong thời viễn lai?
Ngay từ bây giờ Trời mới Đất mới
xuất hiện khi mỗi người thi hành sứ điệp dọn đường cho Chúa và biến cõi đời này
thành nơi đáng sống hơn. Ở đó mỗi ngày một bớt dần những cảnh bất công tàn ác;
ở đó nhân phẩm được kính trọng và các quyền lợi căn bản của con người được bảo
đảm; và nhất là ở đó mọi người được hòa giải với Thiên Chúa và với anh em đồng
loại. Như thế, vinh quang Thiên Chúa đang xuất hiện giữa thế giới loài người,
vì theo thánh Irênê: "Con người là vinh quang của Thiên Chúa". Chúng
ta không ngừng xây dựng Trời mới Đất mới để tiến tới ngày viên mãn rực rỡ lúc
mà Đức Kitô trở lại hoàn tất lịch sử cứu độ, thu hồi vạn vật về một mối (Ep
1,10) và trao phó vương quyền cho Thiên Chúa Cha, để Người trở nên mọi sự trong
mọi người. (1Cr 15,28).
Đó là viễn tượng giúp ta hiểu đúng
câu nói của thánh Phêrô trong bài đọc thứ 2: "Ngày đó, các tầng trời sẽ
sụp đổ tan tành, lửa, nước, ánh sáng, gió, mây đều cháy tiêu tan, và trái đất
với tất cả mọi công trình xây dựng của con người đều bị thiêu đốt" (2P
3,10). Câu đó có nghĩa là chính Đức Kitô sẽ dùng năng lực Thánh Thần và lửa
tình yêu nung nấu tất cả, để siêu thăng và biến đổi chúng nên rực rỡ tốt đẹp
cách nhiệm mầu chứ không hủy diệt chúng. Đó sẽ là cuộc biến hình hoàn vũ, mà
cuộc biến hình trên núi Tabo là dấu chỉ và khởi đầu.
Tiếng kêu của Gioan vọng lại tiếng
kêu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, đang gọi ta đứng dậy, ngước mắt nhìn
lên và hướng về tương lai. Viễn tượng Chúa đến trong vinh quang đem lại cho ta
niềm tin, phấn khởi trong cuộc hành trình qua sa mạc của đời sống hiện tại.
Vì thế, tiếng kêu của vị tiền hô
là một tiếng kêu mang đầy Hy Vọng và Niềm Vui.
BÀI GIẢNG
Chúa nhật hôm nay có thể gọi được
là Chúa nhật của vị Tiền Hô, của Gioan Tẩy giả, của "tiếng kêu" dọn
đường Chúa đến, và như thế là Chúa nhật của niềm trông đợi chứa chan hy vọng.
Chúng ta ngày nay, xét về mặt xã hội,
không còn như Israel
ngày xưa. Dân Chúa bấy giờ đang lầm than trong cảnh nô lệ lưu vong. Nhưng xét
về nhiều phương diện khác, đời người luôn luôn có những khổ sở. Và chẳng bao
giờ nhân loại thấy đã thoát khỏi lầm than, đau đớn... Luôn luôn chúng ta có một
số vấn đề không làm đau khổ thể xác thì cũng làm khắc khoải tâm hồn. Và cái khổ
là bao giờ những khó khăn hiện tại đối với tâm lý, cũng vẫn là những gò bó khó
chịu nhất mà chúng ta muốn cựa quậy, giũ đi cho bằng hết. Trong hoàn cảnh đó
tiếng kêu của vị Tiền hô đang muốn khơi lại niềm tin hun đúc niềm cậy, để mọi
người chúng ta tìm lại được tinh thần chứa chan hy vọng do Tin Mừng cứu độ mang
tới.
Gioan không bịa ra những nguồn tin
giả dối, trần tục, vô căn cứ và miễn cho ta những nỗ lực chính đáng. Chính ông
cũng không tự xưng là người sẽ giải thoát anh em. Ông chỉ cho chúng ta thấy
Đấng Cứu thế đích thực, là Đức Yêsu Kitô. Nói đúng hơn, khi rao giảng, ông bảo
mọi người hãy trông cậy vào Đấng sẽ đến sau, Đấng chưa ai thấy, nhưng chắc chắn
sẽ đến mà ông chẳng đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Gioan không nói viển
vông. Đặt niềm tin ở Sách Thánh, căn cứ vào mạc khải của Thiên Chúa, Gioan
khẳng định Đấng Cứu thế không phải là phàm nhân, không hành động như các vĩ
nhân trong lịch sử. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên mình như mục tử; Ngài ẵm chiên
con trên cánh tay; ôm ấp chúng vào lòng và nhẹ tay dẫn dắt các chiên mẹ.
Đấng Cứu thế chúng ta trông đợi là
như thế. Ngài không có những toan tính trần gian. Ngài là một mục tử hiền lành
săn sóc từng con chiên và cả đoàn chiên. Vì thế, chúng ta hãy trút bỏ não trạng
trần tục khi khắc khoải đợi chờ Đức Kitô trở lại. Trong bất cứ thử thách nào
Đấng Cứu chuộc chúng ta vẫn là Chúa, vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được niềm trông
cậy của ta.
Niềm trông cậy ấy tạo nên ở nơi ta
một thái độ, một tác phong, một nếp sống đặc biệt. Khi người ta ao ước những sự
hão huyền hay chờ đợi những giải pháp trần tục, thường người ta dành công việc
cứu thế cho người khác; còn chính bản thân người ta chỉ thụ động ỷ lại và biếng
nhác. Ngược lại, khi rao giảng Đấng Cứu thế là ai, thì Gioan cũng vạch ra cho
mỗi người con đường phải sửa soạn có thể tiếp một vị cứu tinh như thế. Người sẽ
rửa ta trong Thánh Thần. Người sẽ thánh hóa tất cả những ai sẵn sàng. Thế nên
hết mọi người phải ăn năn thống hối, phải thú tội và sửa lại đường lối xưa nay.
Không còn được sống quanh co, lúc thế này khi thế khác. Phải trước sau như một,
thi hành một đòi hỏi của sự thánh thiện. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt
đẹp với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình người và lòng bác ái
cứu độ của Đức Kitô đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần huynh
đệ hơn, tốt đẹp hơn và chúng ta mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa trải rộng trên
khắp mặt địa cầu.
Không những rao giảng, Gioan còn
sống cuộc đời sám hối. Ông ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông mặc áo lông
lạc đà và thắt lưng bằng dây da thú. Ông sống như các thánh nhân thời bấy giờ:
không quan tâm đến việc trang điểm bằng các sản phẩm mỹ nghệ, không ăn dùng như
những người tưởng chỉ có các thú vui ở đời này. Ngược lại, ông thấy hạnh phúc
trong nếp sống gần thiên nhiên, thấy thiên nhiên như tiếng gọi trở về đời sống
chất phác và chân thật. Ông coi cuộc đời phù phiếm như đã qua, và trông đợi
Trời mới và Đất mới trong đó có công lý sẽ ngự trị.
Tất cả chúng ta không đang được
kêu gọi đi vào một nếp sống cụ thể như thế sao? Cả một lối sống phù phiếm như
đã qua rồi. Những giờ lao động tiếp xúc với thiên nhiên như đang khiến ta có
một nhân-sinh-quan mới: chân thật và đơn sơ hơn. Nhiều nhân đức Phúc Âm như
đang có cơ hội được thực thi dễ dàng hơn trước. Chúng ta phải bắt lấy thời cơ,
nhờ ơn từ trời xuống, giúp nhau sám hối và đổi đời. Làm được như vậy, là đang
san phẳng đường đi cho Chúa đến. Nói đúng hơn, Thánh Thần Chúa ở trong ta đang
muốn dùng ta để thay đổi mặt đất này cho công lý ngự trị.
Thánh Thể mà chúng ta cử hành bây
giờ cũng chỉ muốn thực hiện những điều đó. Đức Kitô cứu thế mời ta góp phần đời
sống sám hối canh tân của chúng ta vào mầu nhiệm Tử nạn của Người, để ơn Phục
sinh của Người tràn vào tâm hồn và đời sống chúng ta, dùng nếp sống đổi mới
hằng ngày của ta, canh cải mặt đất này tạo nên một Trời mới Đất mới cho tất cả
mọi người.
Xin anh em hãy hết mình đi vào mầu
nhiệm bàn thờ với những tâm tư quyết liệt như thế.
(Trích dẫn
từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
10. Suy niệm của JKN
Câu hỏi
gợi ý:
1. Tại sao Tin Mừng Maccô lại bắt đầu bằng câu chuyện
của Gioan Tẩy giả, mà không bắt đầu bằng chuyện Đức Giêsu giáng sinh? Việc dọn
đường của Gioan có ý nghĩa gì đặc biệt đối với người Rô-ma?
2. Dựa theo tinh thần bài Tin Mừng, để dọn đường đón
Chúa đến, chúng ta cần làm gì một cách cụ thể? Những hình ảnh “dọn sẵn con
đường của Đức Chúa”, “sửa lối cho thẳng để Người đi” có ý nghĩa gì?
3. Việc dọn đường Chúa đến có liên hệ gì với những quan
hệ của ta với tha nhân không?
Suy tư gợi
ý:
1. Gioan Tẩy Giả, người dọn đường để Đức Giêsu đến
Khởi đầu Tin Mừng Maccô là chuyện
Gioan Tẩy Giả loan báo và dọn đường cho Đức Giêsu đến, khác với Matthêu và
Lu-ca khởi đầu bằng chuyện Đức Giêsu giáng sinh. Tại sao? Vì Tin Mừng Maccô
được viết cho người Rôma. Theo quan niệm và thông tục của người Rôma, các nhân
vật quan trọng đi đến đâu đều phải có người dùng loa thông báo cho dân chúng
biết trước mấy ngày, vừa để làm nổi bật sự quan trọng của nhân vật đó, vừa để
dân chúng sửa sang những con đường trong vùng cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch
sẽ, vừa để dân chúng đón tiếp hai bên đường cho long trọng nếu vấn đề an ninh
cho phép. Vì thế, để giới thiệu Đức Giêsu cho các Kitô hữu Rôma mà khởi đầu Tin
Mừng bằng câu chuyện của Gioan Tẩy Giả thì sẽ hiệu quả và lôi cuốn sự chú ý
hơn. Ngoài ra, để nói lên tính cách đặc biệt thần thiêng của việc dọn đường ấy,
thánh sử còn trích dẫn lời của 2 ngôn sứ Isaia và Malakia đã loan báo trước đó
khoảng 450-550 năm (tương đương với thời của các vị giáo chủ các tôn giáo châu
Á): “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1), “Có tiếng
người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng
để Người đi” (x. Is 40,3).
Phần chúng ta, khởi đầu năm phụng
vụ mới, chúng ta cũng cần chuẩn bị đón mừng kỷ niệm Đức Giêsu đến trong nhân
loại, đồng thời đón mừng Ngài đến trong tâm hồn mỗi người. Vì thế, thiết tưởng
bản thân mỗi người cũng như toàn Giáo Hội hãy dọn đường đón mừng Ngài. Dọn
đường thế nào thì Isaia và Gioan Tẩy Giả đã chỉ cho chúng ta.
2. Dọn đường đón mừng Chúa đến
Ngôn sứ Isaia viết: “Trong sa mạc,
hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng
băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ
phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất
phẳng phiu” (Is 40,3-4). Như vậy, theo ngôn sứ Isaia, để đón Chúa đến, việc đầu
tiên là phải mở một con đường. Muốn thế, phải bạt núi, san đồi, lấp thung lũng,
đổ đầy các hố rãnh. Đó là nói theo ngôn ngữ hình tượng. Còn trong thực tế thì
phải làm gì?
a) Phải mở
một con đường = muốn và quyết gặp gỡ Chúa
Chúa đến để gặp gỡ và đem lại cho
chúng ta sự cứu độ, không chỉ ở đời sau mà còn ở ngay đời này: một sự bình an
và hạnh phúc siêu nhiên, tuyệt vời, không phải thứ bình an hạnh phúc kiểu thế
gian vốn bị lệ thuộc vào những điều kiện trần tục (x. Ga 14,27). Nhưng để việc
gặp gỡ đó thành hiện thực, chính chúng ta cũng phải mong muốn và quyết tâm gặp
gỡ Ngài. Ngài không thể đến với ta nếu chính ta không tích cực muốn điều đó. Do
đó, trở ngại lớn nhất khiến chúng ta không thể gặp gỡ Ngài chính là chúng ta
không thật sự muốn gặp gỡ Ngài. Vì khi gặp gỡ Ngài, Ngài sẽ đòi hỏi chúng ta
phải đối diện với sự thật của chính bản thân chúng ta. Nhưng chúng ta thường
muốn trốn tránh sự thật, tránh việc phải đối diện với lương tâm mình... Vì điều
này đòi buộc ta phải chỉnh đốn lại cách sống của mình, phải từ bỏ những đam mê,
những thói xấu, những bất công vốn đem lại cho ta vui thú, lợi lộc, quyền lực,
danh vọng là những thứ ta rất ham thích. Như vậy muốn Chúa đến với ta, ta phải
khai phá một con đường, con đường ấy chính là tâm trạng sẵn sàng đón Chúa đến,
sẵn sàng đến với Ngài, gặp gỡ Ngài với bất cứ giá nào.
b) Con
đường thẳng ngay, bằng phẳng = tâm hồn chính trực
Với những ai muốn đón Chúa đến,
Gioan Tẩy Giả yêu cầu: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng
để Người đi”. Khi đón một nhân vật quan trọng đến một vùng nào, người vùng đó
phải dọn dẹp đường cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón Chúa
đến, ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn ta cho ngay thẳng, bằng
phẳng, sạch đẹp. Nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không
quanh co, gian dối, giả tạo...
Ngay thẳng là một trong những yếu
tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô hữu cần
phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng, chính trực, nói gì hay làm gì cũng
phải “công minh chính đại”, “đường đường chính chính”, không lén lút, giấu
giếm, không làm ai phải nghi ngờ điều gì. Tư cách của người Kitô hữu phải là tư
cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào nói thế nấy, và nói
thế nào làm thế nấy: “Hễ "có" thì phải nói "có",
"không" thì phải nói "không", thêm thắt điều gì là do ác
quỷ” (Mt 5,37). Nghĩ một đằng nói một nẻo, hay nói một đằng làm một nẻo là tư
cách của tiểu nhân, của phường gian ác, không thể là tư cách của người Kitô
hữu: “Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì
ngay thẳng” (Cn 21,28); “Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Dt
1,9); “Ngài ghê tởm tâm địa quanh co” (Cn 11,20).
Nguyên nhân biến con người thành
quanh co, giả hình, mưu mô... chính là tâm địa ích kỷ, lắm tham vọng, muốn
phình to bản ngã. Tâm địa này khiến người ta cố gắng đạt được những điều mình
ham muốn - danh vọng, quyền lực, tiền bạc - với bất cứ phương tiện nào, kể cả
phương tiện xấu, và bằng bất cứ giá nào, kể cả tội ác. Từ đó con người bị tham
vọng và đam mê của mình thu hút, mê hoặc, dẫn đưa mình vào con đường cong queo
của tội ác. Do đó, “sửa lối cho thẳng để Người đi” một cách căn bản là dần dần
diệt bỏ khuynh hướng ích kỷ, thích đặt nặng “cái tôi” của mình. Khuynh hướng
này gây nên tất cả mọi lồi lõm, mọi cản trở khiến Chúa khó đến với ta, và ta
khó đến với Chúa. Hãy noi gương Gioan Tẩy giả, sống thanh đạm: “mặc áo lông lạc
đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng”; không tham vọng,
không ham đề cao “cái tôi” của mình, sẵn sàng nhìn nhận sự thật hèn kém của
mình: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi
quai dép cho Người”.
c) Đường
đến với Chúa cũng là con đường đến với tha nhân
Thiên Chúa của chúng ta là một
Thiên Chúa luôn luôn tự đồng hóa với tha nhân của ta. Do đó, người Kitô hữu
không thể quan niệm Thiên Chúa độc lập với tha nhân của mình, không thể yêu mến
Thiên Chúa mà không yêu tha nhân, không thể đến với Thiên Chúa bằng một con
đường khác với con đường đến với tha nhân. Ngược lại, con người không thể yêu
thương tha nhân mà không yêu mến Thiên Chúa, không thể đến với tha nhân bằng
con đường khác với con đường đến với Thiên Chúa. Chủ trương chỉ yêu tha nhân
không cần đếm xỉa gì đến Thiên Chúa, hay ngược lại, chỉ yêu Thiên Chúa mà không
đếm xỉa gì đến tha nhân đều là những tình yêu giả tạo, không thực tế. Do đó,
muốn đến và gặp gỡ với Thiên Chúa không gì tốt đẹp và chắc chắn bằng đến hay
gặp gỡ Ngài nơi tha nhân của ta. Và muốn đến và gặp gỡ tha nhân không gì bảo
đảm và tạo hạnh phúc cho họ bằng đến và gặp gỡ họ trong Thiên Chúa. Đối với người
Kitô hữu, không thể tách rời Thiên Chúa khỏi tha nhân, và tách rời tha nhân
khỏi Thiên Chúa.
Vậy, đón Chúa đến, không gì làm
Chúa hài lòng bằng sửa sang lại mọi quan hệ của ta với tha nhân cho tốt đẹp
hơn, tình nghĩa hơn: làm sao để cha mẹ ta cảm thấy ta thật sự là con hiếu thảo,
con cái ta thấy ta thật sự là cha mẹ tốt, anh chị ta thấy ta là người em tốt,
các em ta thấy ta là người anh tốt, bạn bè ta thấy ta là người bạn tốt, những
nhà chung quanh ta thấy ta là hàng xóm tốt... Hãy sống làm sao để không mấy ai
có thể chê trách ta được, ai cũng cảm nhận được tình thương của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha là một Thiên Chúa
luôn luôn đồng hóa với tha nhân của con. Nhờ đó, con có thể gặp gỡ Cha trong
những người sống chung quanh con, con có thể yêu thương và phục vụ Cha bằng
việc yêu thương phục vụ họ. Vì thế, chuẩn bị đón Cha đến trần gian, không gì
tốt đẹp hơn làm cho môi trường con đang sống biến thành một môi trường yêu
thương. Xin giúp con thực hiện điều Cha mong muốn nhất ấy.
11. Dọn đường Chúa đến
Hãy dọn đường Chúa đến, đây là một
hình ảnh khá quen thuộc của thế giới đông phương thời xưa. Thực vậy, đường sá
lúc bấy giờ đâu có trơn tru phẳng lì như những xa lộ hiện đại. Đường thì gập
ghềnh, có chỗ trũng có chỗ cao. Mỗi lần viên chức cao cấp đi qua, dân trong
vùng lân cận đều được huy động đi dọn đường, bạt chỗ cao lấp đầy chỗ trũng, làm
cho thẳng những khúc quanh co.
Lời kêu gọi dọn đường đặt chúng ta
vào trong một bầu khí rộn ràng, nhộn nhịp của việc chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Thế nhưng Ngài đã không đến như một viên chức cao cấp. Ngài đã chẳng ngại đêm
tối hay nhờm gớm mùi hôi hám của một chuồng bò. Ngài chấp nhận cái nóng bỏng
chân của con đường ngang qua sa mạc. Ngài yêu thích những con đường gồ ghề dẫn
tới biển để gặp các môn đệ, những con đường dẫn lên núi để ở giữa đám đông, rao
giảng Tin mừng cho ho, những con đường ngang qua những cánh đồng để đi tìm
những con chiên lạc.
Ngài đã đi con đường dẫn tới núi
Sọ với cây thập giá trên vai với sức nặng của những lời chế diễu và chửi bới…
Ngài đã chấp nhận một cuộc sống không có lấy một hòn đá gối đầu và một cái chết
không mảnh vải che thân, bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Một con người như
thế đâu cần ai dọn đường…
Chúng ta có thể trang hoàng thánh
đường một cách lộng lẫy, những hang đá đẹp đẽ, tập những bài hát du dương,
nhưng tất cả là để cho chúng ta, những kẻ khó chấp nhận Tin mừng của sự nghèo
túng, Tin mừng của những cái bình thường.
Riêng Chúa, Ngài vẫn muốn đi trên
những con đường dẫn tới lòng người, dẫn tới trái tim. Và như thế, dọn đường
Chúa đến có nghĩa là dọn lòng mình để đón nhận Chúa cùng với Tin mừng cứu độ
của Ngài.
Chúng ta đừng vội nghĩ ngay đến
việc xưng tội, mặc dù chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: Dân cả miền Giuđêa và
Giêrusalem tuốn đến cùng Gioan Tẩy giả thú nhận tội lỗi và chịu phép rửa trong
sông Giócđan. Xưng tội thì có xưng, nhưng họ lại không đón nhận Ngài khi Ngài
đến. Và không chỉ có vậy, hơn thế nữa, họ còn hò hét đòi thủ tiêu Ngài. Họ xưng
tội nhưng lại khóa chặt cửa lòng đối với Tin mừng Phúc âm. Họ đã không nhận ra Ngài
là gì đối với sự cứu thoát của họ và họ đã ngại đi vào con đường cứu thoát mà
Ngài đã vạch ra. Con đường có quá nhiều chông gai, bấp bênh và nguy hiểm. Con
đường đòi buộc chúng ta phải cởi bỏ tất cả những gì mình đang chiếm hữu như một
bảo đảm cho sự sống để đón nhận cái mới, đó là sự hiện diện của Con Thiên Chúa
làm người và ở giữa chúng ta.
Dọn đường như thế có nghĩa là dọn
lòng, là cởi bỏ những định kiến, những ích kỷ, những tính toán, lấy chính cái
tôi làm tiêu chuẩn, những quyền lợi có thể là mang dáng dấp thiêng liêng, nhưng
lại chẳng có chút dấu vết gì của Tin mừng, là cởi bỏ những ràng buộc để chúng
ta có thể tự do đón nhận giáo huấn của Chúa. Bởi vì, giáo huấn của Chúa chính
là con đường dẫn chúng ta tới sự giải thoát.
12. Chúng ta đợi chờ
Truyện cổ
Đông Phương kể về một con cá con bơi dọc theo bờ sông. Cạnh bờ sông, ông giáo
đang dạy khoa học cho các học trò đang quây quanh ông. Thày giáo giảng:
"Nước tuyệt đối cần thiết cho sự sống. Không có nước trong một tuần lễ
chúng ta sẽ chết." Một con cá con nghe vậy liền tự nghĩ: "Trời! Nếu
nhà khoa học đó nói đúng, tôi phải đi tìm cái mà người ta gọi là nước đó, nếu
không tìm được mấy ngày nữa tôi sẽ chết." Nó hỏi mọi con cá khác nó gặp có
biết nước là gì không, nhưng không ai trả lời cho nó. Họ chỉ biết để ý đến tìm
của ăn nuôi sống. Nhiều con cá còn cho nó là dại gì mà nghĩ những chuyện đâu
đâu. Nó tiếp tục đợi chờ đi tìm cái gọi là nước. Rồi một hôm nó cố hỏi con cá
lớn tuổi, có phần khôn ngoan: "Làm ơn chỉ cho tôi cái chất mà người ta gọi
là nước là gì và tìm đâu ra nó?" Con cá lớn trả lời: "Nước hả! Mày
đang ở trong đó, mày sinh ra và lớn lên trong đó. Nước bao quanh mày và mày cứ
ngụp lặn, hút lấy nó thì mày sống được." Con cá đang sống trong nước mà nó
không nhận ra. Cũng thế, chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa mà
chúng ta không nhận ra Ngài.
Thời gian đã đến, Thiên Chúa thể
hiện công trình cứu chuộc. Ngài đã không kiến tạo một thế giới khác, xứng đáng
đón nhận sự viếng thăm của Ngài. Ngài đã đến trong thế giới con người, những
người đang mong mỏi chờ đợi Ngài đến. Hầu hết những người Do Thái, không sống
đúng với việc nghinh đón Đấng Thiên Sai, đã quên đi việc chuẩn bị cho Đấng Cứu
Thế. Nhiều lần trong Cựu Ước, con cái Israen đã bước theo những thần tượng
khác.
Trong biến cố Giáng Sinh, Tình yêu
Thiên Chúa đi vào sự hiện hữu của con người. Nơi Chúa Kitô, Thiên Chúa được
khám phá ngay trong cuộc sống thường ngày của con người.
Đối với hầu hết chúng ta, không ai
là tầm thường khi là một phần tử của gia đình. Thông thường, sự quen thuộc gây
nên mãn nguyện, coi thường. Điều đó đúng khi không biết tìm mới lạ trong thường
ngày. Đây chính là bí mật của Phúc Âm được khám phá do những người vợ, người
chồng, người anh, người em, những người bạn. Thật đẹp biết bao có những gia
đình, những tình bạn mà tình yêu luôn đầm thắm. Nhưng điều đó hiếm hoi quá.
Chúng ta giống như các trẻ em sáng
thứ Bảy muốn có những cuộc giải trí hào hứng. Tuy nhiên, tiến trình làm phong
phú sự liên hệ tình người không phải là cuộc giải trí nhưng là dấn thân. Chúng
ta nghe có những gia đình mất đi những thích thú. Họ thấy nhạt chán. Từ trước
đến giờ, họ trở đi trở lại cũng một trò cười, những thói quen, những phàn nàn.
Họ nghĩ đến một liên hệ mới để có thể tìm vui hứng. Thật đáng buồn.
Nơi Chúa Kitô, Chúa tự ngụp sâu
vào tình trạng con người. Thực tại của con người, của mỗi người thì vô tận. Mỗi
người là một mầu nhiệm đối với những người khác: Mầu nhiệm vui và buồn, mầu
nhiệm của nước mắt và hy vọng, mầu nhiệm của đau đớn và hoan lạc. Chúng ta là
mầu nhiệm đối với chính chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Chỉ trong Nước Chúa,
chúng ta sẽ thấy chúng ta như Chúa thấy chúng ta." Cho đến ngày đó, chúng
ta vẫn còn thám hiểm.
Một trong những mầu nhiệm cao cả
của Đức Tin là Ơn Thánh Chúa cống hiến chúng ta sự sống mới mà chúng ta đang
mong đợi và Chúa đang đợi chúng ta đáp trả. Ngài không áp lực. Ngài không đánh
tráo. Ngài chờ đợi! Còn chúng ta, chúng ta không hiểu được "Chúa ở
đâu?" "Ngài ẩn trốn?" hay "Ngài bỏ rơi?" Thật ra, Chúa
ở đó và chờ đợi. Chúng ta phải đáp trả mới nhận ra sự hiện diện của Ngài. Chúng
ta phải có ý sử dụng sự sống mới Ngài tặng ban, nếu không, việc tặng ban sẽ vô
ích. Chúng ta phải có ý bước theo con đường của Ngài.
Thánh Mátcô nói: "Gioan Tẩy
Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa thống hối." Nói cách khác,
Đấng Thiên Sai quí vị đang mong chờ đang hiện diện. Đây là lúc cần thay đổi.
Gioan không công bố, "Đức Kitô sắp đến." Ngài rao giảng phép rửa
thống hối; ngài kêu gọi một sự đáp ứng.
Trong cuốn tiểu thuyết The Shoes
of the Fisherman, có câu rất hay: "Cái giá phải trả để thành một con người
hoàn toàn quá đắt đến nỗi ít người có hứng hay có can đảm để trả nó." Lúc
này chúng ta có thể quyết sống một đời sống mới. Chúng ta quyết chí thành một
người hoàn toàn. Chúng ta đón nhận ơn soi sáng nhận ra Chúa hiện diện trong ta
và can đảm sống cuộc sống mới.
Chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh,
Ngài hỏi chúng ta có muốn một đời sống mới không? Giáng Sinh nói cho chúng ta
rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài tự hạ mình hiện diện trong
cuộc sống nhân loại. Ngài chờ chúng ta khám phá ra Ngài. Chúng ta sẽ không thể
nhận ra Ngài nếu chúng ta không nhận ra Ngài trong người chồng, người vợ, người
cha, người mẹ, các con, bạn bè, người khách lạ, hay kẻ thù. Giáng Sinh không
những để mừng vui, Giáng Sinh mời gọi khám phá, khám phá ra sự hiện diện của
Chúa Giêsu.
13. Hãy sám hối
Trong Mùa vọng, các bài Tin Mừng
nhiều lần nói đến Gioan Tẩy giả, bởi vì đời sống và sứ mạng của ngài gắn liền
với Đấng Cứu Thế. Ngài là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa chọn làm sứ giả
đi trước mở đường và dọn đường cho Chúa Kitô. Cho nên, danh hiệu “Tiền hô” và
sự nghiệp của Gioan gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm
chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc tới vị tiền hô của Người.
Chính vì thế phụng vụ Mùa vọng đã dành nhiều ngày nói đến Gioan. Cụ thể bài Tin
Mừng Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau, đặc biệt đề cập đến ngài.
Ngài là con duy nhất của ông
Giacaria và bà Êlisabéth, sinh sống ở làng Ain Karim, gần thủ đô Giêrusalem. Có
thể ngài đã đi tu từ nhỏ trong hoang địa với những người phái Qumran,
sống rất khổ hạnh: Y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, một kiểu áo hãm
mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng. Ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ.
Còn của ăn là châu chấu độn với mật ong rừng. Ngài sống như vậy cho đến mùa thu
năm 27, dưới thời hoàng đế Tibêriô thì xuất hiện công khai giảng dậy dân chúng
ở miền nam Do thái, chung quanh lưu vực sông Giorđan.
Nội dung lời giảng dạy của ngài
được thánh Matthêu diễn tả rõ ràng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến
gần”. Các sách Tin Mừng khác cũng cho thấy nội dung ấy một cách gián tiếp khi
kể lại những lời kêu gọi và hoạt động “làm phép rửa sám hối” của ngài, chẳng
hạn như Tin Mừng Maccô của Chúa nhật hôm nay.
Sám hối, theo tiếng Hy lạp có
nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức là
trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám
hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa, nhưng phép
rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha
tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau
này.
Như vậy, Gioan đã đối chiếu sứ
mạng của ngài với sứ mạng của Đấng đến sau ngài, và ngài khiêm nhường tự nhận
là không đáng cởi quai dép cho Đấng đó. Tóm lại Gioan làm phép rửa bằng nước để
giục lòng người ta sám hối. Còn Đấng đến sau làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần
để tha tội cho người ta. Cho nên, rõ ràng Gioan chỉ là một vị tiền hô, một
người đi trước, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu thế.
Đối với chúng ta hôm nay, nhắc đến
Gioan Tiền hô cũng có nghĩa là nhắc lại lời ngài đã giảng dạy, và cũng là nhắc
nhở chúng ta: Hãy sám hối, hãy thay đổi đời sống. Chúng ta đều đã biết sám hối
là nhận ra những giới hạn thiếu sót và lầm lỗi của mình; là nhận ra những thiệt
hại mình đã gây ra cho người khác; là nhận ra và quyết tâm dứt bỏ tình trạng cũ
để bắt đầu một cuộc canh tân. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải hiểu
sám hối là quay về với Chúa, tuyên xưng tình yêu thương và lòng nhân từ tha thứ
của Chúa. Đây là điều Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta.
Về điều này, chúng ta hãy nhớ câu
chuyện thánh Giêrônimô: Vào một đêm lễ
Giáng Sinh kia. Giêrônimô đang cầu nguyện trong một hang đá ở rừng vắng, ngài
suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Đột nhiên Chúa
Giêsu hiện ra hỏi ngài: “Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày sinh
nhật của Ta không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim của con”.
Chúa nói: “Còn gì khác nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất
cả những gì con có và tất cả những gì con có thể”. Chúa lại hỏi: “Còn điều gì
khác nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con mới dịch sách Thánh xong, con xin
dâng Chúa bản dịch công lao vất vả của con”. Chúa nói: “Tốt lắm, con còn điều
gì nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con còn gì nữa đâu?”. Chúa bảo: “Còn sự
yếu đuối và tội lỗi của con, con hãy dâng những thứ ấy cho Ta”. Giêrônimô hốt
hoảng thưa: “Lạy Chúa, làm sao con dám dâng những cái ấy?”. Chúa nói: “Được
chứ, Ta muốn con dâng những cái đó cho Ta để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta
mong đợi”.
Câu chuyện trên nhắc nhở: Chúng ta
phải có tâm hồn sám hối để được Chúa tha thứ. Lòng nhân từ tha thứ của Thiên
Chúa được biểu lộ tới tột đỉnh bằng việc ban tặng chính Con Một của Ngài. Chúa
Giêsu chính là hiện thân của lòng tha thứ. Ngài đến trần gian để nhận lấy tất
cả tội lỗi của loài người. Bởi vậy, chẳng có gì quá đáng khi nói: Món quà Thiên
Chúa mong đợi nhất nơi con người là tội lỗi của họ. Vì Thiên Chúa chẳng muốn gì
hơn là được thỏa mãn lòng nhân từ yêu thương của Ngài bằng việc tha thứ cho con
người.
14. Gioan Tiền Hô
Tôi không
xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Ngài
So sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận
ra mình thật kém cỏi, kém cỏi đến nỗi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy.
Kém cỏi đến nỗi không xứng đáng xách dép cho Ngài.
Chúng ta tưởng rằng Gioan hạ mình
và khiêm tốn, nhưng không phải là như thế. Gioan không hạ mình và cũng chẳng
khiêm tốn, nhưng ông chỉ nói lên một sự thật, một sự thật 100%.
So sánh với chúng ta, Gioan trổi
vượt hơn nhiều, bởi vì ông được toàn thể dân chúng trọng kính, kéo đến nghe
giảng và chịu phép sám hối. Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, ông thật kém xa và
kém rất xa vì dù sao ông cũng chỉ là loài người, ông cũng chỉ là một tạo vật.
Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên
Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu,
Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ
trong thửa rừng bát ngát, chỉ là một hạt cát chốn sa mạc bao la.
Từ mẫu gương của Gioan chúng ta
hãy đi vào lãnh vực bản thân và hãy thú nhận mình hèn kém, hèn kém mọi đàng.
Thực vậy, tự bản chất chúng ta
chẳng là gì cả. So sánh với người này người kia, có thể chúng ta giàu sang hơn,
chúng ta tài giỏi hơn, chúng ta thế lực hơn, chúng ta nhan sắc hơn. Tuy nhiên
chúng ta có nên dựa vào mấy cái hơn đó mà vênh vang tự đắc hay không?
Về giàu sang ư?
Hẳn rằng ai cũng đã rõ, tiền bạc
và của cải không phải là yếu tố chính yếu đem lại hạnh phúc. Hơn thế nữa, nó
cũng không ở cùng chúng ta luôn mãi, có thể chỉ vì một biến động mà chúng ta sẽ
trắng tay, như tục ngữ đã bảo:
- Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Về tài giỏi ư?
Cái chúng ta biết chỉ là một, còn
cái chúng ta không biết thì từng ngàn từng vạn. Jules Simon đã nói:
- Chỉ có kẻ ngu mới tin rằng mình biết mọi sự.
Người ta hỏi một nhà bác học nọ:
- Chính phủ trả lương cho ông, mà sao mỗi lần hỏi sự gì
thì ông lại trả lời là không biết.
Nhà bác học nói:
- Chính phủ trả lươngcho tôi vì cái tôi biết. Song nếu
phải trả lương cho tôi vì cái tôi không biết, thì cả kho bạc chính phủ cũng
chẳng đủ để trả lương.
Về thế lực ư?
Có những người một thời hét ra
lửa, thế mà, sau cùng lại bị tù tội. Cảnh thăng trầm, lên voi xuống chó, chẳng
phải là chuyện bình thường trong sinh hoạt của con người đó sao?
Về nhan sắc ư?
Chỉ một cơn sốt trên bốn mươi độ,
thì con người còn gì là nhan sắc.
Tại Hollywood, kinh đô điện ảnh
của thế giới, có một nhà hưu dưỡng dành cho những ngôi sao màn bạc, khi trẻ
được ngưỡng mộ, nhưng bây giờ, họ vừa già lại vừa nghèo nên đã bị bỏ rơi và
chìm vào quên lãng. Chính phủ cung cấp tiền nuôi dưỡng. Từ ngày mồng một tháng
giêng đến hết ngày ba mươi tháng chạp, những bóng người lui tới thăm hỏi họ
thật là ít ỏi.
Như trên đã xác quyết: Những cái
chúng ta có thì chẳng là mấy. Hơn thế nữa, chúng ta chỉ là những người quản lý
chứ không phải là những ông chủ. Mặc dù so sánh, chúng ta có thể hơn thật,
nhưng tự bản chất chúng ta chỉ là những người quản lý. Như vậy có chi đáng cho
chúng ta khoe khoang, vênh vang và tự đắc.
Quản lý càng nhiều, thì càng bận
rộn, càng phải mang lấy trách nhiệm, bởi vì không sớm thì muộn chủ sẽ hạch hỏi
và đòi chúng ta tính sổ quản lý.
Copernic là một nhà thiên văn nổi
tiếng. Sự nghiệp của ông trong lãnh vực này thật lớn lao. Thế nhưng, ông không
bao giờ tự phụ, trái lại ông sống rất khiêm tốn. Càng thông minh, ông càng nhận
thấy mình bé nhỏ. Khi gần qua đời, ông xin khắc trên mộ bia của ông những hàng
chữ như sau:
- Lạy Chúa, con không dám xin ơn trở lại như thánh
Phaolô, cũng chẳng dám yêu cầu được sự tha thứ như thánh Phêrô, con chỉ xin
Chúa thương con như đã thương kẻ trộm lành mà thôi.
Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu
nguyện của thánh Augustinô:
- Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết
con.
Biết Chúa để con yêu mến Chúa
nhiều hơn. Biết con để con ăn năn sám hối, sửa đổi những sai lỗi mà thăng tiến
bản thân, đổi mới cuộc đời.
15. Dọn đường Chúa đến
Trong thế giới văn minh, sự phát
triển của các quốc gia có liên quan mật thiết đến sự phát triển của các phương
tiện giao thông. Thực vậy, giao thông càng mau lẹ, thuận tiện và rẻ tiền bao
nhiêu, thì sự phát triển càng nhanh chóng bấy nhiêu. Chính vì thế, mặc dù không
thếiu những phương tiện đi lại bảo đảm và an toàn giữa hai nước Anh và Pháp,
thế mà người ta vẫn tung ra không biết bao nhiêu tiền của và công sức để làm
một con đường hầm xuyên qua eo biển Manche. Tại Việt Nam cũng vậy. Với ý muốn làm cho
vùng duyên hải Saigon được phát triển, mặc dầu ngân sách không mấy dồi dào,
nhưng người ta vẫn cố gắng đầu tư vào con đường Nhà Bè-Duyên Hải, một con đường
mà các chuyên viên cho rằng rất khó xây dựng.
Tuy nhiên, qua báo chí cũng như
qua các phương tiện truyền thông, chúng ta thấy có những người không ý thức về
việc bảo vệ con đường, thậm chí họ còn có những hành vi gây hậu quả nghiêm
trọng, chẳng hạn như chạy xe quá tải trọng làm hư nền đường, làm sụp cầu cống
hay đào đương để lắp đặt hệ thống ống nước, cũng như dây cáp điện thoại, nhưng
rồi không lấp lại theo đúng kỹ thuật, khiến cho con đường trở thành lồi lõm với
những ổ gà ổ vịt, thậm chí còn có cả những ổ voi ổ trâu, rất khó đi lại, thậm
chí còn gây nên những tai nạn và tình trạng tắc nghẽn giao thông.
Hình ảnh này làm cho chúng ta liên
tưởng tới một con đường khác, mặc dù không nhìn thấy được, nhưng lại được Kinh
Thánh nói tới rất nhiều, đó là con đường Thiên Chúa đến với con người và con
người đến với Thiên Chúa. Thực vậy, chính Thiên Chúa đã mở ra con đường đến với
con người bằng cách tạo dựng nên chúng ta, trao ban cho chúng ta sự sống. Và
hơn thế nữa, Ngài lại còn muốn gắn bó mật thiết với chúng ta. Sách Sáng Thế Ký
đã viết: Khi gió chiều nhẹ thổi, Thiên Chúa thường đi dạo trong vườn Địa đàng
và nói chuyện với Adong-Eva.
Như thế, Thiên Chúa không xa cách
con người, nhưng đã đến với con người ngay tại chính nơi mà họ đang sống. Cũng
vậy, trong suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã đến với dân Do Thái. Ngài đã cắm
lều, có nghĩa là Ngài đã cư ngụ giữa họ bằng nhiều cách. Và với cặp mắt đức
tin, họ đã nhận ra sự hiện diện của Ngài. Ngài luôn đi trước họ, ban ngày bằng
áng mây để chỉ lối cho họ, ban đêm bằng cột lửa để soi sáng cho họ. Cũng như họ
đã nhìn thấy vinh quang của Ngài bao phủ nhà tạm, nơi đặt hòm bia giao ước.
Nhất là trong đêm giáng sinh, Ngài đã đến với toàn thể nhân loại. Ngài đã trở
thành một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Tuy nhiên, có một sự việc đáng
buồn đã xảy ra, đó là con người đã đặt những rào cản, những chướng ngại vật để
ngăn chặn bước đường Chúa đến. Hay nói một cách khác, con người đã từ khước sự
viếng thăm đầy yêu thương của Ngài, như lời thánh Gioan đã cảnh báo: Ngài đã
đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp đón Ngài.
Thuở ban đầu, Adong Eva đã giơ tay
ngắt trái cấm và lẩn tránh sự hiện diện của Ngài. Tiếp đến, dân Do Thái đã
nhiều lần quay lưng chống lại Ngài bằng cách quì gối thờ lại những thần tượng
nhảm nhí. Ngay chính chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa không phải chỉ đến với chúng
ta trong đêm giáng sinh, nhưng Ngài còn đến với chúng ta qua tiếng nói lương
tâm, qua mười giới luật, quan Tin Mừng, qua Giáo hội, qua những người nghèo
khổ, qua những biến cố và qua những dấu chỉ của thời đại.
Thế nhưng, bản thân chúng ta đã
tạo nên những rào cản, những chướng ngại vật dể ngăn cản không cho Ngài đến.
Những rào cản ấy, những chướng ngại vật ấy chính là những tội lỗi, những thói
hư tật xấu của mỗi người. Vì thế, trong suốt mùa vọng sứ điệp của Gioan tiền hô
phải luôn vang vọng bên tai chúng ta: Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho
ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Ước vọng của Thiên Chúa là muốn
được sống với con người. Chính vì ước vọng này, Ngài đã xuống thế và sinh ra
trong cảnh khó nghèo của hang đá máng cỏ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã
tiếp nhận Ngài hay là đã xua đuổi Ngài như dân thành Bêlem ngày xưa?
16. Dọn đường
Trong
truyền thống Zen của Đông phương có ghi lại một câu chuyện sau đây của một ông
giáo sư đại học đến gặp vị thiền sư để xin lời chỉ dạy: Thưa thầy, xin dạy con
phải làm gì để có một đời sống hạnh phúc. Con đã học Thánh Kinh, con đã học hỏi
với những bậc đại sư, nhưng con chưa tìm thấy câu trả lời, xin thầy làm ơn chỉ
dạy cho con biết cách nào đây?
Nghe xong
câu hỏi, vị thiền sư rót nước trà mời khách. Ngài rót trà đầy tách của khách,
rồi tràn cả ra ngoài, nhưng ngài vẫn cứ rót thêm mãi, tới nỗi nước trà chảy
xuống bàn, rồi từ bàn chảy xuống sàn nhà. Ông giáo sư nhìn thấy thế, không thể
kềm hãm mình được nữa, bèn nói lớn: “Ngưng đi! Ngưng đi! Đầy quá rồi! Không còn
chỗ… tràn cả ra nhà”.
“Giống như
cái tách trà này!”Vị thiền sư nói. Ông đã đổ đầy những suy nghĩ và ý kiến của
ông vào rồi. Làm thế nào tôi có thể chỉ cho ông cách nào được nữa, trừ phi ông
phải làm trống rỗng cái tách của ông trước đã.
Trong Thánh Kinh, sa mạc là nơi để
gặp Thiên Chúa. Đi vào trong sa mạc là phải bỏ lại tất cả mọi thứ mà ta thường
tùy thuộc trong đời: nghề nghiệp, liên hệ, tiện nghi, ý muốn và ngay cả những
cơ chế tôn giáo. Thiên Chúa chẳng làm gì được cho ta nếu ta không hoàn toàn tùy
thuộc và tin tưởng vào Ngài. Sa mạc biểu tượng cho sự từ bỏ bản thân, ý riêng,
làm trống vắng con tim mình để Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị. Đó là lý do tại
sao khi xưa Gioan tẩy giả xuất hiện trong hoang địa và rao giảng phép rửa sám
hối để chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến: “Hãy dọn đường Chúa đến, hãy sửa đường Chúa
cho ngay thẳng”.
Phúc âm hôm nay nói về con người
và những việc làm của Gioan tẩy giả chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Theo William
Barclay, một trong những lý do làm cho công việc mục vụ của Gioan có hiệu quả
mạnh mẽ, dân chúng lũ lượt kéo đến nghe giảng và xin ơn tha tội qua phép rửa,
là vì Gioan rất khiêm tốn. Gioan đã sống hy sinh từ bỏ chính bản thân mình như
một người nô lệ của Thiên Chúa qua đời sống trong hoang địa, trang phục đơn sơ,
ăn uống kiêng cữ giản tiện: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi
không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”.
“Sự phán quyết của Gioan cho chính
mình là Gioan không xứng đáng làm bổn phận của một người nô lệ. Những chiếc dép
da thuộc đơn sơ được cột vào bàn chân bằng những sợi dây. Mặt đường gồ ghề. Vào
mùa khô bụi bặm, sang mùa mưa dính đầy bùn. Tháo những đôi dép ra khỏi chân là
công việc và bổn phận của người đầy tớ. Gioan đã không đòi hỏi điều gì cho
chính mình nhưng mọi sự dành cho Đức Kitô. Rõ ràng là sự tự quên mình, sự
nhượng bộ, sự tự bôi xóa chính mình, sự thua thiệt hoàn toàn trong lời ngài rao
giảng đã thúc đẩy dân chúng phải lắng nghe”.
Chúa Giêsu Kitô cũng đã chết trên
thập giá theo ý Chúa Cha. Ngài hoàn toàn không làm sự gì theo ý riêng mình. Qua
thập giá, Ngài tự hư vô hóa bản thân mình để thánh ý của Chúa Cha được thể
hiện. Đó là con đường tu đức Ngài dạy chúng ta phải theo.
Chúng ta không có quyền bắt Chúa
phải trở lại theo thời khắc như ý ta. Khi nào Chúa đến đó là quyền của Chúa.
Ngay chính Chúa Giêsu cũng không biết ngày ấy: “Còn về ngày và giờ đó thì không
ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ
một mình Chúa Cha biết mà thôi”. Nhưng điều kiện Chúa đòi chúng ta là phải
chuẩn bị sẵn sàng. Một trái tim luôn sẵn sàng là trái tim thực thi thánh ý của
Thiên Chúa.
Nếu ta không dọn chỗ trống cho
Ngài, làm sao Ngài đến được? Thánh Gioan tẩy giả đã đến để dọn đường cho Thiên
Chúa, không phải bằng cách xây dựng một cơ chế tôn giáo, một lề lối làm việc
hay một phương hướng hoạt động truyền giáo theo ý ngài, nhưng bằng việc sửa
soạn trái tim và tâm hồn của tất cả những ai muốn đón nhận Thiên Chúa.
17. Thay đổi
Gioan Tẩy giả là vị Tiền Hô của
Đấng Cứu Thế. Ngài đã sống và thi hành sứ mạng của ngài thế nào? Ngài sống rất
khổ hạnh từ buổi thiếu thời: y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, là một
kiểu áo hãm mình mà các ngôn sứ xưa thường dùng, ngang lưng thắt một dây da cho
gọn ghẽ, còn của ăn lại càng bấp bênh hơn nhờ vào “may rủi”, là ăn châu chấu
độn với mật ong rừng. Gioan ăn mặc như thế mà đi rao giảng khắp vùng Giuđê,
Galilê và quanh sông Giordan. Bấy giờ mùa màng vừa gặt hái xong, thời vụ mới
cũng chưa tới, nên dân chúng rảnh rang kéo nhau đến rất đông để nghe ngài
giảng, cả những người lãnh đạo cũng sai người tới hỏi ngài là ai? Ngài chỉ mượn
lời ngôn sứ Isaia để trả lời: tôi không là ai cả, chỉ là tiếng kêu trong hoang
địa, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Thực vậy, ngài làm phép rửa và rao
giảng kêu gọi mọi người thay đổi đời
sống để đón Đấng Cứu Thế đến. Phép rửa của Gioan, xét về hình thức thì
giống như phép rửa của đạo Do Thái, là dìm mình ở nước sông Giordan, để từ bỏ
ngoại giáo và dứt khoát trở về tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng phép rửa của Gioan có
một hướng mới, khác hẳn đạo Do Thái, là hướng về luân lý, dùng công bằng, bác
ái, chân thật để sửa soạn cho nước Đấng Cứu Thế. Vì vậy, phép rửa của Gioan
chuẩn bị cho phép rửa của Chúa Giêsu, giúp người ta sám hối, sửa soạn cho việc
tha tội. Cho nên, phép rửa của Gioan không phải là một bí tích, nghĩa là không
tự động tức khắc tha tội.
Đàng khác, cùng với việc làm phép
rửa, Gioan Tiền Hô còn giảng dạy, kêu gọi mọi người hãy thay đổi đời sống để
đón nhận Đấng Cứu Thế: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
Điệp khúc rao giảng của ngài là hãy ăn năn sám hối, lời giảng của ngài làm chấn
động mọi tầng lớp, mọi thứ người, từ lớp rắn lục trở xuống, nghĩa là những
người có chức quyền, nhưng lươn lẹo, cố chấp, cả vua Hêrôđê cũng bằng lòng nghe
ngài giảng. Sử gia Phơlaviô đã ghi nhận: “Gioan có ảnh hưởng sâu đậm trên quần
chúng, đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông dạy bảo, hết mọi hạng người
đến gặp ngài để xin ngài chỉ dạy cách phải sống”.
Đối với chúng ta ngày nay, lời kêu
gọi “hãy ăn năn sám hối” của Gioan phải chăng đã nhàm chán và lỗi thời? Hoặc
trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, lời kêu gọi hãy thay đổi đời sống của
Gioan phải chăng không còn cần thiết? Nhàm chán thì có nhàm chán thật, vì lúc
nào chúng ta cũng nghe lặp đi lặp lại những lời khuyên đó hoặc những lời tương
tự như hãy tu thân tích đức, đừng kiêu ngạo, đừng gian tham, đừng bất công,
đừng sống phản bác ái, lỗi tình thương… Nhưng còn lỗi thời thì sao? Có lỗi thời
không? Có thể nói, ngày nào còn con người là còn luân lý, còn giáo dục, còn
khuyên răn, và bao lâu còn tội lỗi, còn tranh chấp, còn tệ đoan, còn tiêu cực,
thì còn phải sửa chữa, phải thay đổi để trở nên tốt hơn, và như vậy lời kêu gọi
của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết, không bao giờ lỗi thời.
Tất cả chúng ta đều biết: bước đầu
tiên để kiến tạo một xã hội, một thế giới tốt đẹp, là con người phải hiểu rõ
“cái tôi” của mình, từ đó mới làm chủ được bản thân và cùng hoà nhịp vào cuộc
sống với mọi người, đúng như quan niệm từ ngàn xưa của Khổng Tử: “Thành ý,
chính tâm, tu thân” rồi mới “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Con người sống
trong xã hội có ảnh hưởng hỗ tương và liên đới trách nhiệm với nhau rất mật
thiết, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng một phần tử xấu cũng đủ làm hư
hỏng một gia đình và cả xã hội, “con sâu làm rầu nồi canh” là như thế.
Vì vậy, mỗi Mùa Vọng chúng ta lại
có dịp xét mình, kiểm điểm đời sống, cách suy nghĩ qua lời kêu gọi của Gioan
Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Nói khác đi, chúng ta
cần phải thay đổi cách sống và lối suy nghĩ không phù hợp với lời Chúa hay
không đúng với lương tâm và lương tri của mình.
Trên đời này có cái gì không thay
đổi chăng? Có người nói chơi: chỉ có chữ “thay đổi” là không thay đổi mà thôi,
nghĩa là cái gì trên đời này cũng thay đổi. Thế giới này có nhiều sự thay đổi,
và có những cái thay đổi ảnh hưởng tới chúng ta, nhưng cái cần thiết nhất là
lòng chúng ta phải thay đổi. Khi lòng mình được thay đổi thì mọi sự sẽ được đổi
thay. Chúng ta đừng mong ngoại cảnh thay đổi lòng mình, chính lòng chúng ta
phải được thay đổi trước đã thì ngoại cảnh mới thay đổi theo, như câu chuyện
sau: có một cụ già kia sống giữa hai gia đình: một gia đình làm nghề thợ rèn và
một gia đình làm nghề thợ mộc, cả hai gia đình này gây tiếng động ồn ào suốt
ngày. Cụ già không chịu được, năn nỉ họ đổi đi nơi khác, nhưng họ cứ nhùng
nhằng mãi, sau cùng họ đồng ý đổi đi, họ đổi đi đâu? họ đổi nhà cho nhau, như
vậy cụ già kia chẳng được gì. Muốn thay đổi, chính cụ phải thay đổi, chính cụ
phải dọn nhà ra đi.
Đàng khác, có người không muốn
thay đổi gì hay chỉ ưa thay đổi tạm bợ và bằng lòng với phương pháp gọi là tu
sửa ít phần trăm, có người lại sợ đổi mất cả cái ít phần trăm đó, vì thế, dù
chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào thì lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô vẫn là
một lời khẩn thiết, xin mỗi người hãy lắng nghe và thực hiện để kinh nghiệm
được những ơn phúc của Mùa Vọng. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều thay đổi, đều
đổi mới từ tư tưởng tới hành động để trở thành những con người mới thực sự.
18. Hãy dọn đường - Mark Link
Chủ đề: “Mùa vọng là thời gian để trở về
với những gì nền tảng và đặt Đức Giêsu Kitô lên hàng đầu trong cuộc đời ta”.
Trong cuốn
“Nội lực nơi bạn” (The power within you), Pat William ở tiểu bang Philadelphia
có kể một câu chuyện đặc biệt sau đây: Năm 1980, vào một buổi trưa Chúa nhật
nóng bức, một bệnh nhân trẻ bị chứng tê liệt não bộ tên là Cordell Brown đang
đi bộ đến câu lạc bộ quán quân thế giới Philadelphia Phillies. Cordell bước đi
hết sức khó khăn, nói năng cũng rất là khó. Ăn uống đối với anh là một bổn phận
hết sức nặng nhọc. Khi thấy Cordell tới, nhiều người quay mặt đi đàng khác,
hoặc cố tình không nhìn thấy anh. Đó là cách phản ứng của một số người trong
hội Phillies khi thấy Cordell đi tới câu lạc bộ.
Cordell
làm gì trong câu lạc bộ Phillies vậy? Anh được mời tới đó để nói chuyện với
những tay ăn chơi trong một buổi nói chuyện tại nhà nguyện câu lạc bộ.
Cordell có
thể nói gì với những ngôi sao màn bạc như Steve Carleton và Mike Schmit, những
người sống rất xa cách với thế giới đau khổ và dị tật của anh?
Một vài
người trong hội Phillies cũng tự hỏi như thế khi họ ngồi xuống để chuẩn bị nghe
anh nói. Cordell bắt đầu bằng cách làm sao cho các tay ăn chơi đó cảm thấy
thoải mái dễ chịu. Anh nói: "Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các
bạn". Rồi anh trưng đoạn thư Thánh Phaolô (1Cr. 15,10): nhưng nhờ ơn của
Thiên Chúa mà tôi được như thế này. Suốt 20 phút kế đó, Cordell đã nói về lòng
nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống của anh. Anh kết luận
bằng cách trả lời cho câu hỏi này: Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh
nổi tiếng như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa
cách với thế giới của những người đau khổ tật nguyền như anh?
Cordell
nói một cách rất duyên dáng: "Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và
lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp
hòm quan tài của bạn lại, thì bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mà mọi
người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong
cuộc sống, nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng: các bạn cần một điều mà tôi
đang có, đó là Đức Giêsu Kitô".
Tôi thích câu chuyện này vì hai lý
do:
Trước hết, nó nói cho chúng ta về Mùa vọng. Nó mời
gọi chúng ta trở về với những gì nền tảng. Nó mời chúng ta tự hỏi chính mình
xem: Cái gì thực sự là quan trọng đối với chúng ta? Nó mời chúng ta nhìn vào
những cái chúng ta phải coi là ưu tiên trong cuộc đời mình. Nhất là nó hỏi
chúng ta xem Đức Giêsu Kitô có phải là ưu tiên số một trong cuộc đời của chúng
ta hay không?
Và điều này dẫn chúng ta tới điểm
thứ hai về câu chuyện của Cordell Brown. Nó nói với chúng ta về những bài học Thánh
Kinh ngày hôm nay.
Cả ba bài đọc đều nói nói về sự
cần thiết phải dọn đường cho Chúa đến. Cả ba bài đọc đều nói rằng: chúng ta
không sống đúng như cái mình phải sống, thì chúng ta phải chịu trách nhiệm về
điều đó.
Nói cách khác, nếu chúng ta đi sai
không đúng theo căn bản, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về
với những cái nền tảng ấy.
Nếu chúng ta đặt công việc của
chúng ta lên hàng đầu trước cả gia đình chúng ta, thì những bài đọc hôm nay mời
gọi chúng ta sửa chữa lại tình trạng ấy.
Nếu chúng ta đặt sự thành công lên
trước tương quan cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa, thì các bài đọc hôm
nay kêu gọi chúng ta thay đổi thái độ đó.
Tại Tu
viện Westminster ở Luân Đôn, có một nhà nguyện nhỏ tên là "nhà nguyện
thánh Grêgôriô". Nhà nguyện này được xây lên để tưởng niệm những người dân
Luân Đôn bị mất mạng vì máy bay oanh tạc thời đệ nhị thế chiến. Trong nhà
nguyện có bốn cuốn sách lớn, trong đó có ghi tên 6.000 tên các nạn nhân cuộc
không kích đó. Một cuốn mở ra và trên trang sách lấp lánh ánh sáng có ghi một
số tên nạn nhân. Mỗi ngày người ta giở ra một trang để phơi ra một số những tên
mới. Khi bạn nhìn và đọc cột tên dài ấy, bạn không sao biết được người có tên
mà bạn đọc thấy nghèo hay giầu, da đen, da trắng hay da nâu, là Kitô hữu, là Do
Thái hay là vô thần, gìa hay trẻ, đẹp hay xấu.
Lúc đó
không còn có một khác biệt nào nữa. Lúc đó tất cả những gì xẩy ra đều tùy thuộc
vào bản chất con người mà mỗi người tạo ra cho mình còn sống trên dương thế.
Câu chuyện của Cordell Brown và
câu chuyện nhà nguyện Thánh Grêgoriô của Tu viện Westmister khiến chúng ta tự
hỏi: chúng ta phải làm gì nếu chúng ta thấy mình đã không sống đúng như cách
chúng ta phải sống? chúng ta phải làm gì nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta
không chuẩn bị ngày giờ chết, hay chuẩn bị cho ngày Đức Giêsu tái lâm bất chấp
ngày nào đến trước?
Dĩ nhiên câu trả lời là: chúng ta
phải làm đúng những gì Gioan Tẩy Gỉa đã đề nghị cho dân chúng thời ông làm.
Chúng ta phải sám hối, phải xin Thiên Chúa tha thứ những lỗi lầm của chúng ta.
Chúng ta phải cải tà qui chánh và phải bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là tất cả
những gì Mùa vọng muốn nói đến. Đó là thời gian để chúng ta kiểm tra lại đời
sống của mình và làm tất cả những thay đổi cần thiết trong đời sống.
Điều này
đem chúng ta trở lại với câu chuyện đáng ghi nhớ của Cordell Brown và câu hỏi được
nêu ra trong câu chuyện. Anh có thể nói gì với các siêu minh tinh như Steve
Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới đau
khổ tật nguyền của anh? và Cordell phải nói gì với bạn và tôi?
Cordell đã
trả lời câu hỏi đó một cách duyên dáng:
"Bạn
có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi
này giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, ngày đó bạn sẽ
chẳng khác gì tôi chút nào. Đó là lúc mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi
không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng điều duy nhất tôi
chắc chắn là: các bạn cần cái tôi đang có, và đó chính là Đức Giêsu Kitô".
Để kết thúc, chúng ta hãy thưởng
thức một bài thơ cổ, nói về cuộc đời này chóng qua thế nào và điều gì quan
trọng vào giây phút cuối cùng:
- "Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc, thì
lúc đó thấy thời gian bò tới.
- "Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn, thì
thấy thời gian đi bộ.
- "Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững
chặc, thì thấy thời gian chạy.
- "Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, thì
thấy thời gian bay.
- "Chẳng bao lâu nữa là tôi chết, lúc đó thời gian
đã đi mất.
"Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái
chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa.
19. Chú giải theo Fiches Dominicales
LỜI TỰA TIN MỪNG MÁCCÔ:
TỪ GIOAN TẨY GIẢ ĐẾN ĐỨC GIÊSU
TỪ GIOAN TẨY GIẢ ĐẾN ĐỨC GIÊSU
I. VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một lịch sử mới bắt đầu
Tin Mừng thánh Maccô hôm nay bắt
đầu bằng một câu không có động từ, gồm một ít tiếng được chọn lọc kỹ càng, mỗi
chữ đều rất nặng nghĩa: tác giả đã cho thấy rõ trọng tâm sứ điệp của Đức Kitô
và phác hoạ cho độc giả con đường đức tin.
Đó là sự "Khởi đầu”,
J.Hervieux lưu ý: "Trong Kinh Thánh, sách Sáng Thế và nhiều sách khác đã
bắt đầu như thế. Chắc hẳn Thánh sử muốn gợi lên rằng Đức Giêsu sẽ mở đầu một lịch
sử thánh mới, một tạo dựng mới ("Tin Mừng thánh Maccô", Centurion,
tr. 15).
Đó là sự khởi đầu của "Tin
Mừng” (tiếng Hy Lạp: Evangile). Điều mà tiên tri Isaia đã loan báo (bài đọc 1
của Chúa nhật này) - tức "Tin Mừng” do sáng kiến của Thiên Chúa vì lợi ích
cho dân Ngài - đã hoàn tất, mặc lấy xác phàm trong lịch sử loài người.
· Đó là khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Đấng đã giảng
dạy Tin Mừng này trước khi trở thành đối tượng của Tin Mừng sau khi Ngài sống
lại. Hơn là một cuốn sách, hơn là một sứ điệp mừng vui, Tin Mừng này chính là
Đức Giêsu.
·
Thánh sử Maccô đã mặc khải về Đức Giêsu bằng hai danh
hiệu đầy ý nghĩa: "Kitô", "Con Thiên Chúa".
X "Kitô": từ mà
ngày nay chúng ta không còn hiểu hết ý nghĩa nguyên thủy của nó.
M.E. Boismard lưu ý: "Lẽ ra
phải đặt một dấu phẩy giữa hai từ GIÊSU và KITÔ để nhấn mạnh từ thứ hai là một
danh hiệu đặt cho Đức Giêsu, đó là một danh hiệu hoàng tộc.
Từ "Kitô”, chuyển âm từ
"Christos" của tiếng Hy Lạp. "Christos" dùng để dịch động
từ "Meshiah" của tiếng Do thái có nghiã là "xức dầu". Động
từ Do thái này cũng biến thành "Messias" trong tiếng Hy lạp. Bởi vậy,
"Kitô" có nghĩa tương tự như “ Mêsia” để chỉ người được Thiên Chúa
xức dầu, bằng dầu đã được hiến thánh.
Do đó, trong số những người được
thánh hiến bằng dầu thánh, các vì vua mà Thiên Chúa chọn dẫn dắt dân Người
chiêm một vị trí chính yếu và sau này người được xức dầu thánh chỉ còn dùng để
chỉ các vì vua mà thôi.
Như vậy, nghĩa đầu tiên của từ
"Kitô" có ý nói Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu để làm vua
dân Người.
Đàng khác, chúng ta sẽ thấy cảnh
Đức Giêsu chiu phép rửa (1,9-11), được Maccô trình bày như là một sự đăng quang
làm vua vậy. ("Giêsu, người Nagiarét”, Cerf, 1996, tr. 14-16).
X "Con
Thiên Chúa”: vào thời Đức Giêsu, danh hiệu này được gán cho Đấng
Mêsia. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa che chở cách riêng Đấng Người nhận làm
con, và giữa họ có mối dây liên hệ đặc biệt. Nhưng đối với các môn đệ, họ cần
thời gian để nhân ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong mối tương quan có một
không hai; trong Người, chính Thiên Chúa đến với nhân loại. Các ông chỉ cỏ thể
nhận ra điều này sau ngày Chúa phục sinh nhờ Thánh Linh ban ơn trong ngày lễ
Ngũ Tuần.
X KITÔ, CON
THIÊN CHÚA: hai danh hiệu trả lời trước cho câu hỏi luôn vang lên
trong suốt 8 chương đầu của Tin Mừng thứ hai: "Người này là ai?”. Hai danh
hiệu đã phân chia hai phần lớn của Tin Mừng này:
Phần đầu dẫn chúng ta đến lời
tuyên xưng đức tin của Phêrô: Ngài là Đấng Kitô" (8, 29...).
- Phần thứ hai dẫn ta đến sự hiệp thông với niềm tin
của viên sĩ quan Rôma được chứng kiến cái chết của Chúa, đã tuyên xưng:
"người này thật là Con Thiên Chúa" (15,39).
- Benoit Standaert kết luận: "Phúc Âm hay Tin
Mừng, chính là Đức Giêsu và với Ngài, thời đại mới bắt đầu, màn trời xé ra,
Thánh Thần ngự xuống, và quyền năng Thiên Chúa thiên trung quyền lực sự dữ...
Ngay những từ đầu tiên của Maccô đã là sự khai mở, từ đó xuất hiện một danh
hiệu mới, một sự hiện diện mới: Đức Giêsu, Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Maccô đã
nói quá đủ! Ngài chẳng còn gì để nói với chúng ta nữa. (“Tin Mừng theo thánh
Maccô”, chú giải, Cerf, tr.41).
2. "Khúc dạo đầu” cho một màn kịch khác
Ngay sau danh xưng đầy ý nghĩa
trên về Đức Kitô, không một lời chuyển tiếp, thánh sử cho Gioan Tẩy Giả xuất
hiện: "Và Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong hoang địa". Ở ngay phần
đầu, đã có những trích dẫn Thánh Kinh (Xuất Hành 23,20; Mal 3,1 và 23; Is
40,3); điều đó hàm ý ghi tên Gioan Tẩy Giả vào truyền thống ngôn sứ và giới
thiệu ông như "sứ giả" được Thiên Chúa sai đến "để dọn đường,
như người sẽ mở đường cho Thiên Chúa đến, qua Đấng Mêsia của Ngài.
Nơi Gioan Tẩy giả thi hành sứ mệnh
là "hoang địa", là nơi của Xuất Hành, là nơi vừa để chịu thử thách
vừa để được mặc khối tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa, đồng thời là nơi tượng
trưng cho mọi khởi đầu. Và chính vì thế, Gioan "Kêu gọi người ta chịu phép
rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Bên giòng nước sông
"Giócđanô" nơi dân Chúa đã băng qua để vào đất hứa, lời ông vang dội
"khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem". Một cách nói của thánh sử để
cho ta hay là tiếng gọi của con người sa mạc nay gởi đến tất cả mọi người.
Y phục ông làm ta ngạc nhiên. Y
phục ấy mang ý nghĩa tượng trưng vì đó cũng là y phục của ngôn sứ Êlia. Sách
Các Vua viết: “Ngài mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da" (1V
17,1-6; 9,5-8). Đó là cách thánh sử trình bày Gioan Tẩy Giả như một ngôn sứ
Êlia, Đấng mà thời Đức Giêsu người ta tin là phải đến trước Đấng Mêsia.
Cách sống của ông rất khắc khổ,
trái hẳn với cách sống của Đức Giêsu. J.Hervieux nhận xét: ‘Người không ăn bận
khác thường không ăn chay, Người uống rượu và ăn thịt. Thay vì ở trong hoang
địa như Gioan, Người sống trong đời thường, giữa quần chúng’ (sách đã dẫn,
tr.19).
Công việc của Gioan là mở đầu thời
đại mới: "Khởi đầu Tin Mừng”, và chỉ cho thấy Đấng mà Ngài có bổn phận
loan báo rằng: Người đến, rồi tức khắc Gioan rút lui. ‘Đấng đến sau tôi’ – ông
tuyên bố cách ngược đời, - bởi lẽ đi đằng sau ai, điều đó có nghĩa làm môn đệ
của người ấy – ‘Người quyền phép hơn tôi, tôi không xứng cúi xuống cởi dây giày
cho Người’. Chẳng những Gioan tuyên bố không xứng làm môn đệ của Đấng đến sau
ông, mà còn cho mình không xứng làm tôi tớ của Người. Ông khẳng định rõ ràng:
Phép rửa của Đức Giêsu vượt trên phép rửa của ông: "Tôi đã làm phép rửa
cho anh em trong nước, phần Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh
Thần”.
J. Hervieux kết luận: Sứ điệp rất
rõ ràng: Gioan tự giới thiệu như là kẻ đến trước Đức Giêsu. Ông đi trước “Đấng
quyền năng" hơn ông. Ông ý thức về sự thấp kém của mình. Ông phải tự hạ
trước Đức Giêsu như tôi tớ trước chủ, đến nỗi không xứng cởi dây giày cho Chúa!
Sau cùng và nhất là sự khác biệt chính được công nhận giữa phép rửa của Gioan
và phép rửa của Đức Giêsu. Gioan đã làm phép rửa trong nước. Đức Giêsu thì làm
phép rửa trong Thánh Thần. Cái độc đáo của Đấng Mêsia khi so sánh với vị tiền
hô của Người, là Người nắm giữ Thần Khí (xem 1,10). Với ơn Thánh Thần mà Người
sẽ ban sau khi phục sinh, Đức Giêsu đem đến ơn tha tội một cách dứt khoát (Cv
2,38).
Vì thế ngay từ trang đầu của Tin
Mừng, Maccô đã đặt Gioan Tẩy Giả, sứ mệnh và phép rửa của ông vào đúng chỗ của
nó. Tất cả chỉ là để loan báo và để dọn đường cho Đấng Mêsia đến. Phần sau sẽ
soi sáng mối liên hệ họ hàng mật thiết giữa Gioan và Đức Giêsu, cũng như sự
khác biệt sâu xa giữa hai con người này (Sách đã dẫn, tr. 19)
II. BÀI ĐỌC
THÊM
1. Đáp lại lời mời gọi của Gioan, chúng ta hãy chuẩn
bị đón nhận Đức Giêsu. (Mgr. L.
Daloz trong: “Ngài là ai”, Declée de Brouwer, tr. 10)
"Lời công bố của Gioan Tẩy
Giả như khúc dạo đầu mở màn cho Đức Giêsu, Đấng Mêsia xuất hiện. Đức Giêsu có
mặt giữa những người đáp lại lời mời gọi của Gioan nơi hoang địa. Nhưng ý nghĩa
của việc Chúa đến được giải thích bằng những lời của tiên tri Isaia: "Hãy
dọn đường cho Chúa...".
Trước khi Đức Giêsu xuất hiện, một
sứ giả đã được phái đến để loan báo dọn đường cho Người. Người ta không thể đón
nhận Đức Giêsu nết không có chuẩn bị trước. Người đến với những ai chấp nhận đi
vào con đường hoán cải bằng cách xưng thú tội mình, chấp nhận sự đổi mới của
phép rửa thống hối. Nhờ thế, chúng ta biết thêm sự cao trọng của Đấng sẽ đến.
Ngài là "Đấng quyền năng hơn...", và sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh
Thần. Đây là một thái độ đón nhận, chú tâm, một thái độ hoán cải cần có để
chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Ngài là người đơn sơ và nghèo khó, người anh em của
chúng ta. Nhưng đằng sau dáng vẻ bề ngoài ấy, chúng ta được mời gọi tìm hiểu
mầu nhiệm của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa.
2. “Đức tin, sức mạnh đổi mới” (Mgr. Cl. Dagens trong: “Trình bày đức tin trong xã
hội hôm nay”, Cerf, tr. 39-41).
Đánh giá những biến đổi đang diễn
ra trong cách sống đạo của những cộng đoàn Kitô giáo không phải nhằm làm một
bản tổng kết, nhưng là để nhìn nhận sức mạnh đổi mới do Chúa ban và được thể
hiện nhờ việc chúng ta sống đức tin.
- Chúng ta có thể bắt đầu từ sự
kiện mới mẻ sau đây: đó là sự đón tiếp và tháp tùng những tân tòng trưởng thành
hay những trẻ em chưa được rửa tội học các lớp giáo lý do những bạn bè có đạo
dẫn dắt. Con số những người theo học giáo lý như vậy gia tăng không ngừng. Tại
sao đức tin nơi nhưng tín hữu đạo gốc lại được đổi mới nhờ những cuộc gặp gỡ
này? Thưa bởi vì họ thường đồng hóa Tin Mừng với cách nhìn đời của họ, và vì họ
thường có thói quen chỉ giữ lại những gì trong Tin Mừng củng cố lý tưởng nhân
loại của mình. Chỉ khi va chạm với những người không thuộc nền "văn hóa
công giáo", họ mới thẩm định lại sự mới mẻ nơi Mạc khải của Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Kitô và sức đổi thay của Tin Mừng. Cũng nhờ đó, họ phát hiện
lại sự phong phú của truyền thống phụng vụ và tâm linh trong Kitô giáo, cũng
như niềm vui được thuộc về Giáo Hội như một gia đình mới. Gia đình này không
tuân theo những luật lệ của xác thịt nhưng tuân theo lời mời gọi của Thánh
Thần.
Đó là cách chúng ta phải suy gẫm
về những gì đã xảy ra bởi vì Lời Chúa mà các tân tòng khám phá cũng chính là
Lời mà chúng ta phải đón nhận và loan báo. Chúng ta không thể phủ nhận cú sốc
về niềm tin do hiện tượng trở lại này. Vả lại, cần phải tìm hiểu sâu xa hơn để
nhận ra rằng sự kiện tân tòng trở lại, một hiện tượng mới mẻ, biểu lộ sự tìm
kiếm đời sống tâm linh của rất nhiều người đương thời. Trong bối cảnh này,
trình bày đức tin Kitô giáo không thể là một việc duy ý chí, nhưng chúng ta
phải dấn thân vào công cuộc tìm kiếm này, hiểu biết nó, phân định những lời mời
gọi, những cám dỗ và cả những ảo tưởng của nó nữa. Bằng những phương tiện của
mình, chúng ta cũng cần khắc ghi vào đấy Mạc Khải về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã
nói với mọi người: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tương tự như vậy, chúng ta cũng
nên nói đến mục vụ cho trẻ em và thanh thiếu niên. Cần phải có những thái độ sư
phạm phù hợp và xác định đâu là vai trò và thẩm quyền của chứng nhân trong việc
truyền giảng đức tin trong bối cảnh có sự “đứt đoạn với các truyền thống hiện
nay.
Ngay cả ở đây nữa, điều chúng ta
cần thực hiện không chỉ là so sánh những ý kiến khác nhau về mục vụ hay giáo
dục, nhưng là hiểu biết sự phong phú của niềm tin vào Đức Kitô trong việc khai
tâm đức tin cho thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng có thể đề cập đến
những phương tiện mục vụ đang được cải tiến trong Giáo Hội Pháp.
Sau cùng, chúng ta có thể chứng tỏ
niềm tin vào Đức Kitô đã gợi lên và cổ xúy cuộc đấu tranh cho quyền con người
thế nào, và nói rõ hơn, niềm tin ấy làm thế nào đã giúp hòa hợp được giữa đấu
tranh và chiêm niệm, giữa đời sống tâm linh và dấn thân trong xã hội. Ở đây,
những tương quan mâu thuẫn giữa những người bề ngoài như xa cách nhau có thể
nói không còn tồn tại: Chiến sĩ công giáo tiến hành, linh mục thợ, thành viên
của những công đoàn mới, hoặc đan sĩ nam nữ. Dĩ nhiên, nói vậy không có nghiã
là xóa bỏ những khác biệt có thực trong những hình thức dấn thân. Nhưng xét đến
động cơ sâu xa của sự dấn thân, chúng ta sẽ nhận ra những đòi hỏi như nhau:
không thể sống với Đức Kitô trong thân phận tôi tớ của người mà không sống với
những anh em bị xã hội loại trừ; cũng vậy, không thể sống dài lâu với những anh
em bị xã hội loại trừ mà không tìm kiếm gặp gỡ Đức Kitô trong chiêm niệm. Nỗi
đam mê phục vụ nhân loại hiện rõ đằng sau sự khác biệt về cách sống đức tin.
Do đó, chúng ta có thể trình bày
đức tin Kitô giáo như một sức mạnh hoán cải và biến đổi thực sự cho cá nhân
cũng như cho xã hội. Bởi vì, trong thực hành của Giáo hội, tin và sống đức tin
giúp luôn có những sáng kiến và những đổi mới trong vô số lãnh vực.