Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.
Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG - B
Lời Chúa: Is 61,1-2a.10-11; 1Tx 5,16-24; Ga 1,6-8.19-28
MỤC LỤC
1. Gioan Tiền Hô
Sống dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái
luôn trông chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã mượn nỗi khắc
khoải của cha ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn
mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất hiện bên bờ sông Giođan,
họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái đoàn đến để tìm hiểu cho cặn
kẽ và thấu đáo. Những người này đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông có phải là Đức
Kitô hay không. Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế,
nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi trước để dọn đường cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì
Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông không để cho người ta
chú ý tới ông mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Kitô: Ngài cần
phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Qua sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta rút ra hai
điểm thực hành. Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống. Thực vậy,
Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế nữa Ngài
còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày sau hết
của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi ngày qua
bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối dài. Và
trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của Gioan Tiền
Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải chỉ là hối
tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn sửa đổi để
nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Điểm thứ hai, đó là hãy trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô
hữu, chúng ta không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải
đem Chúa đến cho người khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà
thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn
người khác. Muốn được như thế, chúng ta cần phải có một đời sống đạo đức và
thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá
được những người chung quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.
Dọn đường Chúa đến trong tâm hồn mình và giúp người
khác dọn đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần phải làm ngay
trong mùa Vọng này.
2. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta
Guy Morin
Đây là thời gian của những
chứng nhân
Môi trường chúng ta đang sống hầu như hoàn toàn thiếu
vắng những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người ta loại khỏi các cơ sở
những gì nhắc đến niềm tin Kitô. Không còn ảnh thánh giá trong các bệnh viện và
trường học nữa; Lời chứng long trọng thay thế cho lời tuyên thệ; Hôn nhân dân
sự đẩy lùi hôn nhân tôn giáo. Người ta không còn khả năng đưa ra những dấu chỉ
này nữa: Nhiều trẻ em không biết làm dấu Thánh giá và việc dậy giáo lý làm cho
nhiều nhà giáo phải lúng túng.
Dĩ nhiên các thành phố của chúng ta đầy dẫy nhà thờ
và chuông còn reo vang. Ở thôn quê, đó đây người ta nhìn thấy những thập giá
trên nóc thánh đường và những hang Đức Mẹ. Tuy nhiên xã hội chúng ta sống và
được xây dựng như thể Thiên Chúa đã không hề lên tiếng nói với con người, như
thể Ngài câm lặng và vắng mặt.
Chúng ta tin rằng Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử
loài người chúng ta, nhưng bằng một sự hiện diện kín đáo và vô hình. Sự kín đáo
của Thiên Chúa đòi hỏi phải có những chứng nhân. Thiên Chúa cần những chứng
nhân trong thế giới này, nơi mà xem ra Ngài vắng bóng và sự hiện diện của Ngài
thật kín đáo.
Gioan Tẩy Giả, vị chứng
nhân gương mẫu
Chính kinh nghiệm bản thân làm nên chứng nhân. Gioan
Tẩy Giả kể lại cho chúng ta kinh nghiệm của ông: “Tôi không biết Ngài, nhưng
Đấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước, chính Đấng ấy đã nói với tôi: Ngươi
thấy Thánh Thần đậu xuống trên ai thì chính đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh
Thần. Và tôi đã thấy và làm chứng rằng Ngài là Con Thiên Chúa”. Chứng tá của
Gioan dựa trên mặc khải của Thiên Chúa sau này được chứng thực trong một sự
kiện mà ông đã thấy. Thánh Thần xuống trên Chúa Giêsu.
Từ kinh nghiệm bản thân này Gioan sẽ làm chứng về
Chúa Giêsu bằng lời nói và việc làm. Việc rao giảng của ông gây xôn xao tại Israel: Người
ta luôn đến nghe ông giảng và ông ban phép rửa thống hối. Vì ông là con vị
thượng tế, tức là một nhân vật quan trọng, nên các chức trách tôn giáo đã được
báo động và họ làm một cuộc điều tra: Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa? Ông
tuyên bố: “Ở giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết”.
Chứng nhân hoàn toàn hướng về một Đấng khác mà mình
chỉ là tôi tớ khiêm tốn mà thôi. Gioan tuyên bố mình không đáng cởi dép cho
Ngài, tức là làm công việc của một nô lệ.
Kinh nghiệm bản thân, dũng cảm trong lời nói và trong
hành động, xóa mình đi, ba đức tính này của chứng nhân, Gioan Tẩy Giả đều có ở
mức độ cao.
Người ta đòi hỏi những
chứng nhân
Các giám mục của chúng ta viết: “Kitô hữu có khuynh
hướng khép kín về lãnh vực tôn giáo riêng tư nơi gia đình, ở học đường và trong
phụng vụ. Họ thoải mái khi ở phòng thánh hơn là ngoài đường phố”.
Đây là một cách nói: Người ta đòi hỏi phải có những
người làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô! Chúng ta phải làm gì đây? Mang kèn trống
và biểu ngữ diễu hành ngoài đường chăng? Treo vào xe hơi của chúng ta một tấm
bảng để tên Giêsu ư? Làm áp lực để tại học đường người ta treo ảnh thánh giá và
cho đọc kinh ư? Hoặc là cho Giáo Hội nhiều ảnh hưởng hơn?
Những hành động này không xấu nhưng vẫn còn hời hợt
và có nguy cơ áp đặt niềm tin của chúng ta trên kẻ khác.
Ngày nay chúng ta được mời gọi đào sâu kinh nghiệm
của mình về Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô trong Tin Mừng. Nhờ đó, chúng ta sẽ
trở nên vừa cởi mở đối với những kẻ cảm thấy mình xa Giáo Hội vừa phê phán đối
với những bất công và những điều vô nhân đạo của xã hội chúng ta.
Xin thánh Gioan Tẩy Giả cảm hứng cho chúng ta trở
thành những chứng nhân của Chúa Giêsu và những kẻ phản chiếu ánh sáng của Ngài.
3. Chứng Nhân Của Ánh Sáng
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh
sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có
một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường.
Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết.
Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng
tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân
của Đức Ki-tô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Ki-tô bằng chính cuộc đời trong
sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là
làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài.
Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không
phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình
chỉ là một "tiếng kêu trong sa mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài
không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức
khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho
lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo
đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là
làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong
sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự
hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện
sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh
thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ
loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn
chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị
trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai.
Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý
nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón
chính là Đức Giêsu Ki-tô mà ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng
của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài
không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận
những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình,
nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung
thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua
Hê-rô-đê không được phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá
bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời
chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là
Sự Thật, là chính Đức Giêsu Ki-tô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng
của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình
đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở
đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm
chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được
trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình,
nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: "Người đến sau
tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga 1,27). Nhiều môn đệ
đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy
đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã
hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ
đi" (Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt
hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn
mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ
mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài
thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa
muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn
tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa,
tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ
lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu
bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương
của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong
sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
4. Người làm chứng
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được
dùng đến bốn lần.
Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để
làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng
là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).
Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ
ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin
vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm
của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm
hiểu con người ông.
Khi được hỏi lần thứ nhất:
Ông là ai?
Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi
không phải là Đức Kitô" - "Không phải" - "Không".
Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.
Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông.
Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê.
Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che
khuất.
Lần thứ hai được hỏi: Ông
là ai?
Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang
địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.
Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau
lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không
đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không
xứng.
Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy
tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị
cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.
Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức
Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga
3,26).
Có ai siêu thoát như Gioan?
Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì
mình đã hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ
lại" (Ga 3,30).
Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.
"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người. Con
người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã
đến từ hơn 2000 năm.
Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho
bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.
Gợi ý chia sẻ
· Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể
thao... Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức
Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?
· Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt
lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?
Cầu nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả
của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi
cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu
trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ
muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó
tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
5. Một nhân chứng dấn thân
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Để hiểu rõ đoạn mở đầu Phúc Âm theo thánh Gioan,
chúng ta cần nhớ lại bầu khí mong đợi bao trùm sinh hoạt dân Do Thái khoảng
thập niên 30. Một số những nhà lãnh đạo và nhất là khối dân chúng nóng nảy
trông đợi Đấng Cứu thế, họ nghĩ rằng Người sẽ ngự đến và trục xuất quân La mã
chiếm đóng đất nước họ, rồi tổ chức Israel thành vương quốc lý tưởng. Chính
trong bầu khí đó, Gioan Tẩy giả xuất hiện. Sứ điệp của ông không phù hợp với ý
niệm người Do Thái vốn có về Đấng Cứu Thế, tuy vậy ông vẫn là một trường hợp
gây bối rối: ông lôi cuốn những đám đông, từ con người ông tỏa ra một sức mạnh
tinh thần, ông thành vấn đề cho nhà đương cuộc, thuộc giới lãnh đạo dân tộc,
những người biệt phái muốn biết rõ. Họ thắc mắc: không hiểu ông Gioan này,
thường vẫn rửa tội cho dân chúng.
Ông là ai?
Họ cử phái đoàn chính thức gồm những tư tế và phó tế
đến gặp ông với nhiệm vụ điều tra lý lịch và ý nghĩa hoạt động của ông. Họ đặt
ba câu hỏi phù hợp với luồng tư tưởng đương thời. Gioan có phải là Đấng Cứu thế
không? Phải chăng ông là Elia, người đi trước Đấng Cứu thế, như mọi người
thường nghĩ?
Ông có phải là Ngôn sứ không?
nghĩa là ông có phục hồi những thời kỳ sấm ngôn, khi
mà từ lâu rồi chẳng còn thấy các ngôn sứ nữa? Gioan trả lời một cách hơi khó
hiểu, tuy nhiên câu đáp của ông lại là minh bạch đối với những ai muốn hiểu
biết “Tôi là tiền hô của Đấng Cứu thế”. Một chi tiết: tuy ông nhận là kẻ đi
trước Đấng Cứu thế, nhưng không nhận là Elia, vì lẽ ông tách rời con người Elia
và sứ mạng người ta gán cho Elia là loan báo Đấng Cứu thế xuất hiện, sứ mạng
này được Gioan hoàn tất tuy không phải vì thế mà ông là Elia. Cho nên ông có
thể trả lời: ông không phải là Elia, mà vẫn khẳng định ông là kẻ tiền hô. Chúng
ta ghi nhận tầm quan trọng thánh chép sử đặt cho lời chứng.
1) Ông đến như một nhân
chứng, để làm chứng cho ánh sáng. Đức tin của chúng ta ngày nay đặt nền móng trên 1
chứng từ. Nếu nhặt riêng ra từng chứng từ một thì chứng từ không có cùng 1 sức
mạnh nhưng tập họp lại thì trở nên một lớp đất mầu đặc biệt phì nhiêu, trên đó
trổi lên và tăng trưởng cây đại thụ Giáo Hội. Chứng từ của Gioan Tẩy giả ở vào
khoảnh khắc bản lề, 1 khoảnh khắc trọng đại trong lịch sử dân Chúa. Gioan là vị
Ngôn sứ cuối cùng vì tuy sống thời Cựu Ước, nhưng loan báo về Đấng Cứu thế. Ông
cũng là nhân chứng vì khi sứ mạng kết thúc, ông nhìn thấy Đấng Cứu thế và tuyên
cáo Người đã ngự đến. Sức mạnh của lời chứng của ông là ở cung cách ông đáp ứng
đích thật đối với nhiệm vụ Chúa trao cho ông. Người ta hình dung dễ dàng quang
cảnh một số người Do Thái khi họ thấy ông, nghe ông giảng dạy. Có thể họ đã
nhận xét ông bằng thứ ngôn ngữ dân gian đậm chất thân mật: ông này đúng là 1
ngôn sứ “thứ thiệt” đây. Chúng ta giữ lại để suy niệm câu hỏi sau: phải chăng
lời chứng của chúng ta về Đức Kitô căn cứ trên sự tiên quyết này, là chúng ta
làm chứng về Người không phải vì đã tận mắt thấy Chúa, mà chỉ vì đã gặp Người
trong thâm tâm chúng ta?
2) Gioan Tẩy giả được trình
bày như một nhân chứng cho ánh sáng. Chủ đề ánh sáng bàng bạc khắp Phúc âm theo thánh
chép sử Gioan. Ngay ở phần nhập, chủ đề đã đặt câu hỏi nghiêm trọng về sự đón
tiếp con người dành cho sự thật. Óc thông minh con người được cấu tạo để hiểu
biết chân lý, cho nên có khả năng hoặc tiếp nhận hoặc xua đuổi chân lý. Chúng
ta nên nhớ, vấn đề này không chỉ là 1 vấn đề trí thức. Con người tiếp nhận sự
thật bằng toàn bộ thể xác và tâm linh. Điều này dẫn đưa con người vào đường dấn
thân. Tiếp nhận đức tin là dấn thân vì đức tin. Chừng nào đến lượt mình chúng
ta cũng sẽ là những người làm chứng cho ánh sáng nếu chúng ta vì tin mà thừa
nhận, gắn bó, chứ không phải chỉ vì hiểu biết, nếu chúng ta dùng cả cuộc đời để
nghênh đón Chúa.
6. Kitô hữu, bạn là ai?
(Trích
trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Trên đường đi, cảnh sát
giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân
dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là
cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại
không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của
tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông
không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi
và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu
hành.
Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên
bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến
nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn
đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã
không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa
chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân,
ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây
làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không
biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy
Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc
đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc
khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho
con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm
vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa
đến.
Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình:
Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai?
Ông nói gì về chính mình?”
Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình
giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn
đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta,
về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta
còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến
hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông
Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người
cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin
Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta
cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng
chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải
loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.
Kitô hữu là ai?
Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ,
thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích
một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích
một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu
mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta,
Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang
sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là
động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó
là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc
lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm,
loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn
còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng
đoàn Taizé, cha Pierre
của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân
Gioan Tẩy Giả.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con
người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ
nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ
nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa
của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta
cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức
Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và
hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng
ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.
Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô,
phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có
thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải
trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được
Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh,
một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với
Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận
ơn cứu độ của Ngài.
7. Niềm Vui
GM Bart. Nguyễn Sơn Lâm
"Hãy vui lên, hỡi anh em, hãy vui lên! Hãy cảm
tạ Thiên Chúa trong mọi sự, vì đó là thánh ý Người về tất cả anh em trong Đức
Kitô. Anh em đứng dập tắt tác động của Thánh Thần" (1Thes 5,16-17). Lời
thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại
công bố với chúng ta trong ngày Chúa nhật thứ III mùa Vọng này.
Trong lúc chờ đợi Đức Kitô đến, chúng ta phải tỉnh
thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chính tiếng Người đem lại niềm vui cho
ta, như Gioan Tẩy giả đã làm chứng, khi ông nói về vai trò tiền hô của mình đối
với Đấng Cứu thế.
"Niềm vui của tôi là được nghe tiếng Ngài. Niềm
vui của tôi đã sung mãn. Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ dần đi"
(Gioan 3,29-30)
1. Giáo Hội Kêu Gọi Chúng Ta Vui Lên. Nhưng Thế Nào Là Vui?
Theo kinh nghiệm thông thường, vui là khi một ước
vọng của ta được toại nguyện; khi ta thành công trong một nỗ lực hoặc một dự
tính; khi quyền lợi của ta bị tước đoạt mà nay được phục hồi; và vui nhất là
khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng. Tắt một
lời, ta vui khi lòng ta đang trống mà được lấp đầy.
2. Niềm Vui, Theo Nghĩa Thánh Kinh, Chính Trị Là Trạng Thái
Của Con Người Được Thiên Chúa Đổ Đầy Thánh Thần
Bài sách Isaia hôm nay (Is 61,1-2a.10-11) phác họa
cho ta hình ảnh Đấng Thiên Sai được Thánh Thần xức cho dầu hoan lạc:
"Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi... Ngài sai tôi công bố năm hồng ân
của Thiên Chúa".
Năm hồng ân trong Cựu Ước - mà Năm Thánh là điệp ảnh
- quả là một sáng kiến độc đáo Thiên Chúa đề ra cho Dân Ngài. Nó là khoảng thời
gian đặc biệt nhắc cho mọi người nhớ rằng: tất cả những gì mình có đều là do
Thiên Chúa ban, và mọi người phải nghĩ đến quyền lợi của kẻ khác: bởi vì mọi
người đều có quyền sống tự do và hưởng dùng tài nguyên trên mặt đất. Năm hồng
ân làm nổi bật, nguyên tắc công bằng và quyền bình đẳng của mọi người trước mặt
Thiên Chúa (Lêvi 25,1-55).
Mở đầu cuộc đời công khai, Đức Giêsu đã đọc cho mọi
người nghe đoạn sách Isaia trên đây trong hội đường Nadarét. Và Ngài kết luận:
"Hôm nay, đoạn sách thánh ấy đã thực sự ứng nghiệm cho anh em" (Lc
4,16-21). Và như thế, Ngài nhận lấy sứ mạng "loan báo Tin Mừng cho những
người nghèo khổ, băng bó vết thương cho những tấm lòng tan nát, công bố ân xá
cho những kẻ bị tù đày, trả tự do cho những người bị áp bức" (Is 61,1-2;
cf Lc 4,18-19).
Đó là những quyền căn bản của con người: quyền được
sống xứng đáng với nhân phẩm của mình và được tôn trọng, quyền được hưởng niềm
vui làm người tự do và bình đẳng. Nhưng hơn thế nữa, sứ mạng cứu thế của Đức
Giêsu Kitô còn nhằm biến đổi mọi người trở thành con cái Thiên Chúa. Điều quan
trọng hơn cả trong Tin Mừng Ngài mang đến cho chúng ta là Thiên Chúa muốn sống
giữa loài người liên đới với nhau như một cộng đoàn hợp nhất, thánh thiện và
hòa bình. Sứ điệp đó thúc đẩy chúng ta nỗ lực xây dựng Nước Trời trong một xã
hội công bình và huynh đệ, ở đó mọi thành phần đều được Thần Khí thánh hóa và
quy tụ quanh Đức Giêsu Kitô, để cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha (Gal 3,16; Rm
8,14-17). Bài sách Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ khoác cho dân Ngài một áo
choàng công chính và cứu độ (Is 61,10) mà thánh Phaolô họa lại bằng lời nguyện
cầu "xin Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em" (1Thes 5,23).
Niềm vui Đức Giêsu Kitô mang tới cho ta, chính là
niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.
3. Sứ Điệp Tin Mừng Là Thế - Sứ Điệp Đấng Thiên Sai Là Thế
Nhưng người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để nhận
được niềm vui đó? Thánh Phaolô trả lời: "Anh em đừng dập tắt tác động của
Thánh Linh" (1Thes 5,19) vì chính Thánh Thần làm nảy sinh mọi sự tốt đẹp,
mọi hoa quả nhân đức "bác ái, hoan lạc, bình an, cao thượng, tận tâm, nhân
từ, tín thác, hiền lành, tự chủ" (Gal 5,22-23), và "đâu có Thánh
Thần, đấy có tự do" (2Cr 3,7). Đặc điểm của thời đại Đấng Thiên Sai là
Thiên Chúa phủ đầy Thần Khí trên nhân loại, làm cho mọi tâm hồn chan chứa niềm
vui: niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm, được Ngài chúc phúc và ban ơn cứu độ.
Nhưng hạng người được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm
là những người nghèo (xem Lc 2,24). Họ được, Ngài chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3)
và Tin Mừng cũng được loan báo trước tiên cho họ (Lc 4,18). Họ được Thiên Chúa
ban đầy hồng ân, vì lòng họ sẵn sàng và khiêm tốn đón nhận. Những người tiếp
xúc với Đức Giêsu thuở Ngài còn thơ ấu; cũng như khi Ngài hoạt động công khai
đều là những con người nghèo hèn bé mọn của Giavê: Giacaria, Isave, Maria,
Giuse, đám mục đồng, Simêon, Anna, Gioan Tiền hô, nhóm môn đệ và đoàn dân nghèo
theo Ngài để đi giảng. Đó là một xã hội nghèo của Ngài và từ đó phải trở thành
Giáo hội của người nghèo; một Giáo hội nhẹ lòng với của cải trần gian, ít bận
tâm về những điều vật chất, để được thanh thoát và mở rộng tâm hồn đón nhận tác
động của Thần Khí Thiên Chúa biến đổi họ thành những con người tự do.
Hai tâm hồn tiêu biểu nhất trong mùa Vọng là Trinh Nữ
Maria và Gioan Tẩy giả. Họ đều nghèo nhưng cả hai đều tràn đầy Thánh Thần và vì
thế, lòng các ngài chan chứa niềm vui. Riêng niềm vui của Đấng Tiền hô thật là
sung mãn: bởi đã nghe tiếng Chúa Cứu Thế, được làm người dọn đường cho Ngài, để
chỉ Ngài cho thiên hạ thấy, rồi vui vẻ rút lui vào bóng tối; chấp nhận nhỏ dần
đi để Ngài được lớn lên (Ga 3,29-30).
Người Kitô hữu cũng phải mang đầy niềm vui như Gioan
Tiền hô, một niềm vui thâm thúy của con người ý thức trách nhiệm, trung thành
chu toàn sứ mạng, đúng như ơn gọi Thiên Chúa đã dành cho.
Mà ơn gọi và sứ mạng đều phát xuất từ Thiên Chúa.
Nhưng để sống đến cùng những đòi hỏi của ơn gọi mình, người Kitô hữu cũng phải
như Đức Trinh Nữ Maria kết hiệp mật thiết với Đấng Cứu Thế. Bởi vậy, khi kêu
gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng nói thêm: "Anh em hãy cầu nguyện không
ngừng" (1Thes 5,16).
Đó là điều kiện cần thiết mang lại niềm vui sâu xa
cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh Thiên Chúa. Và ai có những lần đã
thực sự cầu nguyện, thì cũng đã cảm nghiệm được niềm vui thiêng liêng, niềm vui
của người Kitô hữu.
BÀI GIẢNG
Thấy Gioan xuất hiện, dân Dothái ngày xưa đã hân hoan
rồi. Nhưng khi nghe Gioan tuyên bố: sắp có Đấng cao trọng hơn ông đến, họ còn
vui mừng hơn nữa. Vì thế, Chúa nhật thứ ba mùa Vọng là Chúa nhật hân hoan vui
mừng.
Chúng ta hãy vui mừng, không phải chỉ vì đang được
nghe lại tiếng kêu của Gioan. Ngày xưa dân Dothái đã hân hoan khi thấy Gioan
xuất hiện. Tên ông đã gợi lên niềm tin rồi, vì Gioan có nghĩa là "Thiên
Chúa đoái thương". Ngài không còn ngoảnh mặt đi nữa, nhưng đã bắt đầu nhìn
lại Dân Ngài, để ra tay cứu độ. Và quả thật, đang có nhiều hy vọng vươn lên.
Người ta tuôn đến nghe Gioan giảng; người ta chen nhau lội xuống nước, thú nhận
tội mình, để được ông rửa cho. Gioan này thật là vị tiên tri vĩ đại. Chúa gửi
người đến cho dân, để sửa soạn gì đây. Dân Chúa cảm thấy phấn khởi vì sự hiện
diện của Gioan Tẩy giả, với phong trào đạo đức mà ông đang khơi động.
Ngày nay chúng ta cũng có thể phần nào vui lên như
thế. Ở trong Giáo hội toàn cầu cũng như ở nơi Giáo hội Việt Nam đang nổi
lên biết bao phong trào đạo đức. Người ta đi lễ nhiều hơn trước, rước lễ đông
hơn trước, say sưa học giáo lý và dường như thấy rõ niềm tin lúc này là nguồn
an ủi sâu xa hơn khi nào khác. Ở nhiều nơi, người ta còn được chứng kiến nhiều
buổi cầu nguyện Thánh Linh nữa. Các phong trào đạo đức đó như đang làm cho bộ
mặt Giáo hội sáng ngời lên, khiến nhiều người có thể hân hoan nghĩ rằng: tất cả
những gì đang xảy ra có thể là cơ hội thanh tẩy Giáo hội và giúp Giáo hội vươn
lên trong sự công chính và thánh thiện thật.
Nhưng cũng như dân Dothái ngày xưa, chúng ta đừng chỉ
vui với chừng ấy. Ngày xưa khi thấy Gioan xuất hiện, dân Chúa như đã muốn vui
luôn trong ánh sáng của người. Nhưng Phúc Âm hôm nay cho ta thấy: Gioan bảo dân
chúng phải nhìn xa hơn nữa. Ông chỉ rửa trong nước thôi; sắp có Đấng đến sau để
rửa dân trong Thánh Thần. Chính Ngài mới là Đấng Kitô Cứu Thế và ông không đáng
cởi dây giày cho Ngài... Chúng ta ngày nay cũng phải cẩn thận, đừng dừng lại ở
những hiện tượng lạc quan như trên đã nói. Phải đi sâu hơn, xa hơn. Phải vượt
qua mọi hình thức, cho dù rất đạo đức, để tìm gặp chính Chúa Kitô. Nhiều người
trong ta có lẽ còn giống nhóm Biệt phái và Dothái. Các nhóm này, ngày xưa, chỉ
muốn dừng lại ở Gioan, ngưỡng mộ ông và coi ông như Cứu Thế. Nhiều Kitô hữu
ngày nay cũng thường chỉ muốn dừng lại ở những cái thấy được, ở các buổi phụng
vụ sốt sắng và các buổi cầu nguyện sầm uất. Học giáo lý để thuộc chứa không để
sống! Rước lễ để sốt sắng trong nhà thờ chứ không để thêm sức sống đạo ở giữa
đời! Hôm nay, phụng vụ của Giáo hội thúc giục ta phải đi xa hơn, vượt qua những
hành vi và tổ chức đạo đức, để gặp Chúa Kitô và sống với Ngài.
Chúa Kitô, theo bài đọc I hôm nay, là sứ giả của
Thiên Chúa sai xuống trần gian. Ngài được xức dầu Thánh Thần, rồi được sai đem
Tin Mừng cho người nghèo khó; và công bố khắp nơi năm hồng ân của Thiên Chúa...
Ngày nay, Chúa cũng đang muốn tìm được những sứ giả như vậy ở giữa chúng ta.
Ngài muốn cho cả Giáo hội của Ngài được xức dầu hoan lạc để luôn luôn công bố
cho mọi người biết Tin Mừng Chúa đến cứu độ trần gian. Ngài muốn cứu mọi người
từ tận căn, tận rễ, từ những người đang nghèo khổ, bất cứ về phương diện nào,
để đời sống trở thành như năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy, tinh thần của ngày Chúa nhật hôm nay, đòi ta
phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu não. Phải đuổi xa mọi tâm tư hắc ám và
buồn nản. Phải giải tỏa mọi nỗi lòng đau khổ và tội lỗi. Xưng tội từ hôm nay để
tham dự vào mầu nhiệm Giáng sinh không phải là quá sớm đâu. Phải như mặc lấy áo
phần rỗi và công chính để hoan hỷ đem tin vui đến cho mọi người.
Và tin vui của Đức Kitô là gì?
Như lời sách Isaia viết: Ngài muốn "đem hân hoan
đến cho người nghèo, băng bó những tâm hồn đang đau thương, báo tin ân xá cho
những kẻ lưu đày". Ngài muốn nhờ ta bây giờ làm những công việc ấy, để
khắp nơi nổi lên một bầu khí hân hoan như được hồng ân của Chúa viếng thăm.
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng vạch ra cho
ta con đường thực tế để sống đạo theo tinh thần nói trên. Ngài bảo ta trước hết
phải lạc quan: "Anh em hãy vui mừng luôn". Rồi hãy có tinh thần cầu
nguyện để nhìn thấy thánh ý Chúa trong mọi việc. Đừng dập tắt Thánh Thần của
Chúa, đừng làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa hằng vang lên trong mọi sự xảy đến
hằng ngày cho ta, hãy duyệt lại tất cả: bỏ cái xấu đi, và giữ lấy cùng phát
triển mọi điều tốt gặp được.
Như vậy chúng ta sẽ đi vào đường lối của Đức Kitô, sẽ
sống như Ngài trong cuộc đời trần gian: Ngài đã mặc lấy thân phận y hệt như
chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhận mọi hoàn cảnh xảy ra, gạt bỏ
điều xấu, xây dựng điều lành. Ngài cứ nhìn vào những người nghèo khó và khổ sở
ở đời để tìm cách kéo gỡ họ ra khỏi thân phận đau thương. Chính vì vậy Ngài đã
trở thành Cứu thế và ban ơn Cứu độ.
Giờ đây trên bàn thờ Ngài muốn cử hành mầu nhiệm cứu
độ đó ở trước mắt chúng ta, để kêu gọi chúng ta đi vào, dâng mình kết hợp với
Ngài, hầu Ngài có thể ngự vào lòng ta để tiếp tục làm những hành vi cứu độ
trong đời sống và qua đời sống của ta. Ta hãy nhiệt tâm đi vào mầu nhiệm thánh
lễ này.
Đức Giêsu Là Người Thực
Tôi dám nói rằng: Nếu tôi không nhận biết Chúa Kitô
thì đối với tôi, "Thượng đế" sẽ là một danh từ vô nghĩa. Nếu không có
ơn rất đặc biệt tôi sẽ không thể mường tượng một hữu thể vô hạn. Thiên Chúa của
các triết gia và những nhà bác học sẽ không giữ vai trò nào trong đời sống luân
lý của tôi. Thiên Chúa đã phải hạ mình xuống trong nhân loại, và trong một giờ
khắc rõ rệt của lịch sử, tại một địa điểm xác định trên địa cầu, một người được
tạo nên bằng huyết nhục, đã phải tuyên bố mấy lời và làm một vài cử chỉ thì tôi
mới quỳ gối thờ lạy. Nếu Chúa Kitô đã không phán: "Lạy Cha chúng
con..." thì không bao giờ tự mình tôi có ý niệm về tình nghĩa tử này. Lời
kêu cầu ấy đã không khi nào tự đáy lòng tôi thốt ra trên môi. Tôi chỉ tin cái
gì tôi đụng chạm và nom thấy, cái gì sát nhập vào bản thể tôi. Và chính vì thế,
tôi đã tin Chúa Kitô. Tất cả những khuynh hướng muốn giảm bớt thân phận con
người nơi Chúa Kitô sẽ đi ngược với một ý hướng sâu thẳm nhất của tôi. Có lẽ vì
thế mà tôi vẫn không thích nhìn dung nhan Chúa Kitô Vua và Đấng Thiên Sai toàn
thắng bằng hình ảnh khiêm tốn và tiều tụy của Con Người mà qua việc bẻ bánh
trong quán trọ làng Emmau các lữ khách đã nhận ra. Người là người anh mang đầy
thương tích và là Thiên Chúa của chúng ta. (Francois Mauriac Vie De Jésus)
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Đức
cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
8. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Vào thời Minh Trị thiên
hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư
đại học đến tham vấn về thiền.
Nan-in mời trà. Ông châm
trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí.
Vị giáo sư ngồi nhìn nước
trong tách tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền thưa: "Thưa
Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa".
Thiền sư Nan-in thản nhiên
đáp: "Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm,
những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn
cái tách của ông trước." (Trích: Góp nhặt cát đá của thiền sư Muju, Đỗ
Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản).
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm
được. Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì.
Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam... thì đâu còn chỗ trống
cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.
Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng ta hãy hướng về một
nhân vật quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con người sẵn sàng trút
bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không; nhờ đó, ông đã được
Thiên Chúa rót đầy.
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng
giá trị mình bằng những lớp vỏ bên ngoài.
Tiêu biểu cho hạng người nầy là những biệt phái thời
Chúa Giêsu. "Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp
kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc,
chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi
công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi". (Mt 23, 5-6).
Còn người thời nay thì tìm cách làm gia tăng giá trị
của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự
nguy nga.
Trong khi đó, Gioan chê bỏ những "lớp vỏ"
hào nhoáng của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm
thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).
Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình
nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ hết mọi danh hiệu
cao quý mà người đời khoác cho ngài.
Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có
luồng dư luận cho rằng ông là Đức Ki-tô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự.
Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng
phải là Đấng Kitô. Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ
đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn
đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ông lại trút
bỏ thêm một vinh dự thứ hai.
Có một số khác nghĩ rằng nếu ông không là Đấng Kitô,
không là ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó.
(Ga 1, 21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.
Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan,
đã tuôn đến với ông đông đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm
tốn nói rằng phép rửa của ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan
trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai dép cho
Đấng ấy: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các
ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép
cho Người." (Ga 1, 26-27).
Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa
Giêsu chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa
Giêsu được tỏa sáng. Gioan nói: "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu
mờ đi." (Ga 3,30).
Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán
cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1, 23).
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng
lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng
không, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan trở nên vị
ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông. "Tôi
nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao
trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả" (Mt 11, 11)
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã sáng bừng lên
như một ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo
Hội vẫn hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh
nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa Giêsu,
Chiếc ly đời con chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng,
tham lam, ích kỷ và chúng con vẫn quyến luyến gắn bó với chúng cho đến mãn đời.
Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm
trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét đó đi cho tâm hồn được rỗng không.
Có làm được như thế, chúng con mới trở thành ống sáo
rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.
Chỉ khi đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc
bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.
9. Nghề của tôi
Cách đây ít năm, một người
làm nghề hốt rác tại thành phố Dallas, thuộc bang Texas, đã được dân chúng
tuyên dương. Mười bảy cư dân đã viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh công cộng
để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân hữu và lịch thiệp của bác Cummings, người hốt
rác của họ:
- Chúng tôi sống trên con
đường này công nhận bác là một Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và
một người bạn chân tình. Bác đã giúp họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ
đánh rơi ngoài đường hay vì lầm lẫn mà vứt đi.Và ông giám đốc đã gửi cho bác
một bức thư với những lời lẽ như sau:
- Chúng tôi tin rằng người
ta có thể hoàn thành những công việc phi thường trong bất cứ hoàn cảnh nào của
cuộc sống, không kể gì đến địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của bác đã cho thấy
ý nghĩa thực sự của niềm tin ấy. Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, người ta đã hỏi Gioan
Tiền hô:
- Ông có phải là Đức Kitô
hay không?
Họ không cần biết tên tuổi hay lý lịch của ông, họ
chỉ muốn biết việc ông làm, chức vụ ông giữ và nghề nghiệp ông sống. Và rồi
Gioan đã xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu
trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến.
Nghề nghiệp của ông đó chính là loan báo, giới thiệu
Đức Kitô. Chính ông đã nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa
đã hứa ban cho nhân loại. Và Gioan đã dành tất cả cho nghề nghiệp của ông. Ông
đã thực hiện mọi cố gắng, chấp nhận mọi hy sinh để loan báo Đức Kitô. Còn chúng
ta, chúng ta phải làm gì?
Thật đơn giản, đó là mỗi người trong chúng ta đều có
một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều có một cái gì
quan trọng cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của chúng ta đều
quan trọng, mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn. Bác hốt rác
đã ý thức điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của bác.
Tất cả chúng ta cũng cần phải ý thức rằng: Mỗi nghề
nghiệp trên trần gian đều đáng quý trọng. Cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, nếu
xã hội chỉ gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới, toàn là giám đốc
mà chẳng có nhân viên, toàn là cấp tướng mà chẳng có binh lính, toàn là những
nhân vật nổi tiếng mà chẳng có kẻ âm thầm làm việc.
Tuy nhiên, đôi lúc húng ta đã than phiền:
- Tôi chỉ là một người nội trợ, suốt ngày làm những việc
vặt vãnh như thổi cơm, quét nhà, giặt quần áo… Hay tôi chỉ là bác nông phu,
suốt ngày đổ mồ hôi trên miếng ruộng thần nông…
Chúng ta thử phác họa xem một cuộc sống, mà không có
những người làm những công việc tầm thường đó sẽ như thế nào. Mọi nghề đều đáng
quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con người xấu mà thôi.
Nghề nghiệp không phải chỉ quan trọng đối với nhân loại mà còn quan trọng cả
trước mặt Thiên Chúa.
Khi chuẩn bị đón mừng Chúa đến, chúng ta hãy nhớ lại
rằng: Hài nhi Giêsu đã lớn lên và trở thành một bác phó mộc. Ngài không bao giờ
nhàm chán cái cưa, cái búa, cái đục. Ngài hân hoan làm công việc Chúa Cha đã
trao phó: cưa một khúc cây hay chết trên một khúc cây khác để cứu chuộc mọi
người…
Chúng ta cũng vậy, bằng cách chu toàn bổn phận nghề
nghiệp của đấng bậc mình, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vinh quang cho cuộc
sống hiện tại cũng như cho cuộc sống mai hậu sau này.
10. Gioan
Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào đời đã được
Chúa trao cho một sứ mạng, đó là giới thiệu Chúa cho đồng bào của mình, và làm
chứng Ngài chính là Con Chiên vô tội, đã gánh lấy những lầm lỗi của loài người.
Sứ mạng này, Gioan đã làm đầy đủ và hễ có dịp Gioan
liền chỉ cho công chúng biết Đức Kitô. Khi thấy mọi người vây quanh mình và
tưởng rằng mình là Đấng Cứu Thế, Gioan liền mạnh dạn cải chính, mặc dù đến sau
nhưng Chúa Giêsu vẫn cao trọng hơn nhiều, mình chẳng xứng đáng cúi xuống cởi
dây giầy cho Chúa.
Khi Chúa đến xin ông làm phép rửa, ông đã nhìn thấy
trời mở ra và chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần đỗ xuống trên đầu và
từ trời cao có tiếng phán:
- Này là Con Ta rất yêu dấu.
Đồng thời Gioan còn có nhiệm vụ bảo dân phải sửa
đường cho Chúa đến, nơi cao phải bạt xuống, chỗ trũng phải lấp cho đầy, đường
gập ghềnh quanh co phải uốn cho thẳng.
Với người quyền thế, Gioan vẫn mạnh dạn nói lên sự
thực, chẳng hạn với Hêrôđê, Gioan đã can ngăn:
- Vua không được cướp vợ của em mình.
Bổn phận làm chứng cho Chúa cũng là bổn phận của mọi
người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Nhìn vào giòng lịch sử chúng ta cũng thấy
được như vậy.
Trước hết là các Tông đồ
Tuân theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã đi khắp
thế gian giảng dạy và làm chứng về Ngài. Mặc dầu biết trước sẽ gặp phải nhiều
khó khăn và chống đối, nhưng các ông vẫn cứ ra đi, để rồi đã bị bắt bớ, cầm tù
và sau cùng đã lấy mạng sống của mình để làm chứng tá cho Tin Mừng Phúc âm.
Thánh Giacôbê thì bị đưa lên nóc đền thờ và bị xô
xuống cho chết. Thánh Bartôlômêô thì bị lột da sống, thánh Andrê và Phêrô thì
bị đóng đinh ngược, duy chỉ có thánh Gioan là đã chết già tại Công đồng Ephêsô
mà thôi.
Tiếp đến là Giáo hội
Giáo hội nối tiếp các Tông đồ. Trong số 33 vị Giáo
Hoàng đầu tiên, thì đã có tới 30 vị bị giết. Rồi trong 4 thế kỷ đầu, các tín
hữu đã gặp phải những cơn bách hại khủng khiếp. Nhưng các ngài đã anh dũng
tuyên xưng đức tin của mình để làm chứng cho Chúa.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy
Chúng ta không phải chỉ làm chứng cho Chúa bằng lời
nói mà còn phải làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Bởi vì chính
gương sáng của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp
dẫn những người khác trở về cùng Chúa, như người xưa đã nói:
Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Việc làm như tay lôi kéo.
Ngày kia vua Tấn văn Công
đi săn và bị lạc ở trong rừng, may thay gặp một người câu cá tên là Ích Ngư,
vua nói:
- Ta đây là vua, chú đưa ta
ra, ta sẽ ban thưởng.
Người câu cá hèn hạ nói:
- Nếu được phép thì tôi xin
hỏi một đôi lời.
Nhà vua bằng lòng. Người
câu cá bèn nói tiếp:
- Chim hồng sống ở bờ biển,
chán biển đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa vào bẫy. Ba ba sống ở đáy vực sâu, chán
vực sâu lên sống ở bãi sẽ bị chài lưới. Nhà vua ở đền sao lại đi săn và lạc vào
rừng sâu thế này.
Nhà vua khen:
- Chú nói hay quá.
Sau đó, nhà vua bảo người
tùy tùng ghi địa chỉ để khi về sẽ gửi quà tặng. Người câu cá bèn trả lời:
- Đức vua ghi địa chỉ làm
chi. Xin đức vua hãy tôn kính trời đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu dân chúng là
tức khắc bầy tôi này đã được trọng thưởng. Bằng không thì dù nhà vua có ban
phần thưởng thế nào, bày tôi cũng sẽ không thể an tâm mà hưởng dùng.
Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo sống đạo và chu
toàn bổn phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói năng, chúng ta cũng
đã làm chứng cho Chúa.
Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta chính là một
thứ ánh sáng chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết Chúa.
11. Những lời chứng
Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong
việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của ngài là “chứng
nhân để nói về ánh sáng”. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu.
Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một chứng nhân can
đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống theo nguyên tắc.
Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong cung điện, nhưng
sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của cá nhân ngài, đã
bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ sung thêm niềm
tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống động cho điều
mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài bước sang một bên
để nhường lối cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng. May thay, vẫn
còn những người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân mình như không
có giá trị gì.
Một vị linh mục nói với tôi
về cuộc thăm viếng của ông tại Trung quốc cách đây vài năm. Trong thời gian ở
đó, ông đã gặp hai vợ chồng già, cả hai đều là bác sĩ. Họ học chung tại trường
y, yêu nhau và kết hôn với nhau, bà là người Công giáo, còn ông thì ngoại đạo.
Bà mong muốn thuyết phục ông nên gia nhập Giáo Hội, nhưng ông không muốn chịu
phép rửa tội. Một thời gian ngắn sau, họ có một đứa con.
Suốt thời gian diễn ra một
trong những phong trào chính trị ở Trung quốc, cùng với một số nhà trí thức
khác, người chồng bị bắt đi làm việc trong quân đội. Sự xa cách gây ra rất
nhiều khó khăn cho người vợ, do bà vừa phải cả ngày làm việc nhiều giờ tại bệnh
viện, vừa phải làm ban đêm chăm sóc đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra, người vợ
còn phải chịu sức ép từ phía chính phủ, hối thúc bà li dị với chồng và bỏ đạo,
để đạt được những lợi thế về mặt chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi đêm, sau
khi trở về nhà, bà và con trai đều quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa ban sức
mạnh để chịu đựng những khó khăn.
Vào cuối thập niên 1970, bà
nghe nói rằng chồng bà và một số nhà trí thức khác được phép trở về nhà. Khi
đến ngày đó, bà và con trai ra sân ga, họ là những thành viên trong gia đình
duy nhất có mặt ở sân ga để đón tiếp những người đàn ông, bởi vì tất cả những
người phụ nữ khác đều đã li dị và tái kết hôn, do không chịu đựng được cảnh
chia ly lâu dài. Do cảm động sâu sắc, chồng bà đã chịu đi học đạo và lãnh nhận
phép rửa tội.
Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời chứng cho ánh
sáng, giống như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến lượt chúng ta.
Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên một khuôn mặt
rất mờ nhạt và xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng từng chữ một
“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đức Kitô vẫn còn cần đến
những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho Người hiện diện đối với
người khác một cách có hiệu quả.
Chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng, nếu chúng
ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một đời sống tốt đẹp
là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một lời loan báo Tin
mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống nữa, thì họ đã đánh
mất đi một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo đưa dẫn đến những
hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời chứng rất có hiệu quả.
Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng thời của chúng ta một
cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người thực hiện những
lời giảng dạy của Đức Giêsu.
Nếu không có lời chứng của các Kitô hữu, thì gương
mặt của Đức Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế giới của chúng
ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và không nhận ra,
và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm tù trong cảnh
tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.
Đây không phải là một trách nhiệm chỉ dành cho cá
nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu nữa. Khi là
thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho Đức Kitô sẽ
dễ dàng hơn.
12. Ẩn mặt
Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng “Có một vị đang
ở giữa các ông mà các ông không biết”. Vị mà ngài đang nói đến chính là Đức
Giêsu Thiên Chúa thường được ám chỉ như là một Thiên Chúa “ẩn mặt”. Về phương
diện này, có thể so sánh Thiên Chúa như một người viết tiểu sử. Công việc của
người viết tiểu sử là tránh mặt trong khi kể chuyện. Một người viết tiểu sử
giỏi luôn sẵn sàng có mặt ở bất cứ chỗ nào, nhưng không ai nhìn thấy họ cả.
Thiên Chúa hiện diện ở tất cả mọi nơi trong các tạo vật của Người, nhưng không
ai nhìn thấy Người.
Có câu chuyện về một người
đàn ông kia khi trở về nhà, anh phát hiện ra đứa con gái bé bỏng của anh đang
khóc rống lên. Anh hỏi cháu bé về chuyện gì xảy ra. Cháu bé nói rằng cháu đang
chơi trò chơi trốn tìm với các bạn của cháu. Nhưng khi đến phiên cháu đi trốn,
cháu bé đã trốn quá kỹ, đến nỗi các bạn của cháu đã bỏ đi chơi trò khác, không
chịu tìm kiếm cháu nữa. Cháu bé cứ chờ đợi các bạn tìm thấy mình, nhưng chúng
không thể nào làm được như vậy. Cuối cùng, khi đi ra khỏi chỗ ẩn núp, thì cháu
bé phát hiện ra rằng chỉ còn có một mình cháu thôi.
Đôi khi, có lẽ Thiên Chúa cảm thấy cô độc. Người đã
tự trú ẩn trong các tạo vật của Người một cách quá tài tình, đến nỗi một số
người không thể tìm thấy Người. Và cuối cùng, họ đã bỏ không tìm kiếm Người
nữa, rồi rẽ sang các hướng khác.
Cuối cùng, khi Con của Người đến thế gian này, hầu
hết cuộc đời của Người đều không được người ta nhận ra. Ngay cả khi Người xuất
hiện ở nơi công cộng, không phải tất cả mọi người đều tin tưởng nơi Người. Và
thánh Gioan tẩy giả đã nói “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết
– một Đấng đến sau tôi”. Và trong phần mở đầu cuốn sách Tin mừng của mình,
thánh sử Gioan đã nói một cách buồn rầu “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã
nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Ở đây, khi ngày Giáng sinh đến hỗ trợ chúng ta, trong
ngày đó, chúng ta cảm thấy lòng đầy thắc mắc về sự gần gũi của Thiên Chúa.
Trong biến cố Nhập Thể, Thiên Chúa ẩn náu một cách tài tình, và được mặc khải
một cách hoàn hảo. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với chúng ta, mặc lấy thân
phận nhân loại của chúng ta. Khi thấy Người là thấy Chúa Cha.
Trước khi Đức Giêsu đến, người ta coi như Thiên Chúa
là Đấng xa cách và tách biệt của con người, không thể quan tâm gì đến chúng ta
và những nỗi đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, người ta còn nhìn vào Người như
một quan tòa hoặc một điệp viên, sẵn sàng vồ chụp và trừng phạt con người.
Nhưng từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta không còn nhìn vào Thiên Chúa như một
người nào đó xa cách nữa, mà rất gần gũi với chúng ta, quan tâm đến mỗi người
chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái của Người.
Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha như một người Cha đầy
tình yêu, lòng thương xót và luôn sẵn sàng tha thứ. Đó là một Thiên Chúa không
ở xa chúng ta, nhưng sống giữa chúng ta, và rất say mê quan tâm đến chúng ta.
Mối quan tâm của Thiên Chúa không phải là phê phán và kết án, nhưng là chữa
lành và cứu thoát. Đó là một Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với những người yếu
đuối, nghèo khổ và quá nặng gánh.
Thiên Chúa giống như một giòng suối ở bên chúng ta,
mà chúng ta có thể say sưa uống lấy và làm cho bản thân mình được tươi mát.
Nhận biết về Thiên Chúa theo cách thức này, là nguyên nhân đưa đến niềm vui lớn
lao. Đây chính là niềm vui đã được loan báo cho các mục đồng trong ngày Chúa
Giáng sinh, và bây giờ, cũng đang được loan báo cả cho chúng ta nữa.
13. Sứ giả Tin Mừng
Thuở nước Mỹ chưa có bưu
điện và những phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành những trạm.
Mỗi trạm cách nhau chừng 25 km. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có sẵn những con ngựa
khỏe.
Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ
trên lưng ngựa. Họ phóng nước đại, chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và
ở đó họ sẽ thay ngựa, rồi lại tiếp tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy
chừng 100 cây số.
Bình thường họ phải đem
theo hai cây súng để đề phòng mọi da đỏ. Họ chạy ngày và đêm, bất kể mọi thời
tiết, để hoàn thành cuộc hành trình dài tới ba ngàn cây số trong vòng một tuần
lễ hay mười ngày là cùng.
Việc hoàn thành mạng lưới
điện thoại nối liền hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt vai trò của những con
ngựa tốc hành. Tuy nhiên, câu chuyện về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn
làm cho chúng ta khâm phục.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Thiên Chúa
cũng đã sai phái vị sứ giả của Ngài đến với chúng ta và chuyển giao cho chúng
ta một sứ điệp quan trọng, đó là hãy dọn đường Chúa đến.
Vị sứ giả đưa tin nàychính là Gioan Tiền hô. Ông đến
để đem lại cho chúng ta tin vui về Đấng Cứu thế. Kể từ đó, hàng triệu người
không phân biệt màu da và tiếng nói, thuộc đủ mọi dân tộc đã đi theo dấu chân
của ông và đã trở nên những người đem tin mùng của Chúa. Họ loan báo và dọn
đường cho Chúa đến trong tâm hồn mọi người.
Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là có những nhà
truyền giáo đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các núi đồi, các ghềnh thác, đến
với những bộ lạc, những sắc dân còn man di mọi rợ.
Kể từ các tông đồ, biết bao nhiêu người đã rảo bước
trên khắp mọi nẻo đường và đã có mặt khắp mọi nơi, từ thành thị đến những hang
cùng ngõ hẻm. Và hơn thế nữa, còn dám hy sinh cả mạng sống để loan truyền cái
tin quan trọng, đó là
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng
ta.
Tin mừng sự sống này cần phải được loan báo, cần phải
được đem đến cho từng người sống trên mặt đất.
Các nhà truyền giáo không thể hành động đơn độc. Trái
lại, chúng ta phải cộng tác với họ trong khả năng và phạm vi của mình.
Có nhiều cách để thi hành điều đó. Chúng ta cộng tác
bằng lời cầu nguyện, xin Chúa luôn nâng đỡ để công cuộc rao giảng Tin mừng của
những nhà truyền giáo gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Chúng ta cộng tác bằng cách giúp tiền bạc vật chất để
tài trợ, nhờ đó những nhà truyền giáo sẽ có được những phương tiện để họat
động.
Chúng ta cộng tác bằng chính cuộc sống thường ngày
của chúng ta. Thực vậy, cuộc sống thường ngày của chúng ta phải là một tin
mừng. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của bản thân, của gia đình, của giáo xứ chúng
ta cũng phải là một tin mừng, bởi vì qua đó chúng ta nói cho mọi người biết
được rằng:
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng
ta.
Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta cũng trở nên
một Gioan Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những người chung
quanh.
14. Chứng nhân
Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trọng luôn được
nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi mọi người chuẩn
bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin
Mừng cho chúng ta tấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là
làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài đã sống và chết cho vai trò chứng nhân của mình.
Ngay những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan Tông đồ đã cho chúng ta
biết mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy giả là làm chứng cho Đấng Cứu
Thế: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm
chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không
phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Sự sáng đây là Đấng Cứu
Thế và Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ
lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng
hành động và bằng máu.
Gioan Tiền Hô đã làm chứng bằng lời nói: chúng ta biết vai trò hay
sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết giảng, là loan báo về Đấng Cứu
Thế. Gioan Tiền Hô đã đóng vai trò đó, ngài đã nói những gì? Ngài bảo cho mọi
người biết: “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng
Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi
nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã
chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi
tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn nhân hiến tế để
cứu chuộc mọi người. Bài Tin Mừng Gioan còn cho mọi người biết Chúa Giêsu là
Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa,
đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người: thưởng phạt mỗi người tùy theo công
nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho
mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế.
Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng
hành động và gương sáng. Chúng ta biết Gioan là một người rao giảng đầy uy quyền,
kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của ngài được
mọi người đương thời chú ý, tại sao vậy? Bởi vì ngài chỉ nói sau khi đã làm hay
đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết thành công của ngài là làm rồi
mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực vậy, ngài đã lấy cuộc đời khổ
hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm
chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi hành chức vụ tiền hô ngài cũng có
một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu,
không một chút ghen tương, không một chút luyến tiếc, bởi vì ngài biết Chúa
Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới
mà thôi. Nói rõ hơn, Gioan không thể kêu gọi người ta sám hối nếu ngài không
sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta khiêm nhường nếu ngài không
quên cái tôi của mình, Gioan không thể kêu gọi người ta thực hành bác ái nếu
ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan không thể kêu gọi người ta hy sinh
nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Tóm lại, ngài được mọi
người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã
sống, đã làm, đã kinh nghiệm: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói
của Gioan đã làm chuyển biến lòng người, nhưng đời sống và gương sáng của ngài
đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, bởi vì Gioan luôn sống với tư cách là chứng nhân
của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động,
ngài còn muốn làm chứng bằng chính máu của mình nữa. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân
bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống
giam vào ngục. Bà Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho
hành động ngang trái của bà, bà tìm cách giết cho được Gioan, chính vì thế mà
trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê, lợi dụng lúc ông đã ngà ngà say, bà xúi
con gái là Salômê xin chiếc đầu của Gioan, vì Hêrôđê vui thú trước những điệu
múa của Salômê và hứa cho cô bé bất cứ thứ gì dù là nửa nước. Thế là Gioan đã
phải chết, ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp,
chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài. Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là
một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Kitô hữu phải bắt chước đời
sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn cảnh: thuận cảnh cũng
như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu
đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong
đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men
của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như bông huệ giữa bụi gai,
đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng của sự thật: suốt đời
ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều gì có ngài chân nhận, điều gì
không có ngài nói không. Chúng ta hãy kiểm điểm và suy nghĩ: chúng ta có bao
giờ nói dối không? Chúng ta phải nhìn nhận rằng không những chúng ta có nói dối
mà còn nói dối nhiều hơn nữa, rồi nhiều khi chúng ta còn ém nhẹm, giấu diếm,
chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là mình thật thà, thẳng thắn, vô vị lợi… để
lấp đầy đi cái thiếu thành thật của mình. Nếu chúng ta đã sống như thế, chúng
ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có, không nói không, đừng thêm
thắt, bịa đặt. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận, vì sự thật dễ mất lòng. Chúng
ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng sống thật thà không có
nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những gì mình nghĩ, mình biết, đức tính
này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi hãy nói, mà đã nói thì không
bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để khỏi gây thiệt hại cho bất cứ
ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như thế luôn mãi.
15. Vui mừng
Chuyện kể về một ông vua
đang băn khoăn bằng cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua bèn mời một nhà khôn
ngoan lại để bàn hỏi xem làm thế nào vứt bỏ được những lo âu buồn rầu đang đè
nặng tâm trí ông đến nỗi phát bệnh. Làm thế nào để có hạnh phúc thực sự? Nhà
thông thái trả lời: “Chỉ có một cách duy nhất để chữa nhà vua. Đó là nhà vua
phải nằm ngủ một đêm trong cái áo của một người có hạnh phúc thực sự”.
Các sứ giả được sai đi khắp
quốc gia để tìm kiếm một người thực sự đang hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào
khi hỏi đến cũng có lý do để đau khổ buồn rầu. Một điều gì đó đã cướp mất hạnh
phúc của họ. Sau cùng họ tìm thấy một người, đúng hơn là một gã ăn xin. Hắn
ngồi mỉm cười ở giữa chợ đời. Hắn tự xưng là người hạnh phúc thực sự, không có
một mảy may gì buồn rầu lo âu. Người ta nói với hắn về điều nhà vua đang tìm
kiếm. Nhà vua cần phải ngủ một đêm trong cái áo của người có hạnh phúc thực sự,
và cho anh ta một số tiền rất lớn đền bù vào chiếc áo hạnh phúc đó.
Bạn nghĩ sao? Anh chàng ăn
xin này có đồng ý bán chiếc áo của anh đang mặc cho nhà vua không? Các bạn có
biết phản ứng của hắn ra sao không? Không nín được cười! Gã ăn xin bật cười lên
hô hố mà rằng: “Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng nhà vua được.
Tôi chẳng có chiếc áo nào cả!” Người hạnh phúc nhất trên đời không có ngay cả
một chiếc áo!
Trước Công Đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ III Mùa
Vọng hôm nay được gọi là “Gaudete Sundae”. “Gaudete” tiếng La tinh có nghĩa là
“vui mừng”. Trong nhà thờ, đốt lên cây nến hồng ở Vòng Lá Mùa Vọng – Advent
Wreath. Mầu hồng biểu tượng cho sự vui tươi, yêu đời và hy vọng, vì Thiên Chúa
đã gần đến rồi!
Quả vậy, con người đã được Thiên Chúa tạo dựng nên là
để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đời đời với Người. Vì thế, Pascal đã nói rằng:
“Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc hết, ngay cả những người treo cổ tự
tử”. Niềm vui và hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần đời. Nó cần
thiết cho chúng ta như dưỡng khí cần cho tim phổi, lương thực cần cho thân xác.
Tuy nhiên, càng tìm kiếm nó, nó lại càng vuột khỏi tay ta, như nước trôi qua
các kẽ ngón tay. Ta nghĩ về hạnh phúc theo quan niệm của ta. Ta long đong vất
vả đi tìm nó ở nơi ta muốn tìm, ở nơi nó không có.
Đi tìm hạnh phúc không đúng chỗ:
Trong “Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello có
truyện “Tìm Sai Chỗ” được kể như sau. Một người thấy ông bạn láng giềng cứ lom
khom cúi tìm mãi một cái gì dưới ánh đèn đường nên hỏi: “Ông bạn đang tìm gì
vậy?” Người láng giềng trả lời: “Tôi tìm chìa khoá đánh rơi”. Thế rồi cả hai
cùng chăm chú, lom khom tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra một điều gì
nên hỏi người láng giềng: “Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy?” “Ở trong nhà thì
phải!” người láng giềng trả lời. “Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở đây?” “Vì ở
đây có đèn đường sáng hơn!!!”
Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất mà người đời vẫn
thường đến tìm kiếm hạnh phúc là “ngã ba chữ T”: tình, tiền, tài.
Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng kính màu hồng,
hăm hở tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình dục mà họ nghĩ là
tình yêu, họ đồng ý với Xuân Diệu rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt.
Còn hơn le lói suốt trăm năm”.
Có người lao mình vào việc tìm kiếm tiền bạc bằng mọi
cách. Họ bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh giành với người, để rồi cuối
cùng như nhà thơ Quốc Nghệ đã diễn tả sự thật chua cay bằng những lời thơ châm
biếm:
Bạc
ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi làm nhân loại hoá ra điên.
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hoá xiên.
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp hai bên.
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền?
Mi làm nhân loại hoá ra điên.
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hoá xiên.
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp hai bên.
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền?
Có người dùng tài ba để tìm kiếm công danh sự nghiệp
hầu mang lại hạnh phúc. Thế nhưng danh vọng cũng kèm theo cuồng phong bão tố,
nước mắt và đoạ đày, như Nguyễn Công Trứ đã cảm nghiệm: “Ra trường danh lợi
vinh tiền nhục, vào cuộc trần ai khóc lẫn cười”.
Điều lầm lẫn lớn nhất của chúng ta là đã đồng hóa
niềm vui hạnh phúc với khoái lạc thế trần, rồi đi tìm thỏa mãn nơi thể xác, vật
chất và cuộc sống ở bên ngoài. Chúng ta có thể đạt được khoái lạc bằng dục
vọng, danh tiếng và tiền bạc, nhưng tất cả những thứ này không thể nào mang lại
cho con người niềm vui và hạnh phúc thật sự.
16. Vui mừng
Hạnh phúc ở đâu? Bài Phúc âm hôm nay, nói đến một
nhân vật rất quan trọng nhưng khiêm tốn, dạy chúng ta cách đi tìm hạnh phúc
đích thật. Đó là Gioan tẩy Giả: “Ông đến để làm chứng”, “Tôi là tiếng kêu trong
hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Gioan chối từ tất cả những tước
hiệu được dân chúng gán cho mình. Đối với Gioan tẩy giả, hạnh phúc của ông là
trở nên đầy tớ của Thiên Chúa, là con người giúp cho mọi người quy hướng về
Thiên Chúa.
Trong bài đáp ca, Đức Maria cũng đóng vai trò này:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ của Chúa”.
Hạnh phúc của Đức Maria là được làm nữ tì của Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Sự ao ước Thiên
Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo
bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người lại
với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm thấy chân lý và hạnh phúc mà
con người không ngừng tìm kiếm”.
Công Đồng Vatican II cũng dạy: “Khía cạnh cao siêu
nhất của phẩm chức con người là ở chỗ con người được ơn gọi hãy hiệp thông với
Thiên Chúa. Lời mời gọi con người đối thoại đã được Thiên Chúa gửi tới con
người từ khi có loài người. Bởi vì nếu có con người, thì cũng tại Thiên Chúa đã
tác tạo nên con người vì tình yêu, và vì tình yêu, Ngài không ngừng ban cho con
người hiện hữu. Và con người chỉ sống đầy đủ theo chân lý nếu con người tự do
công nhận tình yêu này và phú mình cho Đấng tác tạo nên mình.
Linh mục Dominicô Đỗ Minh
Trí trong cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi”, trang 41-44 đã kể câu chuyện “Con Mèo
Già và Con Mèo Trẻ” với hai đề nghị về hạnh phúc như sau:
Một con mèo già, đầy kinh
nghiệm và khôn ngoan thấy một con mèo trẻ, đang đuổi theo cái đuôi của chính nó.
Tò mò, nó hỏi con mèo trẻ: “Này con, con làm gì vậy? Tại sao con lại đuổi theo
cái đuôi của con như vậy?”Mèo trẻ trả lời: “Con nghe nói rằng cái tốt nhất đối
với một con mèo là hạnh phúc và hạnh phúc của con mèo ở trong cái đuôi của nó.
Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của con. Khi nào con bắt được, con sẽ có hạnh
phúc!”
Mèo già trả lời: “Này con,
ta đã suy gẫm rất nhiều về vấn đề hạnh phúc. Và ta cũng đã đi đến kết luận rằng
hạnh phúc của ta là ở trong cái đuôi của ta. Nhưng ta cũng nhận rằng mỗi khi ta
đuổi theo cái đuôi, thì không thể nào ta bắt được. Trong khi đó, nếu ta làm một
việc khác nhất là khi ta lo lắng cho con mèo khác, thì cái đuôi của ta đi theo
ta bất cứ nơi đâu!”
1. “Hạnh phúc ở trong cái đuôi của ta”, con mèo già nói: Cái đuôi
ở đằng sau, con mèo không nhìn thấy được. Điều này diễn tả điều kiện đầu tiên
của hạnh phúc: Không bao giờ nắm được. Hạnh phúc không phải là mục đích, mà là
một kết quả! Đó là một thực tại đi theo một thực tại khác. Hạnh phúc là kết quả
của tình thương yêu đối với loài người. Cái cần phải nhắm tới là tình thương
yêu đối với đồng loại, hạnh phúc sẽ đi theo một cách tất yếu.
2. Người ta tìm thấy hạnh phúc của chính mình khi làm việc
vì hạnh phúc của người khác. Bằng cách tranh đấu cho sự an vui của đất nước mình
hay giúp đỡ người đồng loại, giải quyết các vấn đề của họ. Lấy tình thương yêu
đồng loại, tình thương yêu xã hội làm căn bản của cuộc sống của mình. Đặt cơ sở
đời sống của mình trên tình thương yêu để nhìn các thiếu thốn của người khác
như các thiếu thốn của chính mình, quyền lợi của người khác như quyền lợi của
chính mình. Hãy thoát ra khỏi bản thân mình, thoát ra khỏi sự tìm kiếm hạnh
phúc riêng tư của mình để làm việc vì hạnh phúc của người khác.
Hạnh phúc hay nguồn vui Kitô giáo đem lại khác xa với
khoái lạc. Nó phong phú và sâu xa hơn cả nụ cười tươi nở trên một khuôn mặt vui
vẻ. Nó đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên
Chúa hiện diện với chúng ta sẽ làm chúng ta hạnh phúc. Một sự bình an nội tại
không có gì có thể lấy mất khỏi chúng ta. Phục vụ Thiên Chúa là cội nguồn của
niềm vui Kitô giáo. Đó là tình trạng của ân sủng không vướng mắc tội lỗi. Chúa
ở cùng ta, ta sống trong Chúa, như Đức Maria diễn đạt trong kinh Ngợi Khen ở
bài đáp ca hôm nay: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa”
“Lúc nào cũng lo tìm hạnh phúc, ta sẽ chẳng bao giờ
thấy hạnh phúc.
Hạnh phúc phải được tạo thành thay vì tìm thấy”.
“Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay, nhưng
là cái bạn mang trong tim”.
“Muốn được hạnh phúc, đừng cộng thêm của cải, nhưng
hãy trừ bớt ham muốn”. (Định nghĩa Cuộc Đời của Trần văn
Điền).
17. Lời chứng của ông Gioan
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Thời nay, Thiên Chúa có cần người làm chứng cho Ngài không? Nếu Ngài cần và mời
gọi bạn, bạn có sẵn sàng chấp nhận lời mời ấy không?
2.
Rao giảng và làm chứng có khác nhau không? Cái nào cần thiết hơn?
3.
Làm chứng có cần phải nói sự thật không? Có thể lấy cớ bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ
tôn giáo để làm chứng dối, để phản lại sự thật không? Tại sao?
Chia sẻ:
1. Thiên Chúa cần người làm chứng cho Ngài
Qua bài Tin Mừng, ta thấy khi Đức Giêsu đến trần
gian, Thiên Chúa cần một người làm chứng cho Con của Ngài, và người ấy là Gioan
Tẩy giả. Ông này được kêu gọi để làm công việc ấy. Suốt lịch sử Giáo Hội, thời
nào ta cũng thấy Thiên Chúa cần những người làm chứng cho Ngài, cho sự thật,
cho công lý, và cho tình thương của Ngài. Có thể nói lịch sử của Giáo Hội là
một lịch sử của “làm chứng” và “rao giảng”. Rao giảng là để giúp người ta hiểu,
nắm vững, còn làm chứng là để giúp người ta tin.
Hiểu và tin là hai chuyện rất khác nhau. Nhiều người
hiểu rất rõ mà vẫn không tin, chẳng hạn: nhiều người tìm hiểu Ki-tô giáo không
phải để tin theo, mà để bài bác một cách “nói có sách, mách có chứng”. Ngay
trong số những người rao giảng Tin Mừng, nhiều người có đời sống thực tế chứng
tỏ rằng họ không tin, thậm chí không tin một chút nào điều họ vẫn rao giảng một
cách thật hùng hồn, mạnh mẽ. Trường hợp đánh động nhất là trường hợp của
Mahatma Gandhi, người giải phóng dân tộc Ấn Độ.
Gandhi rất hiểu, rất yêu mến, rất đồng cảm với Đức
Giêsu, thậm chí ông còn sống tinh thần quên mình, từ bỏ và yêu thương của Đức
Giêsu một cách gương mẫu (có thể hơn rất nhiều Ki-tô hữu), nhưng ông hoàn toàn
không tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Ông đã lên tiếng có vẻ như thách
thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ dân tộc ông: “Nếu những
người Kitô hữu tại Ấn Độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì chẳng
cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết”. Trước mắt
ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh - cũng tham lam, bất công và tàn bạo
không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Chắc hẳn ông đã từng tự hỏi: sự siêu việt
của Kitô giáo - như các Ki-tô hữu thường tự hào - nằm ở đâu? Sự siêu việt đó
chẳng lẽ chỉ có thể tin chứ không thể chứng tỏ cụ thể bằng thực tế hay bằng
hành động được sao?
2. Ngày nay, nhiều giáo hội rao giảng nhiều hơn làm chứng
Để được cứu rỗi, đức tin là một yếu tố tối cần thiết:
“Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”
(Mc 16,16; x. Cv 16,31; Rm 10,9). Nhưng làm sao tin được một chuyện mình không
biết, không thấy, nếu không có ai nói cho biết. Nhưng làm sao tin được người
nói cho biết ấy, nếu người ấy không có bằng chứng hay không có đủ uy tín để bảo
đảm? Làm sao tin được người nói hay rao giảng thật là hay, nhưng đời sống hay
việc làm của họ thì lại hoàn toàn đi ngược lại điều họ rao giảng?
Ngày xưa, thời Giáo Hội sơ khai, Ki-tô giáo lan
truyền rất nhanh, vì thời ấy, các tông đồ làm chứng nhiều hơn là rao giảng. Còn
ngày nay, Ki-tô giáo lan truyền rất chậm, rất nhiều nơi bị giảm sút, tại sao?
Vì những người làm tông đồ ngày nay quá chú trọng tới rao giảng, mà coi rất nhẹ
việc làm chứng! Đó là một sự thật mà người Ki-tô hữu cần nhận chân một lần cho
sâu sắc, để chỉnh trang lại cách truyền giáo hay làm tông đồ của mình, đặc biệt
nhân dịp kỷ niệm lần thứ 2002 ngày Đức Giêsu đến trần gian.
3. Tại sao phải làm chứng? Để người ta tin
Ngày nay, để tìm hiểu Ki-tô giáo, người ta chỉ có
cách là tìm hiểu trong sách vở, hoặc nghe một người Ki-tô hữu nào đó trình bày.
Nhưng từ hiểu đến tin theo là cả một quá trình khó vượt qua nếu không có một
động lực mạnh thúc đầy! Ngày nay, không còn có những nhân chứng đã tận mắt nhìn
thấy Đức Giêsu sống, nói, hành xử, làm phép lạ, chết và sống lại như thời Giáo
Hội sơ khai nữa. Những chuyện kể về Đức Giêsu phần nào cũng tương tự như bao
chuyện kể khác, về Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Đức Phật, Đức Khổng, v.v… Làm
sao người ta có thể tin vào Đức Giêsu nhiều hơn là tin vào các vị giáo chủ
khác? Người thời nay chịu ảnh hưởng tinh thần khoa học thực nghiệm, lời nói
suông không còn dễ dàng được nhận là đúng. Muốn họ tin hay chấp nhận phải có
bằng chứng. Vì thế, làm tông đồ thời nay cần làm chứng hơn là rao giảng.
Rao giảng thì chỉ cần một mớ kiến thức, một chút suy
luận; còn làm chứng đòi hỏi một sự dấn thân thật sự, nó huy động cả một cuộc
đời, cuộc đời toàn diện. Rao giảng mà không làm chứng chỉ là nói lên những lời
nói rẻ tiền, đương nhiên ít tác dụng. Còn làm chứng là nói lên những lời nói có
giá trị sống động vì người nói dám lấy cả cuộc đời, cả mạng sống để bảo chứng
cho lời nói ấy. Nhờ thế mà người nghe mới dám đặt niềm tin.
Những người ngoài Ki-tô giáo phải dựa vào đâu để biết
Kitô giáo là chính đạo? để tin Đức Kitô là Đấng cứu độ, thậm chí là Đấng cứu độ
duy nhất? Làm sao họ tin được, khi mà đời sống của người Ki-tô hữu chẳng khác
gì và chẳng hơn gì của họ? khi mà người Ki-tô hữu chẳng chứng tỏ được một cách
cụ thể mình đã được cứu độ ở chỗ nào? Nếu được cứu độ, ít ra người Ki-tô hữu
chúng ta phải tự nhiên có một lối sống nào đó chứng tỏ mình được cứu độ, chẳng
hạn người khác có thể thấy nơi chúng ta nét vui tươi, hạnh phúc và tình yêu
thương nhau được biểu lộ hồn nhiên trong đời sống, bất chấp thuận cảnh hay
nghịch cảnh. Sống như thế chính là làm chứng!
4. Hãy xem Gioan Tẩy giả làm chứng thế nào
Chính vì nói thế nào sống như vậy, nên Gioan Tẩy giả
đã thu hút được quần chúng đến với ông và làm theo những gì ông yêu cầu: “Mọi
người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội,
và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan” (Mc 1,5). Gioan là một khuôn mẫu
điển hình cho hạng người làm chứng hơn rao giảng: “Ông đến để làm chứng, và làm
chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1,7). Còn giới lãnh đạo tôn
giáo Do Thái là điển hình cho hạng rao giảng hơn làm chứng: “Các kinh sư và các
người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ
nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì
họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Điều đó được thể hiện qua một số chi
tiết:.Gioan ăn mặc đơn giản: “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da” (Mc
1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư: “đeo những hộp kinh thật lớn,
mang những tua áo thật dài” (Mt 23,5); “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo
thụng” (Mc 12,38). Gioan sống khó nghèo, thanh đạm, “ăn châu chấu và mật ong
rừng”, còn các kinh sư thì giàu sang phần nào nhờ “nuốt hết tài sản của các bà
goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Gioan thì khiêm
nhường tự hạ: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”
(Ga 1,27), còn các kinh sư thì thích tự đưa mình lên: “Họ thích được người ta
chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích
ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 12,38-39).
Ta thấy khi làm chứng, Gioan không màng tiếng khen,
không tìm vinh quang cho mình, đang khi nhiều người mang danh làm chứng cho
Thiên Chúa, nhưng thực tế là đang tự làm chứng cho mình, để mình được khen
ngợi, vinh danh, hầu có quyền lực, tiền bạc địa vị… Nhưng điều quan trọng nhất
của người làm chứng là phải dám nói sự thật.
5. Người làm chứng phải dám nói sự thật
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người
khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Ông không sợ quyền lực, không hùa
theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ông không im lặng để được an toàn
bản thân, để được xã hội ưu đãi, nhưng ông lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ông
không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng,
hay nói điều đúng là sai trái.
Không thể lấy cớ bảo vệ tôn giáo để nói sai sự thật,
để hùa theo những kẻ sai trái. Tôn giáo mà cần dối trá hay hùa theo quyền lực
để tồn tại là thứ tôn giáo bỏ đi, không giá trị. Đức Giêsu không hề bảo vệ uy
tín cho giới lãnh đạo tôn giáo khi họ vẫn ngoan cố với những điều sai trái (x.
Mt 23). Gioan Tẩy Giả cũng không bảo vệ uy tín của nhà vua khi nhà vua cố tình
làm điều sai trái (x. Mt 14,3-12). Chính vì thế, Gioan đã bị trảm quyết, còn
Đức Giêsu đã bị coi là kẻ phá hoại tôn giáo! Ngài đã coi sự thật cao trọng hơn
chính tôn giáo! Theo Ngài, bảo vệ sự thật mới chính là bảo vệ tôn giáo. Còn bảo
vệ tôn giáo bằng cách nói sai sự thật, hay hùa theo quyền lực sai trái chính là
phá hoại tôn giáo từ bản chất!
Khi ta làm chứng cho chân lý, chắc chắn sẽ có những
người bạn khuyên ta: “Anh thật là dại dột, can gì phải làm cho người ta ghét
mình như vậy?” Nói như thế, họ mặc nhiên cho rằng những người như Đức Giêsu hay
Gioan Tẩy giả chính là phường dại dột! Thế mà họ vẫn tuyên xưng Đức Giêsu là
Thầy của họ. Thật mâu thuẫn!
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Thời nào cũng có vô số
người sẵn sàng rao giảng sự thật, nhưng rất hiếm người sẵn sàng làm chứng cho
sự thật. Nhưng sự thật chỉ có thể tin khi có người dám làm chứng. Làm chứng thì
phải trả giá, đôi khi rất mắc. Con có sẵn sàng làm chứng không?”
18. Tiếng kêu nơi sa mạc
Trước đây ít năm, tại
Dallas, Texas có một nhân viên trong công ty đổ rác thành phố, được dân chúng
ca tụng khắp các nẻo đường ông đi. Mười bảy người viết thư cho ông Giám Đốc vệ
sinh công cộng Jach Davis, để ca ngợi người phu đổ rác George Cummings là một
người hiền lành, niềm nở và lịch thiệp với hết mọi người. Họ còn viết quả quyết
rằng: "Chúng tôi đều biết ông ta là một người Công Giáo đơn thành, một
công dân ái quốc và là một người bạn thân tình". Họ cũng nhắc lại việc
Cummings đã giúp họ mua hoa khi có người hàng xóm qua đời, việc ông nhặt được
một chiếc đồng hồ, rồi cố tìm ra chủ nhân để trao trả lại, hoặc một món đồ mà
ông cho là chủ của nó vì lầm mà vứt đi, ông cũng tìm hết cách để hoàn lại.
Ông Giám Đốc Davis đã gởi cho Cummings
bức thư với những hàng chữ này: "Mọi người đều mến chuộng ông, vì cách làm
việc của ông thật đặc biệt".
I. Gioan làm chứng cho Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay, cũng thuật truyện một người
thật mộc mạc, chất phác quê mùa nghèo nàn, chay tịnh khổ hạnh như một ẩn sĩ từ
rừng thẳm đi ra, nhưng lại được nhiều người mến chuộng đến nỗi, từng đoàn lũ
đông đảo, gồm đủ mọi thành phần xã hội, từ khắp nơi tuôn đến, say mê nghe lời
ông giảng, đấm ngực sám hối cải thiện và cúi đầu chịu Phép Rửa Sám Hối do tay
ông tại sông Jordan.
Danh tiếng ông đồn thổi đến tai những vị vọng trong
dân; do đó, các ngài đã sai các vị Tư Tế và các thầy Levi đến hỏi xem ông có
phải là Đấng Kitô, Thiên Chúa sai đến, Đấng mà muôn dân đang mong đợi không?
Khi họ hỏi: "Ông là ai?" Ông đã thẳng thắn
tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ lại nghi ông là đại
tiên tri Elia, cũng được ông quả quyết: "Tôi không phải là Elia". Sau
cùng, họ lại nghĩ ông là một vị tiên tri Thiên Chúa sai đến, cũng được ông dứt
khoát trả lời: "Tôi đâu có đáng là một tiên tri".
Thế rồi họ năn nỉ ông: "Vậy ông là ai, để chúng
tôi trả lời lại cho những người đã sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?"
Gioan khiêm tốn đáp lại: "Tôi chỉ là tiếng kêu
trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay thẳng đường Chúa đi". Câu trả lời khiêm
tốn này, tuy vắn tắt nhưng đã nói lên tất cả sứ mạng của Gioan, là làm chứng
nhân cho Chúa Kitô.
II. Làm chứng cho Chúa cách nào?
Gioan là một vị tiên tri cao trọng và diễm phúc nhất
trong các tiên tri từ trước đến nay, đã được Chúa tuyển chọn đặc biệt, được vui
sướng nhảy mừng khi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm, được thánh hóa ngay từ khi
còn trong thai mẫu, để xứng đáng là vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Ngài được
Thiên Chúa sai đến chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế một dân tộc thánh thiện, bằng việc
rao giảng Phép Rửa Sám Hối, kêu gọi mọi người cải thiện đời sống, để được xứng
đáng đón nhận Chúa Cứu Thế và Ơn Cứu Độ của Người.
Sứ mạng và địa vị của Gioan cao trọng đến nỗi, chính
Chúa Kitô đã phải khen thưởng trước mặt mọi người: "Trong các nam nhân do
phụ nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tiền Hô" (Lc 7:28). Mặc
dầu được vinh dự trước mọi người, được muôn người ngưỡng mộ, ngài không hề tự
đắc kiêu căng; trái lại, ngài càng hạ mình xuống thẳm sâu trước nhan Thiên Chúa
và trước mặt mọi người. Ngài đã công khai thú nhận địa vị thấp hèn của mình,
khi đáp lại nhóm biệt phái được sai đến hỏi ngài: "Tôi đến làm Phép Rửa
trong nước; nhưng ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau
tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho
Ngài".
Lời rao giảng chân thành, đi đôi với cuộc sống khổ
hạnh và khiêm nhu, đã đáng cho mọi người khâm phục và tin theo; bởi lẽ ngài
luôn tôn cao Đấng ngài rao giảng, còn riêng bản thân ngài, ngài chỉ tự nhận
thân phận tôi tá của Chúa, chỉ là người được sai đến để dọn đường cho Chúa.
Đời sống khiêm nhu thánh thiện đó, được chứa đựng tất
cả ý nghĩa trong lời châm ngôn, chính Thánh Nhân đã tuyên bố trước mặt mọi
người về Chúa Cứu Thế: "Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ
thấp xuống" (Ga 3:30).
III. Sứ mạng của chúng ta là gì?
Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta đều đã được Chúa
tuyển chọn và ủy thác sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, ngày chúng ta được
lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Cũng ngày đó, chúng ta được Thánh Thần Chúa xức dầu
hoan lạc, ban cho chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, phong chúng ta
làm tiên tri và sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó,
an ủi những tâm hồn đau thương buồn tủi, thăm viếng những tù nhân trong ngục
thất, giúp đỡ chia sẻ với những người cùng khổ, những người mang số phận hẩm
hiu bị đời quên lãng.
Mỗi người trong chúng ta tùy theo địa vị, chức phận
mình trong xã hội, đều phải làm chứng nhân cho Chúa, rao giảng Chúa Kitô bằng
chính đời sống thánh thiện gương mẫu của mình.
Để chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta
cũng không thể dùng phương thế nào khác, ngoài phương thế Thánh Gioan Tiền Hô
đã dùng, là luôn đề cao Đấng mình rao giảng: "Người cần phải được tôn lên,
còn tôi cần phải hạ xuống". Chúng ta cần phải đi ngược lại tâm tính tự
nhiên của con người là kiêu căng, luôn thích đưa mình lên trên mọi người, đã bị
lưu truyền do nguyên tội, vì: "Chúa thường chống lại kẻ kiêu căng và ban
ơn cho kẻ khiêm hạ" (Gc 4,6), như chính lời Chúa Kitô đã dạy: "Ai tự
nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc
14,11).
Lênin, ông tổ đảng cộng sản quốc tế, chủ trương chối
bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, với tham vọng sẽ bá chủ hoàn cần, tiêu diệt mọi
thứ tôn giáo mà ông cho là "Một thứ á phiện nguy hiểm" do bọn tư bản
tạo ra. Mộng ước ngông cuồng của ông đã chẳng bao giờ thực hiện được. Lòng kiêu
căng phạm thượng của ông thấu đến trời cao, đã bị uy quyền Thiên Chúa hủy diệt.
Ông đã chết trong cơn hấp hối kinh hoàng, đau đớn dằm vặt đến tột độ, như chính
lời Trosky, một người bạn thân tín của ông đã chứng kiến cảnh hấp hối hãi hùng
đó đã quả quyết: "Nếu bọn ác quỉ có thể chết, thì tôi thiết tưởng: Chúng
cũng chỉ chết cách ghê sợ đến thế là cùng!"
Kết luận
Để dọn lòng xứng đáng đón mừng ngày kỷ niệm Chúa
Giáng Sinh, chúng ta hãy thực thi sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, bằng
lời rao giảng sống động qua chính đời sống khiêm nhu thánh thiện của chúng ta,
như Thánh Gioan Tiền Hô đã làm gương: "Chúa cần phải được tôn lên, còn tôi
cần phải được hạ xuống" (Ga 3:30).
Hoặc như người phu đổ rác George Cummings Dalas luôn
làm vừa lòng mọi người, để mọi người phải thán phục quả quyết về ông:
"Chúng tôi biết ông ta là một người Công Giáo đơn sơ, một công dân ái
quốc, và là một người bạn thân tình". Lại được ông Giám Đốc công ty vệ
sinh công cộng để lời khen tặng: "Mọi người đều mến chuộng ông vì cách làm
việc của ông thật đặc biệt".
19. Suy niệm của Lm. Mark Link
ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?
Chủ đề: "Gioan là người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Hãy
sẵn sàng! Đấng Cứu Thế sắp đến!"
Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề “Ngày Đức
Kitô chết”. Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô tả những gì người Do thái
cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến. Đoạn văn đó như sau:
“Việc Đấng Cứu
Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia. Đó là một niềm vui ngoài
sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin. Đó là niềm an ủi cho những
nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đình nằm trên giường chờ
giấc ngủ đến. Đó là giấc mơ của người tóc đã hoa râm. Đó là điều mà trẻ em mong
được nhìn thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến. Đó là niềm hy vọng của
dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa
hẹn cho buổi sáng ngày mai”
Vì thế nên khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông
Giođan, dân chúng rất là phấn khởi. Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa
điểm không xa biển chết. Đó là tụ điểm bình dân của những đoàn hành hương và
các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến. Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi
người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới. Vì thế đó là một nơi lý
tưởng để Gioan Tẩy Giã bắt đầu rao giảng và làm phép rửa. Sứ điệp Gioan rất đơn
giản và rõ ràng: “Hãy từ bỏ tội lỗi mình… Hay dọn đường cho Chúa đến, hãy làm
một lối thật thẳng để Người đi” ( Lc. 3,3-4)
Chẳng mấy chốc, tin tức về hoạt động của Gioan tẩy
gỉa đã đến tai những nhà lãnh tôn giáo ở Giêrusalem. Vì thế họ cử một phái đoàn
gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với Gioan. Các tư tế đặc biệt lưu
ý đến Gioan vì ông là con của Zacaria, cũng là một tư tế. Trong Do Thái giáo,
điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi tư tế. Nếu có ai
là con cháu của Aaron, thì không ai có quyền cầm người ấy thực hiện chức năng
tư tế của mình. Do đó các tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và
chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.
Khi phái đoàn các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề
và hỏi Gioan: “Ông là ai?”. Gioan biết trong tâm trí họ nghĩ gì, nên ông nói:
“Tôi không phải là Đấng Cứu Thế “. Các tư tế hỏi: “nếu ông không phải là Đấng
Cứu Thế, vậy ông là ai? Ông có phải là Êlia không?”. Đối với chúng ta, câu hỏi
sau cùng này có vẻ khó hiểu. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên
tri đã được cất lên trời bằng một chiếc xe lửa vào cuối đời. Nhiều người Do
Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến. Ngay cả thời nay cũng
có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt
Qua của họ. Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế
đến. Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đã được cất lên
trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.
Họ hỏi: “Vậy ông có phải là một vị tiên tri không?”
Gioan lại trả lời: “Không!Tôi không phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia
hay Êzêkiel”. Họ hỏi tiếp: “Vậy thì ông là ai?” Gioan trả lời bằng câu nói của
Isaia: “Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho ngay thẳng để
Chúa đến”. Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy Gỉa, ta nên nhớ rằng những con
đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường
lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình,
ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những
hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người “tiền hô”
còn có một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân
thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Gỉa cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần
phải có để đón Chúa tới. Ông nói: “Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh
nhận phép rửa”. (Mc.4)
Tóm lại chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của
Gioan như sau: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người “tiền hô”cho
Ngài. Hãy chuẩn bị, vì Ngài sắp đến. Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo
tôn giáo phải làm. Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú
ý của họ vào Đức Giêsu.
Đó chính là những gì Giáo Hội làm suốt Mùa vọng. Giáo
Hội tập trung mọi chú tâm của chúng ta vào Đức Giêsu. Giáo Hội hành động giống
như vị "Tiền hô" của Ngài. Và cuối cùng Giáo Hội giải thích cho chúng
ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài
không phải chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào
ngày Giáng Sinh, mà Ngài còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa.
Tin Mừng Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: “Khi
Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và
toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai
nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê…Nhà vua sẽ nói với những người ở
bên phải: Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc! Hãy đến và hãy lãnh lấy
nước trời làm cơ nghiệp…Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi Ta
và vào lửa đời đời” (Mt.25,34-41).
Những bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói:
Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, Ông chỉ là người "Tiền hô" của
Ngài. Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài đến vào cuối lịch sử để
làm quan án xét xử chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ăn năn thống hối như khi
lãnh nhận bí tích hoà giải. Xin các bạn hãy thinh lặng và cùng cầu nguyện với
tôi:
“Lạy Cha chí nhân, con xin trở về với Cha và nói
giống như người con hoang đàng: con đã lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là
con Cha nữa. Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với
Chúa như người trộm lành mà Chúa đã hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin
hãy nhớ đến con trong nước của Chúa. Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình
yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hãy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con
bước đi như con cái của sự sáng”.
20. Chú giải của Noel Quesson
Có một người được Thiên Chúa sai đến, đó là Gioan. Ông đến
để làm chứng...
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là khuôn mặt lớn
xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa nhật II và III
Mùa Vọng nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được sáng tác từ
nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan: “Là vị Ngôn
sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu Kitô, là tiếng kêu trong
hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan
báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã nên trọn vẹn. Hỡi
vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay, Đấng Mê-si-a sẽ đến
với chúng tôi bằng con đường nào!". Và những câu chuyện tiếp của bài ca đã
lập lại một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan trong Mùa Vọng.
Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt 11,9): Do đó ông
là con người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có trước và cái đến
sau.
Lạy Chúa, xin giúp con biết trung thành với nguồn góc
của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ tới mọi cái mới mẻ mà Chúa muốn
chúng con thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng
Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp biết bao!
Gioan là người chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta, Gioan Tẩy Giả
như "người rao giảng lòng sám hối" chỉ có Tin Mừng thứ tư cho ta hay,
ông được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “người chứng thứ nhất của Đức Giêsu
Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử dụng trong tiếng Hy Lạp, ở
thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là vị “chứng nhân đầu
tiên" của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng này: Thế
gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết án này chỉ
nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng nhân mới xuất hiện
và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá" được sử dụng 14 lần, và động
từ "làm chứng" được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu tiên đã xuất
hiện, đó là Gioan Tẩy giả: "ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Liệu tôi có
dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người không?
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái đến hỏi
ông: "Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?"
Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự vấn về vai trò
chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng cho Đức Kitô. Do
đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề cho những người
đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng ta có trở thành
vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong cung cách đối xử
của ta có điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không? Lạy Chúa, xin giúp
chúng con sống cách nào để những người sống chung quanh chúng con, các bạn đồng
sự, những người quen biết đều tự hối về "bí quyết” chúng con đang sống.
Vậy ông là ai?
Tôi không phải là Đấng Kitô... cũng không phải là vị Ngôn
sứ... tôi là một “Tiếng kêu”
Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch của Gioan, người
chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm biết. Vấn nạn thực sự
đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó là: "ông có nhận
mình là Đức Kitô không?". Rồi một câu hỏi khác lại được gợi lên: “Thôi
được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?”
Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai: ông khiêm tốn
chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô... Rồi ông nói thêm, ông chỉ muốn là
một "tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo Hội và mỗi Kitô
hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: “Hỡi Giáo Hội, Giáo Hội có
thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi Kitô hữu, bạn có thể nói
gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?". Không, tôi không phải là Đức Kitô.
Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con
khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như những “kẻ độc quyền thừa
hưởng" Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết
Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi duy nhất? Tôi tin
rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các ông, ở giữa những hy
vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của các ông! Tính ưu việt
duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là “nhận biết" và gọi tên
" Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm kiếm, Đấng đang hiện diện
trong cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày 10-12-1948, khi Liên Hiệp Quốc công bố
bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận ngay ra rằng, đó là một sự
hiện diện "của Đấng đang" ở giữa cho dù Người chưa được người ta nhận
biết. "Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền sống của ta... Ta ở tù, bị ngược
đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền được bảo vệ nhân phẩm cuả ta....Nỗi
khát vọng lớn lao của nhân loại là được sống công bình hơn, thì đó là sự hiện
diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết bao người thuộc mọi tôn giáo các vị
lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ, đã có thể công bố một văn kiện như
thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời đại sao? ở giữa các ông vẫn có một
vị nào đó... cho dù các ông chưa gọi được tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có
thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận phong trào đề cao nhân quyền trên
đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường nhạo báng những quyền đó, mỗi lần
ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao ta lại không vui mừng trước yêu
cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết
rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức Kitô mà ban tính con người đã được
nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều đó không phải chỉ có giá trị cho
các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi người thiện chí, được ơn Thánh hoạt
động cách vô hình trong tâm hồn...", như Công đồng Vatican II đã quả quyết
rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không biết... Người sẽ đến...
Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được người đời nhận
biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét bão giông. Thiên
Chúa không phải là “kẻ chà đạp” hay "thống trị". Người như
"tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ thổi tới đâu". (Ga
3,8). Thiên Chúa là “Đấng tự để cho người ta chà đạp, đóng đinh, buộc tội”. Như
thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự thật về Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể
là "Thiên Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt được “Bản thể " của Người.
Và về căn tính của Đức Giêsu "(Vậy ông là ai'), tất cả mọi dò tìm của lý
trí cũng đều bất lực. Người thực sư là "Thiên Chúa không thể biết được”,
là "Thiên Chúa dấu ẩn"!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra Chúa, ngay tại
nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong thành công, trong
tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!). Thế mà con chỉ
thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay nghề nghiệp, và
nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra sự hiện diện
đáng bị che dấu của Chúa.
Này
bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm
được một nguồn vui sướng mà không ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được,
niềm vui Magnificat của những người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông
thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm vui của Người "bây giờ đã trọn vẹn" (Ga
3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai dép cho Người...
Gioan Tẩy Giả là con người “khiêm tốn xóa bỏ đời mình
trước Đấng ông loan báo" Gioan Tẩy Giả, đó là chứng nhân đúng nghĩa nhất.
Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. ông từ chối tước hiệu Kitô
(Ga 1,20). ông mong ước được 'biến đi" để Người “lớn lên" (Ga 3,30).
Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối
(Ga 5,35). Ông là người “tôi tớ" không xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga
1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã
hết sức hoàn tất "tác vụ " của mình, bằng cách tự đình chỉ công việc
của mình để làm 'lợi ích cho Đức Giêsu, bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình
để gđi họ đến theo một Đấng khác” (Ga 1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi
thấy vinh quang của Đấng Phục sinh, trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ:
“Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi
ai khác " (Mt. 11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả không những là một chứng
nhân" tuyệt hảo, mà cũng là "mẫu tín hữu" tiêu biểu: “Kẻ không
thấy nhưng vẫn tin “ (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con có khả
năng tự xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con
"tình yêu điên cuồng" đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm vui chúng
con được trọn vẹn…
Tôi đây làm phép rửa bằng nước
Đó là những chuyên viên “thanh tẩy", các tư tế
và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn hoi (Ga 1,19), đến kiểm chứng
tư cách chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động “tha tội" (Mc l,4)
của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo của Giêrusalem ngần ngại và
cấm đoán (Ga 1, 1 9 ). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi Gioan, chính là nhóm người
pharisêu, những kẻ “sạch”, những “Peruoushim", biết trọn vẹn lề luật, các
quy định, những điều được phép hay cấm đoán... (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những
người Pharisêu trung hậu này, khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lạy
bỏ qua Đấng duy nhất có quyền tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ
chối Ngài. Bởi vì chính Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người
thừa tác và tôi tớ hèn mọn tha tội... vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước...
nhưng sau ông, sau cử chỉ làm phép rửa có tính nghi thức của ông, thì
"chiên xóa bỏ tội trần gian" sẽ đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noen, xin giúp chúng con
mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan. Họ đã từ Giêrusalem đến...
từ thành thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà,
Thiên Chúa lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị thánh
sử rất tin vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạch
tới hai lần (Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng
"thừa sai", không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng
con. Xin mở rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa... trên
bờ sông bên kia.
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Chú giải chi tiết
“Người Do thái": Nơi
Gioan, hạn từ này đôi khi ám chỉ các thành phần của dân Israel (3,25;
4,9.22..); nhưng trong hầu hết mọi trường hợp nó nhắm đến họ như những người
đại diện cho một thế giới đang đi dần đến chỗ ngộ nhận rồi đối nghịch với Đấng
Thiên Chúa sai đến, nghĩa là nó đặc biệt ám chỉ các quyền bính hiện hữu (2,18;
5,10-18; 7,1.13; 9,22 v.v.)
"Họ đã được biệt phái sai
đến": người ta không biết phải dịch câu 24 này sao cho
đúng. Có thể hiểu rằng phái đoàn gồm có cả Biệt phái, hay chỉ gồm Biệt phái,
hoặc do Biệt phái sai đi (như cách dịch của BJ và Nguyễn thế Thuấn ở đây muốn
hiểu). Nhưng cách dịch sau cùng này, nếu đúng, lại khác nữa nghi ngờ sự hiểu
biết mà tác giả Tin Mừng thứ 4 có thể có về Do thái giáo trước năm 70. Các biệt
phái bấy giờ thù nghịch với các tư tế và Lêvi (l, 19) những người mà họ không,
có quyền sai phái được. Thành thử câu này là một trong các!ý chứng để gán Tin
Mừng thứ 4 không phải cho Gioan sứ đồ, con của Dêbêđê, nhưng cho một Gioan khác
(“Gioan Trưởng lão", mà papias đã nói đến?) môn đồ của vị sứ đồ.
"Vậy tại sao ông dám thanh
tẩy?": Cái làm bận tâm quyền bính tôn giáo hơn cả chính
là phép rửa giao ban. Vì đây không phải là các nghi thức thanh tẩy thường thấy
giữa người Do thái mà trong đó mỗi người tự rửa cho mình, sông là một phép rửa
được ban với uy quyền do một người vốn là thừa tác viên độc hữu. Đàng khác, đây
chẳng phải là Gioan làm phép rửa cho lương dân, để họ gia nhập Do thái giáo,
nhưng là cho những người Do thái tinh ròng. Sau cùng, ông đặt phép rửa này
tương quan với Nước Thiên Chúa mà ông loan báo là gần đến; khiến cho người ta
phải nghĩ rằng ông có những tư tưởng, hoài bão thiên sai. Tất cả những điều đó
phải được làm sáng tỏ kỹ lưỡng.
"Bêthania, bên kia sông
Giođanô": Khó xác định địa danh này. Thực vậy, một vài thủ
sao ghi một tên rất là bác học: Bethabara, địa danh hy bá có nghĩa "chỗ
lội qua được". Cách viết này không hẳn là không nguyên thủy, nhung có thể
ngày xưa, ngoài ngôi làng của Mátta và Maria, có một nơi gọi là Bêtania mà nay
bị lãng quên. Nếu nhân cách đọc Bethabara, chỗ lội qua được", thì đấy là
một khúc cạn của sông Giođanô nằm phía bắc Biển chết. Như thế, Tin mừng được
mặc khải tại chính địa điểm mà ngày xưa tuyển dân đã vượt qua sông Giođanô để
đi vào đất hứa. Một lối điển hình luận như chẳng phải xa lạ với thánh Gioan.
Thành thử không cấm ta đề cập đến nó, mặc dầu hình như đây là tư tưởng của
origène hơn là của thánh sử.
Kết luận
Như vậy bản tổng kết của ngày
thứ nhất này còn khá tiêu cực Lời nói của vị Tẩy giả như tạo nên một khoảng
trống cần được lấp đầy. Gioan Tẩy giả không phải là Đức Messia. Cũng chẳng phải
là Elia hay Đấng Ngôn sứ. Dĩ nhiên ông làm phép rửa, nhưng chỉ trong nước mà
thôi. Ông tự nhận là không đáng cởi giây giầy cho Đấng đến sau mình. Như mọi
người Do thái tới chất vấn, ông cũng chờ đợi Đức Messia. (ông không biết gì về
Người hơn họ. Ông chỉ hay một điệu là ông xuất hiện trước Người. Để Chiên Thiên
Chúa, tuyển nhân của Thiên Chúa được mặc khải, cần phải đợi "ngày” thứ
hai.
Đem ra khỏi văn mạch chung, bản
văn của chúng ta còn nhấn mạnh nhiều đến tính cách tương đối, tính cách phụ tùy
hoàn toàn của công việc vị Tẩy giả. Nét này - nếu đem so sánh với Tin mừng Nhất
lãm - đúng là nét căn bản trong hình ảnh mà Tin mừng thứ 4 phác họa ra cho ta
về vị Tiền hô. Theo Tin mừng thứ 4, Gioan Tẩy Giả chỉ là nhân vật trong đó tập
trung niềm chờ mong của cả Cưụ ước.
Ý hướng bài giảng
1. Cuộc
xuất hành thứ nhất là cuộc xuất hành từ chốn nô lệ Ai cập về miền đất hứa dưới
sự hướng dẫn của Môisen, ngang qua Biển đỏ và sa mạc, với manna làm của ăn và
mạch suối hốc đá làm thứ giải khát. Cuộc xuất hành mới là cuộc xuất hành đưa
người Do thái từ cảnh lưu đày Babylon về lại Thánh địa, dưới sự hướng dẫn của
Thiên Chúa, Mục tử của dân, ngang qua sa mạc Syria đầy chướng ngại đối với
những kẻ thoát chỉnh lưu đày. Đó là cuộc phục hưng Israel để đợi chờ Đấng Messia đến.
Vào thời của Đấng Messia, ta thấy cuộc xuất hành được làm lại. Gioan Tẩy giả,
đứng ở sa mạc, bên bờ sông Giođanô, đưa đám người thống hối qua con sông thánh
để tiến về Chúa Kitô (Mt 3, 1-11). Chúa Giêsu khai mạc cuộc đời công khai trong
sa mạc của cám dỗ và của đói khát (Mt 4,1- 11). Việc người đi trên nước (Ga 6,
16-21) mở đầu cho lời hứa ban manna đích thực (Ga 6,31-34) là Mình Người, bánh
sự sống chân thật (Ga 6,35), của ăn nuôi hồn (Ga 6,51-58). Việc Người bị gương
cao trên Thập giá thể hiện hình ảnh biểu tượng con rắn đồng thời Xuất hành (Ga
3,4). Rồi Chúa Giêsu bàn về cuộc xuất hành của cái chết Người với Môisen và
Elia trong cuộc biến hình trên núi (Lc 9,31 ). Vào ngày Thăng thiên, Người hoàn
tất cuộc xuất hành về với Cha (Cv 1,9). Đến lượt chúng ta, trong Giáo hội của
Chúa Kitô, chúng ta đi qua nước rửa tội và, nhờ được Thánh Thể nuôi dưỡng,
chúng ta trở nên đủ sức thắng vượt các cơn cám dỗ vốn làm cho ta xa Chúa (lCr
10). Việc biến cải tâm hồn và lòng thống hối làm nên cuộc xuất hành của tội
nhân, là kẻ chạy trốn ách thống trị của tội ác và tìm lại được, nhờ ơn tha thứ,
sự bình an của tâm hồn (Mt 3,1-3.). Cái chết là cuộc Xuất hành đưa linh hồn nào
đã dựa vào Chúa, tìm gặp Chúa Kitô và Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu (2Cr
5,6- 10).
2. Sau
bài tựa là phần nhập đề tổng quát và là tóm lượt của cuốn sách, Gioan đặt ngay
đầu Tin mừng của ông khuôn mặt vị Tẩy giả. Đối với thánh sử, ông này rõ ràng là
khuôn mặt của mùa Vọng, là điển hình của con người đứng giữa quá khứ vào thời
Chúa giá lâm. Thành thử chúng lạ gì khi, suốt mùa Vọng, giáo hội nhắc đến khuôn
mặt của Gioan trong nhiều bài Tin mừng Chúa Nhật, để nói cho chúng ta biết rằng
mùa Vọng, mùa Vọng của chúng ta là gì: vì nếu Chúa đã đến, Người cũng còn phải
đến thực sự. Người đã có đấy, nhưng vẫn còn là vị Thiên Chúa mai ẩn giữa chúng
ta, và vì thế chúng ta vẫn luôn luôn là những kẻ không có nơi cư ngụ vững chắc
đời này, vẫn còn là lữ khách xuất hành đứng giữa thời gian và vĩnh cửu, còn là
những kẻ phải chờ đợi Chúa đến, những kẻ vẫn cử hành Mùa Vọng ngay cả trong mùa
Giáng sinh, những kẻ phải hiểu rằng đây luôn là khởi điểm và thời gian của cuộc
hành hương, đây luôn là cuộc hành trình đi qua thời gian trong nguy nan gian
khổ, cuộc hành trình vững tâm đi đc'n ánh sáng vĩnh cửu mà chúng ta còn chờ
đợi. Đối với chúng ta, điều đó có nghĩa là vĩnh cửu chưa có đấy, nhưng không có
nghĩa là chúng ta được phép bất quan tâm đến ánh sáng đã thắp lên, bất lưu ý
tới trần gian này. Chúng ta phải lấy vị Tiền hô làm kiểu mẫu.
3. Kinh
thánh nói Gioan Tẩy giả đã bị các sứ giả của người biệt phái chất vấn về lai
lịch, trong thâm ý xin ông làm một cử chỉ, nói lên một lời để hợp pháp hóa cuộc
sống, công việc của ông. Và ông đáp lại: ''tôi không phải là Chúa Kitô".
rằng đời chúng ta há chẳng có chuyện tương tự, một kinh nghiệm tương tự, khi
chúng ta phải kiên quyết mà bảo: Không! Tôi không phải thế. Tôi đâu có phải là
một người mạnh, một kẻ chẳng cần Thiên Chúa và chẳng cần tìm hạnh phúc nơi
Ngài". Vấn đề luôn luôn là xem con người tôi có bám chặt vào 'kinh nghiệm
ấy chăng, có nói tiếng không chăng, vì ý nghĩa đích thực của đời tôi hệ tại chỗ
thừa nhận ra sự yếu đuối của mình, tội trạng của mình và nhường chỗ cho cái duy
nhất có thể đi vào đời tôi và ban cho nó ý nghĩa. Khắp nơi và luôn mãi, chúng
ta phải từ bỏ sự tự tôn lẫn thói kiêu ngạo bằng cách bảo: "Tôi không phải
thế. Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, theo kiểu nói của vị Tiền hô".
4. Ngày
nay có nhiều kẻ đang bao quanh ta mà chất vấn: "Kitô hữu, bạn là
ai?". Họ là người ngoài Kitô giáo, người quan sát vô tư hay người lưu ý
đến lối sống của ta. Cũng hỏi ta như thế lương tâm ta ("Mày nói sao về
chính mày") hay những kẻ, trong Hội thánh, đang coi sóc linh hồn ta và
phải trả lẽ về ta trước mặt Chúa như: hàng giáo phẩm, cha giải tội, cha linh
hướng.
5. Nếu
thành tâm, ta sẽ không chấp nhận bị tưởng lầm, tưởng lầm là Chúa Kitô (như thể
ta đại diện Người hoàn toàn, hay thử coi mệnh ngang hàng với Người), tưởng lầm
là các ngôn sứ có trách nhiệm về vận mạng của kẻ đồng đạo) và đòi bất khả ngộ,
tưởng lầm như là bậc thánh vì chúng ta là những tội nhân (1Ga 1,8).
6. Với
lòng khiêm tốn của vị Tẩy giả, hãy chấp nhận trở thành một tiếng nói, một âm
vang của Ngôi lời, Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga1,1-2). Dù chúng ta là phản
ảnh của vinh quang Chúa Kitô (2cr 4,6), là hình ảnh sống động của Con Thiên
Chúa (Rm 8,29), đấy vẫn là một ân huệ nhưng không của Ngài (Ep 2,8). Dù có thể
làm gì cho Ngài, chúng ta bao giờ cũng chỉ là những tôi tớ (Lc 16,16).
22. Chú giải và suy niệm của Fiches Dominicales
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Ngài chỉ là chứng nhân của sự sáng
Bài đọc cho Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay lấy
trong
Tin Mừng của thánh Gioan. Trong lúc lời mở đầu được
viết như một thánh thi: "Từ đầu đã có Ngôi Lời..., thì bỗng nhiên cung
giọng trên như bị ngắt ngang (6-8), tác giả làm xuất hiện "một người"
tên là Gioan.
Khi khẳng định Gioan được "Thiên Chúa phái
đến", thánh sử đã xếp ông vào hàng những ngôn sứ lớn.
Ngài được sai đến như "một chứng nhân" để
làm chứng cho “Ánh Sáng”, bởi vì chính ngài không phải là ánh sáng.
2. Ngài chỉ là đấng mặc khải sự hiện diện huyền nhiệm
Từ câu 19 đến câu 28, chúng ta thấy Gioan thực hiện
điều mà đoạn mở đầu đã loan báo về ngài.
Bị thúc bách bởi người Do Thái (phải hiểu là giáo
quyền của phái Giuđa) muốn biết rõ ngài có phải là Đấng Mêsia họ đang mong đợi
hay không, thì ba lần Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng cách phủ nhận:
Không, ngài không phải Đấng Mêsia cho dù hành động
làm phép rửa của ngài gợi lên thời kỳ đã mãn đang đến, và có thể làm cho người
ta tin như thế.
Không, ngài không phải là "Êlia”, đấng sẽ đến
trước Đấng Mêsia như người ta khẳng định từ khi ông được cất lên trời trong cỗ
xe bằng lửa (xem Mal. 3,23: "Này đây Ta sẽ sai Êlia, vị ngôn sứ trước khi
ngày của Giavê đến").
Không, ngài không phải là "vị tiên tri vĩ
đại" nhân vật mà Môsê đã loan báo sẽ đến (trong Đệ Nhị Luật 18,15-18).
Trước sự gạn hỏi của đối phương: "Nếu ông không
phải là Đấng Messia, là Êlia hay vị ngôn sứ vĩ đại, tại sao ông lại làm phép
rửa?”. Gioan Tẩy Giả xác định vị trí của mình đối với Đấng ngài loan báo, ngài
có hai vai trò:
Trước hết ngài là "tiếng kêu" mở đường cho
Đấng mà họ không biết. Ngài thực hiện lời tiên tri trong Isaia 40 nơi bản thân
và trong sứ mạng của ngài: "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: hãy san bằng
đường của Chúa như ngôn sứ Isaia đã loan báo" (bài đọc thứ nhất Chúa nhật
II Mùa Vọng).
X. Léon Dufour dẫn giải: Tự giới thiệu mình là
"tiếng kêu”, Gioan đảm nhận phẩm cách cao trọng của Kinh Thánh. Nếu tự
ngài không có gì cả cho riêng mình, ngài nhận lấy Lời Hứa trong chính bản thân
ngài. Nếu thánh sử không diễn tả những nét đặc biệt của Gioan Tẩy giả, là vì
muốn mặc cho ngài khuôn mặt của Cựu ước để qua nhân chứng này, chính Thánh Kinh
của Israel nhận ra và chỉ rõ Đức Kitô là Đấng Mêsia. Từ lúc mở đầu cuốn sách
cái nhìn này là chủ yếu trong suốt cuốn Tin Mừng của Gioan. (Sđd., Tr. 161).
Sau đó, ngài là đấng làm phép rửa "trong nước,
phép rửa khai tâm để hướng về phép rửa "trong Thánh thần”. A. Marchadour
viết: "Đối với Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu phải được tiếp nhận như một ân huệ
nhiệm mầu của Thiên Chúa, đấng mà không ai biết nguồn gốc. Chính ông cũng không
xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, một việc chỉ do hàng tôi tớ làm mà thôi. Điều
đó nói lên sự cách biệt giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả” ("Tin Mừng thánh
Gioan", Centurion, tr. 43).
Sự hiện diện của Đấng Mêsia sẽ hoàn tất lời Chúa hứa
với Israel.
Điều cần thiết là biết được Đấng sẽ đến là ai. Ít lâu sau, Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ
cho thấy Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa" (Tin Mừng Chúa nhật II, năm
B).
BÀI ĐỌC THÊM
“Đáp lời kêu gọi của
Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy sẵn sàng để đón rước con Thiên Chúa làm người”.
(Sintas trong: "Lời Chúa để suy
gẫm và dọn bài giảng năm B", Mediaspaul, tr. 14-15).
Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ trong cả cuộc sống của
ngài... lời dạy của ngài là một lời kêu mời sám hối và đền tội. Đến nỗi giáo
quyền Giêrusalem lo lắng và sai người đến hỏi ông: "ông là ai?". Đằng
sau câu hỏi này, còn có một câu hỏi khác: ngài có phải là Đấng Mêsia mà tất cả
truyền thống Do Thái chờ đợi không?
Gioan khẳng định ông không phải là Đấng
"Mêsia", đồng thời ông loan báo một điều lạ lùng: Đấng Mêsia đã ở giữa
họ mà họ không biết. Họ hãy mau chuẩn bị. Nếu muốn nhận ra Người thì hãy đọc
lại lời tiên tri Isaia. Lời đó sẽ nói cho hay cứ dấu nào họ sẽ nhận biết Người.
Isaia đã hứa những gì? Chúng ta vừa nghe ông nói.
Đấng Mêsia không tỏ mình ra trong sự huy hoàng mà loài người thường gán cho
thần thánh. Ngài đến với người nghèo để loan báo Tin Mừng cho họ. Ngài đến với
người tàn tật để loan báo họ sẽ được lành. Ngài đến với tù nhân để loan báo họ
sẽ được tự do.
Để gặp được Đấng Thiên Chúa sai đến, điều quan trọng
là chúng ta nhận ra mình đứng về phía những người mà Người được sai đến. Nếu
chúng ta không muốn sống nghèo giữa người nghèo, chúng ta sẽ không gặp được
Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta không nhận ra mình là người bệnh hoạn, và trái tim
tan nát hay bị tù đày, Giáng sinh đích thực sẽ không phải là của chúng ta.
Tự nhận và muốn mình là người nghèo của Thiên Chúa,
đó là thống hối, đó là phép rửa mà chúng ta được Gioan mời gọi, nếu chúng ta
muốn dọn mình để mừng Con Chúa làm người. Lẽ tất nhiên sự hoán cải này là bổn
phận thiêng liêng và thuộc nội tâm. Nhưng nếu sự tiến triển bên trong không
được diễn tả ra bên ngoài bằng việc làm và một đời sống cụ thể thì không có gì
là thật. Bởi thế, Mùa Vọng mới gọi chúng ta đến gặp những anh em nghèo vật chất
hay tinh thần, bệnh hoạn và tù nhân. Không phải với một thái độ trịch thượng,
thương hại. Ta phải đến với họ như đến với người anh em, bởi lẽ những gì biểu
hiện ra trong thân xác, trong cuộc sống của họ, là dấu chỉ những gì xảy ra
trong thâm tâm ta. Chúng ta thuộc về họ và họ thuộc về chúng ta. Có lúc do nghề
nghiệp mà chúng ta đến gặp họ. Nếu không, chúng ta cũng có thể tình nguyện đến
gặp họ. Lẽ tất nhiên, trước vô vàn những khốn khổ, chúng ta cũng không làm được
bao nhiêu. Nhưng ít ra nó cũng gợi lên trong ta niềm hy vọng đích thực mà đôi
khi chúng ta cũng cần có. Niềm hy vọng ấy giúp ta quay trở về với Thiên Chúa để
ước ao Ngài ban cho ta một Đấng Cứu Độ, Đấng có thể hoàn tất mỹ mãn những gì mà
lòng quảng đại của chúng ta chỉ mới bắt đầu. Niềm hy vọng ấy cũng sẽ cho ta của
những việc chúng ta định làm và đã bắt đầu dù cho là thật nhỏ bé.