Mẹ Maria đã không chỉ thưa
lời xin vâng một lần duy nhất, nhưng Mẹ xác quyết lời xin vâng cơ bản đó
rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của Mẹ. Mỗi người chúng ta đều đã
từng nói lời xin vâng, khi chúng ta đảm nhận những cam kết và trách
nhiệm. Khi nói lời xin vâng cơ bản, là chúng ta thực hiện một cú nhảy
vào bóng tối, bởi vì chúng ta không biết được đầy đủ những điều đó liên
quan đến điều mà chúng ta đang đảm nhận. Điều này chỉ được mặc khải từ
từ cho chúng ta trong khi chúng ta tiến hành. Do đó, chúng ta cũng phải
xác quyết lời xin vâng cơ bản của chúng ta, không chỉ một lần, mà là
nhiều lần, và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta giữ được lòng trung
thành.
Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: 2Sm 7,1-5.8b-12.14a,16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38
MỤC LỤC
1. Đức Trinh Nữ Maria
Nhân vật cuối cùng
mà phụng vụ muốn trình bày với chúng ta trong Mùa Vọng, đó là Đức Trinh Nữ
Maria.
Thực vậy, điểm nổi
bật của Mẹ Maria không phải là việc Mẹ được lôi kéo vào những sự kiện lạ lùng,
nhưng chính là thái độ của Mẹ trước công trình cứu độ của Thiên Chúa đang diễn
ra một cách khác thường. Không giống với một Giacaria ngờ vực, Mẹ Maria đã trả
lời: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. Một lời xin
vâng có tính cách phó thác, dấn thân vào một công trình đầy những điều mới lạ,
vượt trên mọi dự đoán. Một lời xin vâng đầy tin tưởng bởi vì Mẹ Maria đã đón
nhận Con Thiên Chúa làm người trong lòng tin trước khi đón nhận Ngài nơi thân
xác của mình.
Sau này khi người ta
báo cho Chúa Giêsu biết có mẹ Ngài đang chờ Ngài ở ngoài, thì Ngài đã khẳng
định: Những người nghe và thực hiện lời Ngài chính là mẹ và anh em của Ngài.
Không phải Chúa Giêsu muốn phủ nhận địa vị người mẹ của Đức Maria mà trái lại,
Ngài muốn khẳng định rằng Đức Maria đã là một người mẹ trọn vẹn của Ngài. Mối
quan hệ giữa Đức Mẹ và Ngài không chỉ là quan hệ máu mủ ruột thịt mà còn là
quan hệ tinh thần.
Với chúng ta cũng
thế. Dọn đường Chúa, tiếp đón Chúa có nghĩa là lắng nghe và thực hiện lời của
Chúa. Đó là con đường chắc chắn nhất để đi vào mối quan hệ mật thiết với Ngài.
Lời của Ngài thực sự đã đưa chúng ta đi vào một con đường mới, một cuộc sống
mới. Lời của Ngài đã lôi kéo chúng ta ra khỏi đền thờ, ra khỏi thành thánh để
đến với những con người đang phải vật lộn giữa cuộc sống. Lời của Ngài dẫn
chúng ta đến với những người nghèo khổ lao động, nhưng kẻ đau ốm, bệnh tật.
Không phải chỉ để nói lên sự an ủi mà còn là để đem lại cơm áo và sự chạy chữa.
Việc tiếp nhận Chúa không phải chỉ diễn ra trong mùa vọng và mùa giáng sinh, mà
còn phải diễn ra trong toàn bộ cuộc sống chúng ta. Và như thế, chuẩn bị tiếp
đón Chúa chính là học hỏi lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống của
chúng ta vậy.
2. Mừng Vui Lên
(Trích trong
‘Manna’)
Suy niệm
Khi suy niệm mầu
nhiệm Nhập Thể, chúng ta thường nghĩ tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem. Thật ra
mầu nhiệm này đã bắt đầu từ sau tiếng Xin Vâng của Đức Maria ở Nagiarét.
Sau tiếng Xin Vâng
ấy, Ngôi Lời đã thành một thai nhi, lớn lên trong lòng mẹ như hàng tỉ con người
khác, cần chín tháng mới có thể cất tiếng khóc chào đời.
Ngôi Lời không lẫm
liệt từ trời bước xuống. Ngài muốn là người trăm phần trăm, nên Ngài cần một
người mẹ. Ngài đi ra từ lòng mẹ: mong manh, yếu đuối. Ngôi Lời đã thành một
người như chúng ta, chia sẻ trọn vẹn phận người như chúng ta, trừ phạm tội.
Ngôi Lời đã là người, và mãi mãi là người. Ngài đã đi hết hành trình cuộc sống
với tất cả nỗi buồn vui, âu lo và trăn trở. Chẳng ai hiểu chúng ta bằng Ngài.
Ngài chẳng xa lạ với những gánh nặng của cuộc sống. Hôm nay Ngôi Lời vẫn là
người, ngự bên Chúa Cha. Có một người được tôn vinh ở giữa lòng Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nhập Thể
đâu phải chỉ ở Bêlem, vì Ngôi Lời mãi mãi là người, người Anh trưởng, dẫn đưa
chúng ta vào cung lòng Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm
người dạy ta yêu trái đất. Trái đất chỉ là một trong số hàng tỉ tỉ vì sao,
nhưng nó vẫn có thế đứng ưu việt vì là nơi Con Thiên Chúa đã đặt chân, đã sống.
Bầu trời, rừng xanh, mạch nước, biển khơi... tất cả phải được gìn giữ cho thanh
khiết. Trái đất là nhà của con người, nhưng cũng là ngôi nhà của Con Thiên
Chúa.
Con Thiên Chúa làm
người dạy ta yêu cuộc đời, yêu mảnh đời nhỏ bé của mình. Có lắm người dễ dàng
tìm đến cái chết vì thấy bế tắc, tuyệt vọng, vì thấy đời vô nghĩa.
Mảnh đời của Đức
Giêsu không phải chỉ màu hồng: long đong với phận nghèo, ê chề vì thất bại, bị
tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài đã sống mảnh đời ấy cho đến
cùng, vững tin đến cùng vào tình Cha, ngay giữa vực sâu và tăm tối.
Con Thiên Chúa làm
người dạy ta yêu mọi người. Từ khi Con Thiên Chúa mang khuôn mặt của con người
thì mọi người đều mang khuôn mặt của Thiên Chúa. Tất cả nhân loại đều là anh em
dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm... Xúc phạm con người là
xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Noel đem lại cho ta
sự bình an sâu thẳm. Bình an cho trái đất đang bị tàn phá. Bình an cho những
người đang sống trong ngõ cụt. Bình an cho chúng ta, cho mọi người. Bình an của
Giêsu.
Gợi y chia sẻ
Nhiều bạn trẻ tự phá
hủy đời mình bằng ma túy, thuốc lá, rượu bia, đua xe, ăn chơi trụy lạc... Theo
ý bạn, đâu là lý do chính dẫn đến thái độ đó?
Ai trong chúng ta
cũng có những người bạn đang mất bình an, đang cần được nâng đỡ hay tha thứ.
Mùa Noel này, bạn định làm gì cho họ?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con
Thiên Chúa, Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận
người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường
được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu, nếu
có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã
buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ
rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để
con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu
đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những
thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn
hơn. Amen.
3. Khiêm nhường đón nhận
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương
Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi
dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông
lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo:
Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép
kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi
không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương:
Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba
cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một
cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho
ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho
Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp
được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục
vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai
cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa
chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm
hồn khiêm nhường đón nhận.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời
sống bình dị. Sinh ra và
lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh.
Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp
nhà cửa.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái
độ ứng xử. Trước mặt
thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan
báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa
nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại,
Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa
thương ban.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn
toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân
trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn
Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng
tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình
của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý
Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó
thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt
của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu
luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta
sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh
liệt đến thế nào.
Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ
chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong
cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ
yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại
bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn
không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì
thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới
chân thánh giá.
Thái độ khiêm tốn
chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng.
Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận
được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã
nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa,
là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa Vọng là mùa chờ
đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư
đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội
lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm
nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó
thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của
Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ
đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria,
xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
Gợi ý chia sẻ
1) Bạn có nhận thấy
sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?
2) Từ bỏ ý riêng có
dễ không?
3) Có khi nào bạn
cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?
4) Khi đã hiểu rõ
gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?
4. Thiên Chúa Đến Xây Nhà Ngài
(Guy Morin)
Thiên Chúa xây dựng cách mạnh
mẽ và tự do
Nhà, cũng như thức
ăn và áo mặc, là một nhu cầu sơ đẳng của con người. Nó mang đủ mọi hình thức:
nhà ở, trường học, bệnh viện. Khi có xây cất, thì có sự sống. Ngay cả những
làng ma, như là Val Tal Jalbert, cũng chứng tỏ là có sự sống trong quá khứ. Để
bao đảm đời sống của mình, con người đưa ra những dự tính về nhà cửa.
Thiên Chúa, Đấng
hằng sống, cũng vạch ra những dự án. Thánh Kinh thường trình bày Ngài như Đấng
xây cất. Nhưng lối xây cất của Ngài khác với chúng ta, những dự án của Ngài
cũng vậy. Những bài đọc hôm nay nêu cho chúng ta hai thí dụ.
Dự án của Đavít
Khoảng 1000 trước
Công nguyên, Đavít đang thống trị ở Israel. Ông đã thắng kẻ thù, thống
nhất đất nước, biến Giêrusalem thành thủ đô và xây cất lâu đài của ông ở đó.
Là một vị vua đạo
đức, ông cảm thấy áy náy lương tâm: “Tôi ở một ngôi nhà bằng gỗ bá hương còn
hòm bia Thiên Chúa lại ở trong lều”. Ông quyết định xây một đền thờ cho Thiên
Chúa. Ông muốn dâng cho Thiên Chúa một nơi ở ổn định. Đây là một dự án phát
xuất từ một bản tính tốt nhưng lại quá giống cách người ngoại giáo cư xử với
những thần minh của họ. Đavít muốn đặt Giavê vào trong thủ đô của mình, sở hữu
Ngài, nắm Ngài trong tay mình. Nhưng Giavê khác hẳn. Ngài tự do và độc lập đối
với con người. Ngài không chịu bị nhốt vào một chỗ vì Ngài di động và hoạt
động. Chính Ngài đã đưa Israel
từ xứ Ai Cập lên.
Ngôn sứ Nathan cho
Đavít biết sự từ chối của Thiên Chúa. “Có phải ngươi sẽ xây cho Ta một nhà để
Ta ở chăng?”… Thiên Chúa cho ông biết rằng chính Ngài sẽ tự làm nhà cho Ngài…
“Dòng dõi ngươi và vương quốc của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta”.
Thiên Chúa từ chối
dự tính của Đavít nhưng trái lại, Ngài hứa với ông một điều tuyệt vời: một dòng
dõi, một hậu duệ vĩnh viễn. Thiên Chúa cam kết tương lai, tương lai của Ngài
với dân Ngài. Ngài nắm sáng kiến vì Ngài là Thiên Chúa tự do. Ngài đặt dự tính
của Ngài bên dự tính của con người.
Dự tính của Thiên Chúa
Một ngàn năm sau,
Thiên Chúa đã tự tay thực hiện lời hứa với Đavít. Con Một Ngài sẽ mặc lấy xác
phàm và sẽ làm con của dòng họ Đavít, vì Maria, mẹ của Con Ngài, đã đính hôn
“với một người thuộc dòng họ Đavít tên là Giuse”. Như vậy Thiên Chúa thể hiện
cách tuyệt vời dự định của Ngài là ở với loài người. Thánh Luca kể lại cho
chúng ta việc này đã được thực hiện như thế nào. Cũng như trong trường hợp với
Đavít, Thiên Chúa nắm tất cả sáng kiến: Ngài điều khiển, nhưng trong sự tôn
trọng tự do của Đức Maria.
Trong việc thực hiện
dự tính của Ngài, Thiên Chúa gạt sang một bên các cơ cấu tôn giáo của Israel. Biến cố
sẽ không xảy ra tại Giêrusalem, thành thánh và có danh tiếng, nhưng tại
Nadaret, một ngôi làng không ai biết đến. Cũng không phải tại Đền Thờ nơi có sự
hiện diện của Thiên Chúa, nhưng trong một ngôi nhà tầm thường. Ngài không ngỏ
lời với một vị tư tế như trong trường hợp Gioan Tẩy Giả, nhưng với một thiếu nữ
đơn sơ không chức quyền.
Thiên Chúa hành động
theo phong cách của một vị vua. Ngài sai thiên thần Gabriel đến loan báo cho
Đức Maria bằng những lời lẽ chính xác: “Này bà sẽ thụ thai…”. Ngài đặt tên cho
con trẻ: “Bà sẽ gọi tên Người là Giêsu”. Trước câu hỏi của Đức Maria Ngài đã có
sẵn câu trả lời: “Thánh Thần sẽ rợp bóng trên bà”. Đức Maria không xin dấu chỉ nhưng
cũng được ban cho một dấu chỉ: Isave mang thai. “Vì không có gì mà Thiên Chúa
không làm được”.
Thiên Chúa hành động
cách tự do và mạnh mẽ. Tuy nhiên Ngài tôn trọng tự do của Đức Maria trong việc
chấp nhận hay không dự tính của Ngài. Ngài không đòi điều gì hết ngoài sự ưng
thuận. Một thứ giấy phép xây cất. Vì Thiên Chúa không xây cất một tòa nhà vật
chất bằng đá hoặc bằng gỗ nhưng là con người sống động. Nhà của Thiên Chúa ở
giữa loài người. Đền Thờ thật sự sẽ là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và con vua
Đavít. Thiên Chúa làm điều mới mẻ nhờ sự công tác của Đức Maria.
Sứ điệp
Thiên Chúa không
ngừng thực hiện việc xây cất của ngài. Hôm nay nữa, Ngài vẫn đề ra những dự án
để thực hiện mục tiêu của Ngài: Qui tụ toàn thể nhân loại dưới quyền Chúa Kitô.
Nếu, như Đức Maria, chúng ta lắng nghe Thiên Chúa, nếu chúng ta đón nhận lời
Ngài, Ngài sẽ làm cho chúng ta trở thành những cộng tác viên của Ngài. Tuy
nhiên ta đừng chờ đợi Thiên Thần hiện ra! Ta hãy tìm hỏi nơi Tin Mừng và nơi
những nhu cầu của Giáo Hội. Thiên Chúa có những dự tính của Ngài nơi mỗi người
chúng ta. Ta phải tìm cho ra và dấn thân thực hiện.
5. Bối rối, thắc mắc, ưng thuận
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Thiên ký sự tuyệt
diệu về Truyền tin chắc chắn là dư âm của một trong những kỷ niệm –theo thánh
chép sử Luca- được Maria ấp ủ trong lòng. Có lẽ thánh Luca được nghe lời tâm sự
từ miệng Đức Maria nói ra khi ông ngụ tại Giêrusalem trong thời gian thánh
Phaolô bị giam ở Rôma. Biến cố mầu nhiệm và thần kỳ được Đức Maria kể lại cho
ông bằng những lời đơn sơ, nhưng chắc chắn là phong phú hơn một bản tự thuật
ngắn, và được diễn tả trong một ký sự bóng bảy, đầy hình ảnh, như người đồng
thời ưa chuộng. Sự kiện Truyền tin là một sự kiện chắc chắn, có thật, nhưng
chính thánh chép sử không kể lại như một thiên phóng sự tuyệt đối chính xác. Vẻ
đẹp, vẻ uyển chuyển của câu chuyện có giá trị ở chỗ nó mở rộng tâm trí ta để
suy niệm không biết mệt mỏi về sự phong phú của sự kiện Truyền tin. Chúng ta
tiến vào bối cảnh của sự thật khi chúng ta suy gẫm về thiên ký sự, từng câu
một. Tuy nhiên chúng ta dễ hình dung rằng thực tại được Đức Maria trao gửi
thánh Luca còn sâu sắc, phong phú và huy hoàng hơn thế nhiều. Tới đây chúng ta
dừng lại để suy niệm về 3 câu:
1) Nghe những lời đó, nàng bối
rối qua sức, và tự hỏi về ý nghĩa lời chào mừng của Thiên thần. Maria bối rối. Chỉ nguyên việc Thiên thần
hiện ra cũng đủ làm cho nàng xúc động mãnh liệt, những lời của thiên sứ khiến
cho tâm thần nàng rối loạn vì nhận thấy, xuyên qua những lời đó, một sứ điệp
phi thường. Thật vậy lời chào: Kính mừng bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà,
gồm những từ ngữ được các ngôn sứ chuyên dùng khi nói đến Giêrusalem. Não trạng
Do Thái thời đó được nuôi dưỡng bởi một niềm hãnh diện và hy vọng: Giêrusalem
được Thiên Chúa tuyển chọn, được tràn đầy ơn sủng của Người, được ban cho thiên
chức vượt cao trên khắp mọi thành thị thế gian. Vậy mà Thiên thần kính chào
Maria bằng những từ ngữ người ta quen dùng cho Giêrusalem. Nàng bối rối vì thế
và thắc mắc. Đoạn tiếp của sứ điệp sẽ giải thích cho nàng rõ. Vào những dịp
Thiên Chúa can thiệp vào đời ta –dù cho Người không đòi hỏi ta làm những việc
phi thường- có thể những vụ đó có hiệu quả đầu tiên là nêu lên những câu hỏi
cho chúng ta. Lúc đó ta phải tiếp tục cầu nguyện và lắng nghe –giống như Maria
đã làm.
2) Maria thưa với Thiên thần:
Làm sao việc đó có thể xảy đến được. Maria thắc mắc. Khi nhận ra điểm trọng yếu là vật cản tuyệt đối,
Maria biết làm gì để đáp ứng yêu cầu của Chúa? Đối với nàng –trở thành mẹ một
đứa con là điều không thể có được, vì ở khởi điểm có 1 sự kiện là nàng chưa kết
hôn, chỉ mới đính ước với Giuse, đơn giản thế thôi. Nàng muốn gìn giữ đức đồng
trinh của mình, không hiểu sao Thiên Chúa lại có thể đòi hỏi nàng hy sinh nó
đi. Nàng muốn hiểu rõ. Nàng trả lời không úp mở rằng, theo thường tình nhân
loại, mình không thể trở nên 1 người mẹ. Tuy nhiên nàng không chấm dứt cuộc
tiếp xúc với Thiên thần, nàng tiếp tục lắng nghe thiên sứ. Cũng vậy, có thể có
những vụ Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta những điều không thể hiểu được và có vẻ đầy
mâu thuẫn. Chúng ta, trong lúc cầu nguyện, có thể hỏi Chúa, đặt vấn đề với
Chúa, vì Chúa muốn chúng ta cân nhắc để có thể tự do ưng thuận.
3) Này tôi là tôi tớ Thiên
Chúa, nguyện xin như lời Thiên thần truyền. Maria ưng thuận. Do sự ưng thuận, nàng đón
lấy số mệnh thần kỳ là cho nàng trở nên một con người đích thật. Nàng ưng thuận
khi hiểu rõ Thiên Chúa chờ đợi gì ở tiếng vâng của nàng. Thiên Chúa không tự
mâu thuẫn trong khi ban phát ơn phúc cho loài người. Ở đây, ở trường hợp có một
không hai này, đấng bậc làm mẹ không tiêu diệt đức trinh khiết. Chúa đã muốn
tôn trọng tự do của Maria. Tiếng vâng do trinh nữ thốt ra là khoảnh khắc đầu
trong công cuộc Thiên Chúa xuống thế làm người mà vẫn là Thiên Chúa, - con
người trở nên Thiên Chúa mà không bị cưỡng bách.
6. Truyền tin cho Đức Maria
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Maria có gì đặc
biệt mà được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và theo niềm tin Công giáo,
còn là Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại? Dưới mắt người đời, Maria đâu có tài
năng gì đặc biệt, làm sao Maria thành công trong công việc vĩ đại ấy?
2. Khi được Thiên
Chúa chọn, ta cần có tinh thần nào để hoàn thành tốt đẹp sứ mạng mà Ngài giao
cho ta? Có ai được Thiên Chúa chọn mà làm hỏng việc Ngài không? Tại sao vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Maria nhỏ bé yếu đuối nhưng
được Chúa chọn...
Dưới nhãn quan Kitô
giáo, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử
nhân loại, khởi đầu một công trình hết sức lớn lao của Thiên Chúa: cứu chuộc
nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công cuộc vĩ đại này bắt đầu một cách rất âm
thầm, nhỏ bé tại một làng quê, với một thôn nữ yếu đuối chẳng mấy người biết.
Điều này làm ta nhớ tới dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu: “Nước Thiên Chúa giống
như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng
khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi
chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4,31-32). Qua kinh nghiệm tâm linh của
nhiều vị thánh, ta thấy Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao
bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Có như
thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ
đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những
kẻ hùng mạnh” (1Cr 1,27).
Thật vậy, theo tiêu
chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét về tài năng, thông minh, học
vấn, sức khỏe, sắc đẹp, v.v... chắc hẳn Maria không có gì đặc biệt hơn những
thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc chắn còn những thiếu nữ
đặc biệt hơn Maria rất nhiều. Nhưng Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng
Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình vĩ đại này. Ngài chọn Maria vì
Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng
Thiên Chúa”. Và Ngài đã thành công trong việc chọn Maria, đang khi có những
người khác được Ngài chọn đã làm “hỏng việc” của Ngài, hay đã làm Ngài không
hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Sa-un (x. 1Sm 9,17; 13,13-14); tông đồ
Giu-đa (Mt 26,47-50)...
Vấn đề đặt ra cho
chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao
có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài lòng như trường hợp
của Maria, và cũng có những người làm “hỏng việc”, khiến Ngài “thất bại” (từ
gượng dùng) hoặc không hài lòng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta
được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài?
2. Maria xóa bỏ bản ngã mình
trước Thiên Chúa
Một trong những yếu
tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là ta biết xóa bỏ
bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Ngài, xóa bỏ
dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Ngài. Đó chính là
tinh thần tự hủy mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức
Maria.
Theo tư tưởng lưu
truyền trong giới Công giáo, khi được thiên sứ báo tin, Maria đang dự định sống
trọn đời đồng trinh để phụng sự Thiên Chúa. Việc đính hôn với Giu-se chỉ là để
che mắt thị phi của thiên hạ, vì người đương thời quan niệm sai lầm rằng một
phụ nữ sống độc thân là một hình thức bị chúc dữ. Nhưng khi biết thánh ý Thiên
Chúa muốn chọn mình làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, thì lập tức nàng từ bỏ tất cả
mọi ý muốn hay dự định riêng của mình để vâng theo ý muốn của Thiên Chúa:
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
3. Được Ngài chọn, hãy toàn tâm
toàn ý cho việc của Ngài
Nếu Thiên Chúa chọn
ta thì là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta
làm theo ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn
toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là một công cụ Ngài dùng mà
thôi. Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người
sử dụng công cụ. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người sử dụng.
Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì
đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành
tựu, thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có
thể gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của ta. Đức Giêsu có nói:
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả
những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Vì thế, việc của ta, hãy hoàn toàn
phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan phòng tài tình như Ngài sẽ
không để việc của ta bị thất bại chỉ vì ta đã toàn tâm toàn ý lo cho việc của
Ngài. Hãy tin tưởng chắc chắn như thế!
4. “Ai tưởng mình đứng vững,
hãy coi chừng kẻo ngã”
Những người được
chọn mà làm “hỏng việc” Ngài - như vua Sa-un, Giu-đa - có thể là những người
ban đầu rất nhiệt thành, quên mình, hoạt động vì Thiên Chúa và tha nhân chứ
không vì mình. Nhưng tới một lúc nào đó người ấy bị tha hóa, đã đặt mục đích
hay công việc của mình lên trên mục đích hay công việc của Ngài, đặt ý mình lên
trên ý Ngài, hoặc muốn lèo lái công việc của Ngài theo ý mình, v.v... Những
người này lúc ban đầu nhờ nhiệt thành và quên mình nên đạt được danh vọng,
quyền lực, tiền bạc... nhưng về sau họ đã bị chính những thứ đạt được ấy làm
biến chất, tha hóa, khiến họ bị mất ơn Chúa và trở thành những kẻ phá hoại hay
cản trở việc Chúa. Do đó, mọi Kitô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực
hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ý lời của thánh Phaolô: “Ai tưởng
mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Coi chừng kẻo mình trở
thành như cây chổi cùn, sau khi đã tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi,
thì cuối cùng mình lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy,
tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần
thiết. Hãy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có
khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! Vì thế, đời sống thanh đạm, tinh
thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.
5. Người được chọn sẽ bị thử
thách
Ai được Thiên Chúa
chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách,
đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu
thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những
thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria - là những người được Thiên Chúa đặc biệt
ưu đãi - phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ. Đây là kế hoạch của Ngài
dành cho những người được Ngài chọn: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì
Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công
chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc
vinh quang” (Rm 8,30). Cách thức “làm cho nên công chính” của Ngài chính là thử
thách, cho trải qua đau khổ: “Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh
đạo thập toàn” (Dt 2,10); “Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi
hành chức vụ” (1Tm 3,10); “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh
em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (1Pr 1,7). Bù lại, vinh quang của những người
được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: “Những đau khổ chúng ta
chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng
ta” (Rm 8,18).
Chính nhờ những đau
khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn
lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng
đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, khi được
Thiên Chúa tuyển chọn, ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên
Chúa gửi tới. Hãy tin tưởng: “Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22;
24,13).
Cầu nguyện
Lạy Cha, để yêu
thương và cứu rỗi nhân loại, Cha cần rất nhiều người cộng tác. Cha chọn người
cộng tác theo sự tự do của Cha. Con sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Cha, nếu
Cha cần đến con. Một khi được kêu gọi, con quyết sẽ toàn tâm toàn ý sống và làm
tất cả mọi sự theo sự hướng dẫn của Cha, bất chấp những đau khổ thử thách mà
Cha dùng để rèn luyện con. Xin cho con trung thành với quyết tâm ấy.
7. Mầu Nhiệm Nhập Thể
(GM Bart. Nguyễn Sơn Lâm)
"Tình yêu"
là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai
tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn lên và
chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có tình yêu, con
người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường,
những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi
ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.
Tình yêu khiên con
người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận
chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng
khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân
trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người
triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là động lực
thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng,
một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh Kinh luôn
khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên
Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được biểu
lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con
người và Thiên Chúa.
Những chương đầu của
sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người
được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen, Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của
con người. Ngài cho con người hưởng các hoa quả, cho con người một bạn đường.
Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách Sáng thế còn
cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài
đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một
giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của
ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu
duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi con cháu Abraham
chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải
phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài
đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một
người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen, Thiên
Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho
Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc, Thiên
Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề.
Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện của
Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ
chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Đất hứa.
Khi dân Chúa đã sống
ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và
bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Đavít muốn xây cho Chúa một đền
thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa
bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần
minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Đền thờ đó do Ngài xây
dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Đền thờ
đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Đavít; và qua những con người sống thực
thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Đavít và miêu
duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên
lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và
thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày...
Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về
và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng
chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương dân như
cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn
chiên.
Nhưng Thiên Chúa như
chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân,
không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con
người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi
người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận
những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu
cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những
ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng
và quan trọng nhất của con người.
Yêsu, con của Maria
và Yuse thuộc dòng dõi Đavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh
nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.
Đó là khía cạnh
huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta
nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông,
không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài
không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân
thật.
Maria thụ thai Đức
Yêsu là nhân loại thụ thai Đức Yêsu! Maria hạ sinh Đức Yêsu là nhân loại hạ
sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel dân
Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Đó cũng là lời
loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một con người
toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu nhiệm Nhập thể
là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng
thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Đấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên
Chúa vun trồng đã nở hoa.
Đức Yêsu là bí tích,
là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Đức Yêsu là nơi hội
tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của
Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho thấy Đức
Yêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Đức
Yêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động
của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can
thiệp của Thánh Linh: "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Đấng Tối
cao trên Cô rợp bóng".
Thánh Thần Thiên
Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Đức Yêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc
biệt hiện diện trong cuộc đời Yêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Yêsu tuy phải
chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần
số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đức Yêsu sống lại
được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Đức Yêsu hiện
diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh Linh Đức
Yêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn
hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng
chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục
hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải
tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế,
nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt
với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng
như Luca cho thấy sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu
hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho
uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta
đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Đức Kitô vẫn luôn ở
giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng
nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta
sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh
ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến
đổi trần thế thành Đất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả
thuộc về anh em, anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa".
Bài Giảng
Càng gần lễ Giáng
sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí
và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng
ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính trong
bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Đại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm
nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những
công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang
muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy, khi Đavít
suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri
Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ,
một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những
người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những
gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho
Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm
người. Đó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận,
suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời
đại này, trên quê hương Việt Nam
đang hình thành một nếp sống mới.
Trước hết chúng ta
hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không
còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn
muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong
tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của
chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang
của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần
phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một cách
nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi
đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong
Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt
đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi
những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến
mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón
nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên
Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do đó thật là chủ
bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì
nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như
thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn
đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một
Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu
của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung
quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng
ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như
vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ
xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi
tất cả.
Chúng ta chỉ cần noi
gương một Đavít và một Maria. Đavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria
cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Đấng mình tôn thờ.
Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ
đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của
dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc
Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự
công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp
được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta
nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn
hiện tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Đavít đã không nghĩ đến mình, Đức Maria
cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của
Người, ở trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài
người.
Thế thì hôm nay và
những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần
nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta.
Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta
nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối
cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta
đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã
hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong
mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Điều cần hơn hết là chúng ta luôn
phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống
giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài.
Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi
đó không?
Nguyện chúc tất cả
anh em được như vua Đavít và Đức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu
nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.
Đức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta còn lạ gì:
mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa
Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày
trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để
lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu
nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại
thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói
vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân
Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời
sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ
này.
Và cũng như Cựu Ước
ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Đức Maria, trong
mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn
mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất
của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng
tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các
thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người
và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên
Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật trong
bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì
phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài
tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch
đón nhận đám mây từ nhân mưa Đấng công chính xuống. Đức Maria vì thế trở thành
lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một lý tưởng
bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có
thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần
nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến
dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong
mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Đức Mẹ.
Chúng ta đừng thấy
lễ Vô Nhiễm là lễ Đức Mẹlà lễ Đức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là
hình ảnh Đức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng
không đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng.
Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời
của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Đức Mẹ
trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên
mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9
tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu
thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm lịch lễ
dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi
họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng
Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa.
Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên
Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập
đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được
nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy.
Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích
cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy
dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi...
Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay, lễ Đức Mẹ
hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm
rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất
hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế,
nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc
trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn phải
nói, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng
đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung
những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho
chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Đức Maria trong bầu khí mùa
Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của
Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội
chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Đức
Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt
mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Đức Maria, phải nhìn ngắm Người và
trông đợi với Người.
Kể ra làm gì những bản
kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Đức Maria; các bản văn
ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng
vụ sẽ không còn nữa. Điều đó chứng tỏ hình ảnh Đức Mẹ thật đã được gắn liền với
mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Đức Trinh Nữ Mẹ
chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới
biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần mùa Vọng
như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại.
Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này.
Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy
các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể
không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai
đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen
tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của
Đức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến
viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là
những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa Giáo hội
còn biết rõ Đức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá
khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Đấng Đồng
Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều đó;
mới nghĩ rằng Đức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên
Núi Sọ và mới quyết rằng Đức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu
chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Đức
Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt
động hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài
phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn
đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những
thứ thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Đức Maria
không những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược
lại, chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội.
Chính vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ
thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Đức Maria, Mẹ Chúa Yêsu.
Chúng ta muốn nhìn
thấy các hoạt động cụ thể của Đức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về
hoạt động của Đức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với
đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta
đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam
có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì
thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao
hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này,
nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp
đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Đức Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với
Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta và muốn chúng ta cộng
tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời mới mưa Đấng công
chính xuống.
Muốn biết chúng ta
phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn
vào Đức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở
thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Đức
Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để
lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài
muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao
giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm
ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ
không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng
trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính
đáng của Yuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận
tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét
đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Đức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ
ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta cũng chỉ là
những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng
tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay
đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật
là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh
nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ
tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho
chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn
mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Đức Mẹ mùa Vọng.
8. Hãy là nhịp cầu đưa Chúa đến với anh em
(Trích trong ‘Cùng
Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông,
giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi sông sâu, biển rộng dễ dàng
vượt qua trở ngại để gặp gỡ tiếp xúc với nhau.
Đơn giản nhất là những cây cầu khỉ chênh vênh
vắt qua những con suối nhỏ giúp cư dân đôi bờ cách biệt có thể qua lại với
nhau. Kiên cố hơn thì có những cây cầu bê tông nối liền các tuyến giao thông
quan trọng, giúp người lữ hành vượt qua những con sông rộng đi đến được những
phương trời xa. Đáng kể hơn phải nói đến những chiếc cầu dây văng hùng vĩ, băng
qua những con sông và vùng vịnh rộng lớn, như cây cầu Golden Gate nổi tiếng,
giúp cư dân hai bên bờ vịnh San Francisco có thể đến được với nhau thật nhanh
chóng, dễ dàng.
Nhưng làm cách nào
để xây dựng được cây cầu đặc biệt nối trời với đất, đưa Thiên Chúa đến với loài
người và đưa loài người lại gần Thiên Chúa?
* * *
Từ ngày nguyên tổ
phạm tội, quan hệ nồng thắm giữa Thiên Chúa và loài người bị cắt đứt. Tội lỗi
khiến con người bị tách lìa và xa cách Thiên Chúa bằng một khoảng cách gần như
bất tận.
Vì tự cách ly với
Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc và ân sủng, con người phải héo hon và tàn
lụi dần như thân phận của những chiếc lá lìa cành.
Nhưng Thiên Chúa là
Cha giàu lòng yêu thương không nỡ để cho loài người phải vĩnh viễn xa lìa Ngài
là cội nguồn sự sống. Ngài lên kế hoạch xây dựng một nhịp cầu vĩ đại, nối liền
trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với con người.
Để thực hiện kế
hoạch nầy, Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến gặp Đức Maria, mời Mẹ cộng tác
vào công trình hệ trọng nầy.
Sau khi biết ý định
Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa
với thiên thần rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần truyền."
Từ lúc đó, Đức Maria
trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử
nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc
lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên
Chúa là Cha của mình và dẫn đưa họ về với Chúa Cha.
Một kỷ nguyên mới
được khởi sự nhờ sự vâng phục và hợp tác của Mẹ Maria. Muôn người trên khắp thế
giới ngót hai ngàn năm qua đã nhờ Mẹ mà được giao hoà với Thiên Chúa và đón
nhận ơn cứu độ do Đức Giê-su mang đến.
* * *
Tuy nhiên, cho tới
hôm nay vẫn còn rất nhiều người chung quanh chúng ta chưa nhận biết Đấng Cứu Độ
nên Thiên Chúa rất cần những nhịp cầu khác để đến với họ và đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa thiết tha
mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu
mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.
Mẹ Maria nhận thức
phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn nên đã mau mắn đáp lời Chúa mời gọi. Còn chúng
ta là ai mà cứ mãi nấn ná chần chừ, chẳng muốn thi hành ý Chúa, chẳng muốn tuân
lệnh Ngài truyền để trở thành nhịp cầu đưa Chúa đến với tha nhân?
* * *
Nguyện xin Chúa giúp
chúng con noi gương bắt chước Mẹ Maria, nhận ra mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, mà
phận làm tôi thì không được làm trái mệnh lệnh Chúa truyền.
Nguyện xin Mẹ dạy
chúng con mau mắn đáp lời Chúa mời gọi và thưa cùng Ngài: "Nầy tôi là tôi
tớ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền."
9. Quyền năng Chúa
Trong cuốn Linh
Thao, thánh Ignatio đã gợi ý cho chúng ta suy gẫm về đoạn Tin mừng hôm nay gồm
ba bước.
Bước thứ nhất là hãy tưởng tượng xem thế giới thời trước
Chúa Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan, hờ hững với Thiên
Chúa. Sự xấu thì tràn lan như một ung bướu khổng lồ. Con người thì rơi vào một
tình trạng tuyệt vọng.
Bước thứ hai là hãy tưởng tượng ra cách sứ thần Gabriel
đến báo tin cho Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng cứu thế. Từ trời cao
nhìn xuống, chúng ta thấy trái đất này chỉ là một đốm sáng nhỏ bé giữa muôn
ngàn vì sao. Xuống gần hơn, chúng ta thấy một điểm trên địa cầu được gọi là Đất
thánh. Và xuống gần hơn nữa, chúng ta thấy một ngôi làng mang tên là Nagiarét.
Và sau cùng, chúng ta gặp được Mẹ Maria trong căn nhà ấy. Mẹ đang quì cầu
nguyện.
Bước thứ ba là hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa sứ thần
Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới câu:
- Quyền năng của
Đấng Tối cao sẽ bao trùm lên Mẹ.
Ba chữ “bao trùm
lên” ít được Kinh thánh xử dụng, ngoại trừ trong sách Xuất Hành:
- “Bấy giờ có một
đám mây bao trùm lên lều tạm, nơi dân Do Thái đặt hòm bia giao ước”.
Bao lâu đám mây ấy
còn bao trùm lên lều tạm, thì lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng ba
chữ bao trùm lên không phải là không có dụng ý, vì nó gồm tóm một ý nghĩa sâu
xa. Thánh Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm, nơi đặt hòm bia giao ước
của Thiên Chúa, cũng như so sánh cung lòng Đức Maria, nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư
ngụ với hòm giao ước, nơi đặt hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên
Chúa.
Như thế, nghĩa là
khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì chính Thiên Chúa thực
sự hiện diện nơi Mẹ. Thế nhưng, sự hiện diện ấy lại vô cùng phong phú hơn sự
hiện diện của Ngài nơi lều tạm, bởi vì đó là sự hiện diện của một Thiên Chúa
bằng xương bằng thịt.
Thực vậy, Thiên Chúa
có thể hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách, chẳng hạn như qua các tạo vật,
bởi vì Ngài đặt để một cái gì đó thuộc bản thân Ngài nơi tạo vật, giống như một
nhạc sĩ đã đặt để một cái gì đó thuộc bản thân ông trong dòng nhạc mà ông đã
sáng tác.
Tiếp đến Ngài có thể
hiện diện qua lời Ngài trong Kinh thánh giống như người nhạc sĩ hiện diện trong
tiếng nhạc của ông.
Sau cùng, Thiên Chúa
có thể hiện diện giữa chúng ta trong Đức Kitô, như người nhạc sĩ hiện diện bằng
xương bằng thịt trước mắt chúng ta trong một buổi trình diễn.
Và như thế, qua Đức
Maria, chúng ta có quyền thắp lên một ánh lửa hy vọng, cho dù thế giới có hỗn
độn, gia đình có xáo trộn, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hy vọng, bởi vì quyền
năng của Thiên Chúa đã xâm nhập thế giới này qua con người Đức Kitô.
Còn chúng ta thì
sao? Bước vào Chúa nhật thứ tư mùa vọng, chúng ta hãy tự hỏi xem, chúng ta đã
làm được những gì để Ngài thực sự ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Ngài đã ngự
xuống nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria?
10. Xin vâng
Gần kề với lễ Giáng
sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đã thưa lên
lời xin vâng và đã trung thành với lời xin vâng ấy.
Chắc hẳn ngay từ
những ngày tháng còn thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioan Kim đã dạy cho Mẹ
biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, cho
nên hãy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hãy khao khát trông đợi Đấng Cứu
Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được con đường của Chúa
sẽ dẫn tới đâu.
Thực vậy, bấy giờ Mẹ
đã đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho
Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đã chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đã tới thăm viếng
và tỏ lộ cho Mẹ biết vai trò Thiên Chúa đã dành cho Mẹ, đó là trở nên Mẹ của
Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đã thưa lên:
- Này tôi là tôi tá
Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Một lời xin vâng
quyết liệt đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng
này, Mẹ đã đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ
mang thai.
Thế nhưng vì đã tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, nên Mẹ đã giữ sự im lặng,
bởi vì chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ giúp cho thánh Giuse được
hiểu.
Trong lúc Mẹ và
thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, thì Thiên Chúa lại nhìn
sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống Bêlem để
đăng ký nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong cảnh nghèo túng
của máng cỏ đêm đông.
Mỗi biến cố là một
dấu chỉ nói lên thánh ý của Thiên Chúa. Trong từng giây từng phút và trong từng
sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của
Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy. Và đỉnh cao
của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.
Đúng thế, Mẹ luôn
kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng như các Tông
đồ, hẳn Mẹ đã được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đã lắng nghe và ghi nhớ
trong lòng.
Rồi khi cuộc tử nạn
bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đã phải kêu lên:
- Lạy Cha xin cất
chén đắng này xa con, nhưng không theo ý con, một vâng ý Cha mà thôi.
Chúa cảm thấy như
gánh tội lỗi đè nặng trên mình. Còn Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt trong vườn
cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đã chia sẻ gánh nặng và những khổ đau của
Chúa.
Rồi đêm hôm đó Chúa
đã phải chịu biết bao nhiêu cực hình, nào là bị đánh đòn, bị đội mạo gai. Mẹ
luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát thì thân xác Mẹ cũng đớn đau
Chúa đã kêu lên:
- Một vâng theo ý
Cha mà thôi.
Mẹ cũng thưa:
- Này tôi là tôi tá
Chúa.
Mẹ luôn xin vâng, dù
gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.
Và sau cùng là cây
thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã
chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đã đứng lặng dưới
chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa. Và như
vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình.
Còn chúng ta thì
sao? Chúng ta đã có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và cay đắng, chúng
ta đã phản ứng ra làm sao trước thánh ý của Thiên Chúa.
11. Xin vâng
Có một người kia đã nói: “Nếu tôi có quyền
chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và
thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông
sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.
Loài người muốn chọn
người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy
người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy
được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối
với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài
đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường
hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên
Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn
phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ
nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do
của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm
mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì
thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và
ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ
ấy. Đó chính là câu chuyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó
là tổng thần Gabrien; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua
cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabrien và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng
Đức Maria đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho
tôi như lời sứ thần nói”.
Tiếng “Xin vâng” vừa
thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy
xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính
loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó. Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy
đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò
quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và
loài người.
Chúng ta thấy Thiên
Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa.
Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự
ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc
chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa
thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức mẹ.
Nếu chúng ta muốn
hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt
song đôi hai mẫu đối thoại: từ một mẫu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong
của chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa con rắn và bà Eva trong cuộc cám dỗ đầu
tiên ở vườn địa đàng; và từ mẫu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho
chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa sứ thần Gabrien và Đức Maria trong cuộc
truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với bà Eva và cách thức sứ thần
tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính
trọng. Con rắn đề nghị những gì? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi
loạn. Còn sứ thần Gabrien đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà Eva ưng
thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời
đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ,
nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng
ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, con Đức mẹ chính là Con Thiên
Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức
Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi
nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa
trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan
trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ý
Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc
đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ý Cha”.
Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là “Vâng theo
thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống
tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn
bị mừng lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã
chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng
cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh
với tâm tình như Mẹ.
12. Xin vâng
Hôm nay, nhiều người
tìm kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của
mình”. Họ tin tưởng rằng hạnh phúc hệ tại ở sự không phải cam kết gì, không
phải trả lời với ai, không người nào có nhu cầu hoặc vấn đề gì ràng buộc với
mình.
Tất nhiên, thật tốt
đẹp và cần thiết trong việc tìm kiếm và thực hiện điều gì sâu xa mà chúng ta
cảm thấy rằng mình được mời gọi thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp bản chất con
người là gì, chúng ta phải luôn bảo vệ bản thân mình. Trong phương pháp “làm
theo nhu cầu riêng của mình”, có thể có nhiều sự ích kỷ. Điều này thường có
nghĩa là đi con đường dễ dãi nhất, trong niềm tin tưởng rằng ở đó có tự do và
hạnh phúc. Nhưng chắc hẳn phương pháp này càng dẫn đến tình trạng nô lệ và mất
hạnh phúc.
Ở đây có một sự thật
quan trọng: chắc chắn sẽ tìm thấy tự do, hạnh phúc, và sự sung túc trong việc
chấp nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, để được như vậy, một sự dứt khoát chấp nhận
trách nhiệm mà thôi thì vẫn chưa đủ, mà còn phải là biết chấp nhận trách nhiệm
trong lòng yêu mến nữa. Khi chúng ta hết lòng tận tụy gánh vác trách nhiệm càng
khó khăn bao nhiêu, thì chúng ta càng được vui mừng bấy nhiêu.
Về việc này, Đức
Maria đã nêu gương mẫu cho chúng ta. Mẹ đã không nói với sứ thần “Xin lỗi,
nhưng tôi có kế hoạch của riêng tôi. Tôi muốn làm theo nhu cầu riêng của tôi”.
Nhưng Mẹ đã nói “Không phải ý riêng của tôi, nhưng ý muốn của Thiên Chúa mới là
quan trọng. Xin cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria đã làm cho
mình trở thành một món quà đối với Thiên Chúa, và chấp nhận trách nhiệm mà
Người giao phó cho Mẹ. Mặc dù Mẹ không hiểu được tất cả những điều hàm ý trong
công việc của Thiên Chúa, Mẹ vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Mẹ tất cả
ơn trợ giúp mà Mẹ cần đến.
Thật vậy, Mẹ nói
“Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng
những điều tốt đẹp sẽ xảy ra”. Mẹ quá tin tưởng một cách sâu xa vào Thiên Chúa,
đến nỗi Mẹ đã mở tất cả mọi khả năng của mình ra. Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát
tương lai, và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình.
Những người nào biết
chấp nhận trách nhiệm giống như cách thế mà Đức Maria đã thực hiện, thì có thể
không tìm thấy hạnh phúc và sự sung túc dưới con mắt của thế gian, nhưng dưới
con mắt Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ tìm thấy và nhận biết điều đó một cách sâu
xa.
Ân sủng lớn lao nhất
trong cuộc đời là khi chúng ta mong muốn làm điều mà chúng ta phải làm.
13. Sự tin tưởng
Bối cảnh: Một tỉnh ở phía nam nước Mỹ. Một
người cha sống với đứa con trai và con gái nhỏ. Vợ của anh đã qua đời. Anh
nghiêm khắc đối với các con, nhưng cư xử rất tốt và yêu thương chúng. Anh là
một luật sư liêm khiết và xuất sắc. Tuy nhiên, anh đã tự làm cho mình trở nên
rất xa cách đối với mọi người trong tỉnh, khi chọn một người đàn ông da đen đã
từng bị tố cáo là một tên ám sát – tỉnh này đầy rẫy sự phân biệt đối xử đối với
những người da đen.
Tại cuối con đường, có một người phụ nữ lớn
tuổi sống ở đó, bà hay ngồi ở trước vườn của mình suốt các buổi chiều. Bà cứ
gọi hai đứa con của vị luật sư, khi chúng đi ngang qua đó trên đường đi học và
trở về nhà. Bọn trẻ cảm thấy rất bực mình, khi bà réo tên của cha chúng.
Vào một buổi tối, cậu con trai quyết định
nhảy vào khu vườn của bà, và phá vài cây hoa, rồi chạy về nhà. Sau đó, người
cha nói “Con không nên làm như vậy”.
Cậu con trai phản đối “Nhưng con làm điều đó
là vì bố mà”.
Người cha bảo “Bà ấy là một người phụ nữ rất
đau yếu. Bây giờ, con hãy đến xin lỗi bà ấy đi”.
Cậu bé miễn cưỡng ra đi. Người phụ nữ yêu cầu
cậu bé mỗi tối đến đọc sách cho bà trong vòng một giờ. Cậu bé e sợ khi nghĩ đến
công việc đó, nhưng cha cậu lại bảo rằng cậu nên đồng ý giúp bà cụ già đó trong
công việc này. Thế là cứ mỗi tối, cùng với em gái mình, cậu bé đến đọc sách cho
bà cụ. Khoảng một giờ sau, bà cụ bị run lên bần bật. Hai đứa trẻ ra về và một
người y tá đến săn sóc bà cụ. Vài tuần sau, những cơn run đó trở nên bớt xảy ra
thường xuyên hơn.
Thế rồi vào một buổi chiều, người cha nói với
hai đứa trẻ là bà cụ vừa mới qua đời. Chúng nghĩ thầm “Cám ơn Chúa”, nhưng
không nói ra điều đó. Sau đó, khi người cha nói với chúng rằng trước đây vài
tuần, một bác sĩ ghi toa cho bà cụ uống mấy viên thuốc giảm đau, và bà cụ đã bị
nghiện những thứ thuốc này. Nhưng khi bác sĩ nói rằng bà cụ không còn sống được
lâu nữa, thì bà cụ quyết định là trước khi chết, bà sẽ thử bỏ thói quen uống
thuốc. Những cơn run mà chúng nhìn thấy là triệu chứng do cai nghiện.
Bọn trẻ hỏi một cách sốt sắng “Thế bà cụ cai
nghiện có thành công không?”.
Người cha trả lời “Có. Ngay trước khi qua
đời, bà cụ nói với bố rằng bà cụ sẽ không bao giờ có thể cai nghiện thành công
được, nếu chúng con không đến đọc sách cho bà. Bà cụ muốn gửi lời cảm ơn chúng
con”.
Người cha bảo “Điều đó không quan trọng. Điểm
chính yếu là chúng con đã làm theo lời dạy bảo của Bố. Chúng con là những đứa
trẻ ngoan. Bố tự hào về chúng con”.
Hai đứa trẻ chưa nhận ra được đầy đủ ý nghĩa
của công việc mà người cha yêu cầu chúng làm. Tuy nhiên, chúng vẫn làm điều đó
trong tinh thần yêu mến và vâng phục.
Trong cuộc sống,
chúng ta thường không nhìn thấy toàn bộ ý nghĩa của những việc mình làm. Đôi
khi, ý nghĩa này còn bị che khuất đối với chúng ta, giống như hai đứa trẻ trên.
Trong trường hợp đó, công việc trở nên rất khó thực hiện, đặc biệt đối với công
việc nào không thoải mái, hoặc đối với những người có thái độ vô ơn trước sự
giúp đỡ của chúng ta.
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, chúng ta được thấy cách thức Đức Maria bằng lòng trở thành mẹ của Đấng
Cứu độ. Nhưng khi Mẹ thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, Mẹ chưa nhận ra được đầy
đủ những điều liên quan đến sự đồng ý của mình. Mẹ cho biết rằng đến ngày sinh
của Đức Giêsu, mọi cánh cửa đều khép lại trước mặt Mẹ; rồi một thời gian ngắn
sau ngày sinh của Đức Giêsu, Mẹ sẽ trở thành một người đi tị nạn tại một quốc
gia khác; và 33 năm sau, Mẹ sẽ chứng kiến cảnh Đức Giêsu bị kết án như một tên
tội phạm.
Đức Maria đã không
chỉ thưa lời xin vâng một lần duy nhất, nhưng Mẹ xác quyết lời xin vâng cơ bản
đó rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của Mẹ. Nếu không có sự vâng phục của Đức
Maria đối với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.
Mỗi người chúng ta
đều đã từng nói lời xin vâng, khi chúng ta đảm nhận những cam kết và trách
nhiệm. Khi nói lời xin vâng cơ bản, là chúng ta thực hiện một cú nhảy vào bóng
tối, bởi vì chúng ta không biết được đầy đủ những điều đó liên quan đến điều mà
chúng ta đang đảm nhận. Điều này chỉ được mặc khải từ từ cho chúng ta trong khi
chúng ta tiến hành. Do đó, chúng ta cũng phải xác quyết lời xin vâng cơ bản của
chúng ta, không chỉ một lần, mà là nhiều lần, và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ
chúng ta giữ được lòng trung thành.
Giống như những trẻ
nhỏ thường thắt mắc, Đức Maria cũng hay đặt câu hỏi. Lòng tin không phải là sự
mù quáng. Lòng tin vượt ra ngoài lý luận, nhưng không chống lại sự lý luận.
Nhưng sau khi đặt câu hỏi, thì những câu trả lời có thể không bao giờ làm chúng
ta được hoàn toàn thỏa mãn, chúng ta phải để cho Thiên Chúa được làm Thiên
Chúa. Chúng ta phải qui phục mầu nhiệm thôi.
14. Truyền tin
(R. Gutzwiller)
1) Khung cảnh bên ngoài
Đây cũng là một cuộc
loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về việc thụ thai hoàn toàn bất ngờ, mà
cũng chính do thiên thần Gabriel chuyển lời; hơn thế cũng là chương trình Thiên
Chúa đưa ra, sẽ được thực hiện từng điểm một. Tuy vậy tất cả đều khác hẳn. Cả
khung cảnh bên ngoài, lẫn thái độ bên trong. Đây ta hãy xem:
Trên kia, Lời Thiên
Chúa được loan báo trong miền Giuđa, giữa thủ đô Giêrusalem. Ở đây sứ thần nói
trong một tỉnh biên giới của miền Galilê, một miền có lẫn dân ngoại. Và không
được trong tỉnh lỵ Sepphoris hay ít là trong một thành nhỏ, hoặc một thị trấn
bên bờ hồ, nhưng trong một làng miền sơn cước hoàn toàn vô danh.
Ở kia, sự loan tin
xảy ra nơi đền thờ trong giờ lễ long trọng; ở đây, trong một căn lều quê mùa
vào lúc mà chẳng ai định nổi thời gian. Ở kia, người đón nhận là một trong hàng
tư tế Israel; đang khi dân chúng hội họp nhau đợi chờ, cầu nguyện; ở đây lời của
thiên thần đến với một thiếu nữ bình dị mang tên là Maria, một cái tên thông
thường có quá nhiều người đặt; không một ai hiện diện. Một bên với vẻ bên ngoài
thật là hùng vĩ, long trọng, đầy xúc động; một bên thì bé nhỏ, bình thường và
vô nghĩa.
Tuy nhiên, dù cả bên
ngoài đi nữa, ở đây xét về chính yếu vẫn có những điểm lớn lao cao đẹp. Vì đang
khi thiên thần chờ sẵn thì Giacaria mới bước vào. Thiên thần là kẻ chờ đón, còn
Giacaria là người tiến đến gặp. Thiên thần nhập truyện luôn mà không chào hỏi
gì cả. Đang khi đó, Đức Maria ở nơi phòng của ngài, ngài là người tiếp đón,
trái lại thiên thần đi đến, đi vào. Như được yết kiến một nhân vật quan trọng
với lời chào đầy vẻ kính trọng: “Xin kính chào bà”.
Tìm lại văn bản ba
yếu tố: chào thăm, vui vẻ, và ơn phúc; tiếng cuối cùng đã đặc biệt được nhấn
mạnh: “Bà đầy ơn phúc”. Maria luôn đầy ơn và giờ này lại càng đặc biệt hơn nữa
“Chúa ở cùng Bà”. Thiên Chúa luôn ở với Maria, bây giờ thì sự hiện diện đó lại
càng đặc biệt và vững bền hơn.
Giacaria phản ứng
lại bằng sợ sệt và rối loạn. Nơi Maria –theo nguồn gốc của trình thuật Kinh
Thánh- sự rung động còn hơn nữa, nghĩa là nó ăn sâu vào tận thâm tâm và cả hiện
hữu của ngài. Việc chào thăm cùng sự việc lời Thiên Chúa đến với ngài hoàn toàn
là bất ngờ. Mẹ vẫn chỉ thầm mong được sống một cuộc sống bình thường với một
tâm tình đạo đức bình dị, nên Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse. Như
bất cứ một phụ nữ nào khác, Mẹ không nghĩ gì ngoài con đường của những người
xung quanh trong dân Israel.
Vậy thì Thiên Chúa muốn Mẹ làm gì đây? Lời mời gọi đã đến, đột ngột quá. Đó hẳn
không phải là một hậu quả của một tình trạng tâm lý dễ giải thích, mà cũng
chẳng phải là một dự phóng của một niềm hy vọng thầm kín hay một đáp ứng cho
một niềm ao ước thiêng liêng. Trái lại đều do Thiên Chúa và chỉ vì một mình
Ngài thôi.
Đối với Giacaria và
Êlisabét, sự liên kết son sẻ biểu hiện sự đau khổ, mối buồn lặng lẽ; có thể
luôn mang một tia hy vọng ghê gớm; chẳng thế mà Giacaria sợ khó xảy ra nên mới
xin một dấu. Còn Maria, chẳng đợi chờ gì hết, lời của Thiên Chúa làm Mẹ hoảng
hốt, sửng sốt. Như vậy hai cảnh tượng diễn ra song song với nhau, nhưng lại
hoàn toàn khác biệt nhau. Điều đó còn rõ ràng hơn trong cuộc đàm thoại.
2. Đàm thoại
Hai sứ điệp của
Thiên thần mang theo hai câu trả lời của Đức Maria.
Sứ điệp thứ nhất: Lời nói dịu dàng: ‘Maria xin đừng sợ’ dựa trên sự kiện: ‘vì chị đã đắc
sủng nơi Thiên Chúa’. Người ta không thể chiếm hữu ơn huệ hay tự cung cấp được
cho mình. Người ta chỉ có thể tìm kiếm và nhận lãnh. Và bản chất của ơn này được
mặc khải ở đây: ‘Này đây, chị sẽ thụ thai và sinh một con trai’. Để nhận hồng
ân, ở đây phải có sự thụ thai Ngôi Lời Thiên Chúa, một thực tại thể xác chứ
không phải chỉ là thiêng liêng. Maria khi chấp nhận lời Thiên thần thì đón nhận
Ngôi Hai Thiên Chúa, và như thế Ngôi Lời mang xác phàm trong lòng Mẹ. Đứa trẻ
mà Mẹ sinh ra cho thế trần là Thiên Chúa, như vậy mới đúng với tước hiệu là Mẹ
Thiên Chúa: ‘Chị sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một con trai’. Con Thiên Chúa trở
nên con loài người vì đó người ‘mẹ phàm trần sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa.
‘Và chị sẽ gọi tên Ngài là Giêsu’. Nếu tên của vị tiền hô đã giầu ý nghĩa, thì danh hiệu này còn hơn
biết bao. Vì ‘Thiên Chúa là Ơn Cứu Độ’. Chúa Giêsu hẳn là Đấng mang lại ơn cứu
độ. Do đó, sứ điệp của Thiên thần là sứ điệp của ơn cứu độ. Và chính ơn cứu độ
đã xảy ra ở đây, đó là biến cố quyết định cho tất cả thời gian cứu độ.
Lời Thiên thần diễn tả một sự quả quyết, nhưng cũng là một lệnh truyền:
‘chị sẽ sinh con’. Người đang nghe nói, hẳn sẽ cộng tác bằng sự nhất trí của mình.
Như đối với vị tiền hô, thiên thần cũng tuyên bố về cá nhân và nhiệm vụ
liên hệ.
Cá nhân: ‘Ngài
sẽ làm lớn’, Ngài là Đấng vĩ đại tuyệt đối. ‘Chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao’. Và
Ngài sẽ được gọi là ‘Con Đấng Tối Cao’. Không phải chỉ nhân loại mới gọi Ngài là
Con, mà cả Cha trên trời, cũng gọi như thế.
Với tư cách là Lơì nội tại của Thiên Chúa, Ngôi Lời đúng thực là ‘Đấng
được phán’. Chính bởi sự hiện hữu của việc ‘được phán’ mà Ngài là Con, và bởi
sự hiện hữu của việc làm Con, mà Ngài ‘được đặt tên’ với ý nghĩa đầy đủ và dồi
dào nhất.
Nhiệm vụ: ‘và
Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu của Đavít, tổ tiên Ngài’. Làm con Đức
Maria, và làm Con Cha trên trời kèm thêm quan hệ phụ tử với Đavít. Triều đại
của Đavít tìm lại được vẻ huy hoàng đầy mới mẻ nhưng không phải vẻ hào nhoáng
bên ngoài của một quyền hành thế trần. Đó là vẻ rực rỡ bên trong của vinh quang
Thiên Chúa.
‘Ngài sẽ làm Vua nhà Giacóp cho đến đời đời: sự quả quyết này mạnh mẽ hơn và có trường
độ lớn hơn vì thêm hai chữ ‘ đời đời’. Đó là vì nói tới hình thức của một vương
quốc và một triều đại khác. Cái vòng khép kín của thời gian với sự trở lại chắc
chắn của những biến cố cũ đã bị phá rồi: vì Thiên Chúa, Đấng điều khiển thời
gian, đã can thiệp vào thời gian và kéo dài cho tới đời đời. Vương quốc được thiết
lập, triều đại được tu chỉnh, sẽ là vương quốc và triều đại vĩnh cửu.
Một vương quốc thế trần bị thời gian giới hạn xem ra không sao có được
ý tưởng gì để so sánh. Vua dân Do thái đấy, không cần ngai vàng vật chất, mà
cũng chẳng cần triều thiên óng ánh, nếu Ngài vác trên vai cây thập tự, mang
trên đầu mão gai, thì đó đâu phải là ngày tàn của vương quốc và triều đại Ngài,
mà trái lại, đó là dấu hiệu ngày khai mạc đã đến, nền tảng đã vững.
‘Vương quyền của Ngài sẽ vô cùng tận’: vương quyền đó không hoàn tất trong không
gian và thời gian. Hãy cố có một hình ảnh về Vĩnh cửu, ta biết ngay nó vượt
ngoài tầm tay con người và vật thụ tạo. Như vậy, những lời nói của Thiên thần
biểu hiện một lời quả quyết mạnh mẽ và long trọng, ý nghĩ mỗi lúc mỗi tiến hơn
theo từng tiếng một, sâu như biển gầm, hùng vĩ như những rặng núi cao và những
tiếng sấm vang.
Mới chợt nhìn, trong vẻ đơn sơ, câu trả lời của Đức Maria thật lạ lùng,
hầu như là ngã lòng, của một chủ thuyết duy thực, nhưng laị bộc lộ một tâm hồn
đáng thán phục ‘việc ấy xảy ra làm sao được, vì tôi không nghĩ tơí người nam’.
Thái độ tinh thần này không còn là một sự sẵn sàng vui vẻ biểu lộ hẳn ra bên
ngoài, và chấp nhận với tất cả hân hoan, mà chỉ là một sự chối từ vì quá kinh
hãi hay một sự rút lui vì khiêm nhường không đúng chỗ.
Nó cũng giống thái độ của Giacaria. Đối với Maria, đương nhiên là mong
muốn xảy ra chuyện mà Thiên Chúa đã loan báo và yêu cầu qua Thiên thần, chỉ có
vấn đề là ‘cách thế’. Mẹ muốn và phải biết Mẹ phải làm gì, con đường Thiên Chúa
chọn là con đường nào, khi thêm vào câu “không biết tới người nam’, đó chẳng
qua là Mẹ muốn biết xem, theo Thánh ý Thiên Chúa, thì Mẹ phải lập gia đình thực
sự với Giuse sao? Phải chăng Thiên Chúa đòi sự thụ thai và sinh con trong hôn
nhân? Đức Maria thực sự đã đính hôn, Thiên Chúa muốn hôn nhân cử hành ngay và
thụ thai Đức Giêsu bởi Mẹ liền sao? Hay Ngài muốn xảy ra cách khác? Đức Maria
không đặt những điêù kiện, Ngài chỉ hỏi thôi, Ngài muốn nhận rõ Thánh Ý Thiên
Chúa. Việc hoàn tất đối với Mẹ hẳn sẽ xảy ra theo sau.
Lần truyền tin thứ hai này của Thiên thần đã đi quá xa lần loan báo cho
Giacaria: ‘Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ
chị’. Như vậy có sự tham dự của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: quyền năng Đấng Tối Cao,
Ngôi Con và Thánh Thần, Thánh Thần đã bay xà trên mặt đất trong buổi đầu của
thế giới, như nguyên lý tạo dựng. Cũng thế, Ngài sẽ bao phủ trinh nữ, để tạo
dựng và sinh Đấng Cứu Thế. Con của Đức Maria là Con Thiên Chúa. Việc quyền năng
Đấng Tối Cao bao phủ trong viễn tượng Kinh thánh nói tới việc Thiên Chúa hiện
diện lạ lùng nhưng rất đặc biệt.
‘Bởi đó, trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’: Ngài không được gọi là ĐẤNG THÁNH, mà là
Thánh.
Vì bản tính sinh ra cách trực tiếp Ngôi vị mà bản tính này thuộc về là
chính Thiên Chúa. Trẻ này được gọi là Thánh, vì Ngài là Thánh trong tất cả ý
nghĩa đầy đủ của hạn từ: ‘Chỉ có Chúa là Thánh’. Ngài sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa, vì Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà tất cả dân được chọn sẽ tái sinh trong
Ngài, Đấng đã nhận nơi Giavê danh hiệu thân ái của Người Con. Ngài là Con Thiên
Chúa vì Người Con từ nội tâm là Thiên Chúa sẽ có bản tính này của loài người
như bản tính riêng của mình.
Maria không đòi một dấu chứng như Giacaria. Nhưng chính Thiên thần đã
cho Ngài một dấu chứng: bà Êlisabét son sẻ đã sinh con trong tuổi già. Một việc
thụ thai kỳ lạ sẽ là dấu chứng lạ lùng cho sự thụ thai ở đây, nhưng hoàn toàn
khác nhau. Ở trên, tự bản chất là son sẻ, còn ở đây, son sẻ bên ngoài là do sự
giữ đồng trinh: ‘tôi không biết đến người nam’. Làm bằng chứng cho lời của
Thiên thần là một động lực sâu xa: ‘vì không có gì là không thể đối với Thiên
Chúa’. Lời này dựa theo sách Sáng Thế (18,14): tiên báo cho Abraham rằng người
vợ già cả Sara của ông sẽ thụ thai và sinh con. Đó là một điềm báo, một sự sửa
soạn vho phép lạ đang thực hiện, ở đây, của việc thụ thai và sinh ra của Con
thực Thiên Chúa đến để dẫn dắt dân Thiên Chúa. Gốc của bản văn cứ từng chữ phải
nói là: ‘Vì Thiên Chúa có thể làm được tất cả những gì Ngài nói’. Tiếng ‘Thiên
Chúa’ được Thiên thần thốt lên ở đây là một hạn từ diễn tả quyền năng, truyền
khiến, động lực của ý chí Thiên Chúa. Không chỉ là lời mời gọi, nhưng còn là sự
đòi hỏi và hơn nữa còn là hành động tác tạo của Thiên Chúa.
Vì thế, câu trả lời thứ hai và cũng là cuối cùng của Đức Maria mặc một
vẻ vĩ đại hoà lộn với sự đơn sơ: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự cho
tôi theo như lời Ngài’.
Một sự tương phản cứng cỏi và thô sơ đã làm cho gần gũi giữa đầy tớ và
chủ nhân, Thiên Chúa là người chủ không hơn không kém, và Người trở nên cao cả
vào giờ phút này, đã chỉ nhận cho mình là đầy tớ. Đó chính là sự nhận thức
khiêm hạ về một thực tại, một khoảng cách giữa Đấng Tạo hoá và tạo vật, giữa ý
chí quyết định, tuyệt đối tự do, có quyền đòi hỏi và tạo dựng với ý chí được
thỉnh nguyện, mà sự tự do hệ tại ở việc đặt mình vào ý muốn của Thiên Chúa để
được chìm vào giòng nước bao la của Ngài.
‘Xin hãy thành sự cho tôi như lời Ngài’. Sự thực hiện có tính cách quyết định nhất
của lịch sử này đã mở màn… ‘Xin hãy thành sự cho tôi’ vừa diễn tả sự sẵn sàng
thụ động và sự chấp thuận chủ động. Thiên Chúa, khi ban cách thế thực hiện và
hình thức tạo lịch sử, đã đặt vào đây yếu tố nhân loại. Cùng với câu hỏi: ‘điều
ấy sẽ làm sao được?’. Là câu trả lời của Đức Maria: ‘Xin hãy thành sự cho
tôi!’. Đây hẳn không phải do một sự vui mừng quá đỗi mà cũng chẳng do một lời
cầu khiêm hạ, nhưng hoàn toàn là do bởi sự chấp thuận tự nhiên Thánh Ý Thiên
Chúa, một khi đã nhận thức rõ ràng. Nhưng chính trong sự tự nhiên này, người ta
thấy được vẻ lớn lao vĩ đại. Đối với Maria chẳng phải là ý riêng, cũng không
phải vì ý chí cá nhân hay do tài lợi khẩu nào đưa đến mà chỉ do ý muốn và lời
của Chúa.
‘Và Thiên thần cáo biệt’. Trong câu chuyện trên về Giacaria, chính
ông rời đền thờ, còn ở đây Thiên thần biến đi. Từ đây phòng ở Nagiarét đã trở
nên đền thờ. Sự ẩn dật im lặng của Êlisabét chỉ là một dấu chứng của sự im lặng
sâu xa mà ở nơi đó trong cung lòng Đức Nữ Trinh, mầu nhiệm của Thiên Chúa được
hoàn thành. Một sự tinh tế lạ kỳ, một vẻ cao sang trang trọng liên kết với vẻ đơn
sơ trinh khiết làm chứng một vẻ đơn sơ tinh khiết làm chứng một vẻ vĩ đại thực
sự của tạo vật cởi mở hoàn toàn cho Thiên Chúa.
15. Mẹ Maria
Tại sa mạc Phi Châu, ngày kia tu sĩ Caréttô
nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đã được gả bán cho một chàng trai.
Trong khi chờ đợi ngày cưới, cô gái ấy vẫn tiếp tục đi kín nước và làm những
công việc nội trợ bình thường. Thời gian trôi qua, hai năm sau vị tu sĩ kia sực
nhớ bèn hỏi xem đám cưới đã được tổ chức như thế nào? Và ông bố đã tỏ ra bối
rối không muốn trả lời.
Cuối cùng, một người đầy tớ đã cho vị tu sĩ
hay:
- Cô gái ấy đã bị bóp cổ chết chỉ vì đã có
thai trước khi về nhà chồng. Danh dự gia đình đòi cô phải chết như vậy.
Thân phận của cô gái
trong câu chuyện vừa nghe, là thân phận của phụ nữ ngày xưa, cũng như của mỗi
người chúng ta sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Bởi vì với tội lỗi, chúng ta sẽ
phải chết. Không phải chỉ cái chết phần xác, mà còn cả cái chết phần hồn, mãi
mãi xa lìa Chúa.
Thế nhưng Mẹ Maria
đã khởi đầu cho một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này, người phụ nữ được
phục hồi nhân phẩm và mỗi người chúng ta được trả lại địa vị làm con cái Chúa,
bởi vì chúng ta có được chính sự sống của Ngài trong tâm hồn, như lời thánh
Phaolô đã xác quyết:
- Xưa kia bởi một
người mà nhân loại phải chết, thì nay cũng bởi một người mà nhân loại được
sống.
Sở dĩ như thế là vì
Mẹ Maria đã sống khiêm nhường và luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta
hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng
Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng
ta là con cháu hậu quả thảm khốc của tội nguyên tổ.
Trong khi đó Mẹ
Maria là Eva mới, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm
nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong hoạt cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy
như vậy. Sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên:
- Này tôi là tôi tá
Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Một sự xin vâng tức
khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện
cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào
là để suy nghĩ và cầu nguyện thêm cái đã…
Chính vì thái độ
khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã được xứng đáng đặt làm Mẹ Đấng cứu thế,
cũng như làm Mẹ của Thiên Chúa.
Sống trong Mùa Vọng,
chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria: luôn khiêm nhường và vâng phục thánh
ý Chúa, để nhờ đó, chúng ta sẽ có Chúa trong tâm hồn, cũng như sẽ đem Chúa đến
cho những người chung quanh như Mẹ Maria ngày xưa.
16. Truyền tin
Đức Maria là người
diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể
giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình
thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức
Trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.
Nhân vật được Thiên
Chúa sai đi là sứ thần Gabrien, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ
tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc dòng họ vua Đavid. Sứ thần báo
cho Maria một tin rất trọng đại: Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế.
Nhưng vì đã khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có
ý nghĩa thế nào: làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và
làm mẹ được? Vì thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ cảy ra cách nào?”. Sứ thần
cho biết đây không phải là trường hợp bình thường bởi loài người nhưng bởi Chúa
Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn còn đồng trinh và cô sẽ
sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai
nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn còn lơ
lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ
đã hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đã hoàn tất.
Qua mầu nhiệm này chúng
ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa
Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi
thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế
kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị
khinh miệt hơn cả ở Việt Nam
chúng ta, nếu đối với chúng ta: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: thì phụ nữ
Do thái còn “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn,
khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe
với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là
bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết. Đàng khác, Đức
Mẹ sống trong làng Nagiarét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu
diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đã nảy sinh trong đầu Đức Mẹ: làm thế nào để
giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới? Làm thế nào
để giải thích cho những vị lãnh đạo tôn giáo khắt khe trong làng? Nhưng tình
yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đã thắng, Đức Mẹ đã chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực
vậy, vì yêu Chúa, Đức Mẹ bằng lòng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới
người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay
cả cái chết nữa. Cũng thế, vì yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đình,
bởi vì lúc sứ thần đến truyền tin thì Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với
Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này thì việc cưới xin làm sao thành được
nữa, nhưng Đức Mẹ đã bằng lòng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó
thác mọi sự cho Chúa. Chính vì thế Thiên Chúa đã lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ,
đây cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một
tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và
yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời
chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng.
Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua
đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình
rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay
sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay
ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng
ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường
hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin
tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm
được.
Tóm lại, mỗi khi gặp
đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng’ để Mẹ trợ giúp: “Mẹ ơi, đường đi
trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin
vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng
ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin
Mừng của Chúa.
17. Tôi tớ
Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh
ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời
điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe
hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?
Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas
Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật
điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà
văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello
girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ,
trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên
thế giới.
Phúc âm hôm nay, kể
lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần
mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay
“Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào
thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên
Chúa.
Theo bài Phúc âm
diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa
từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch
sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ
sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là
Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con
Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc
đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay
cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng
khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.
Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên
Chúa.
Trong Hiến Chế về
Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa
quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như
sau:
Các thánh Giáo Phụ
đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ
động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin
và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình,
Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân
loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa
cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã
được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do
sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh
Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và
thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.
Theo sự giảng dạy
của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận
thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin
của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự
do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học
tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý
định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại
phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.
18. Tôi tớ
Trong “Sứ điệp Ngày
Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18” năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói
với giới trẻ rằng trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân
loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là
tôi tớ Chúa”. Dưói chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể
nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. “Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ
lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây
phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ”.
Với thái độ khiêm
tốn, vâng lời và tin tưởng, Đức Maria đã đáp lại ơn gọi Thiên Chúa kêu mời,
trái ngược với sự bất tuân, thiếu niềm tin và kiêu ngạo của bà Evà. Thánh Kinh
đã lên án sự kiêu căng, tự cao tự đại, vì nó phát xuất ra những dối trá, lừa
đảo để dành lấy cho mình cái mà tự sức mình không có hay không thể có được.
Thánh Phaolô đã khuyên nhủ người tín hữu thành Galat: “Ai tưởng mình là gì mà
kỳ thực không là gì hết, là lừa gạt chính mình”. Ai tự hào thì hãy tự hào trong
Chúa! Người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được
Chúa đề cao”. Và Chúa Giêsu cũng khuyên: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ
xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Cách đây ít lâu, tờ St. Peterburg Times có
thuật lại một câu chuyện được chia sẻ bởi Don Shula, ông bầu của đội football Miami Dolphins. Ông là
một người rất danh tiếng. Trong giới thể thao nói riêng, trong nước Hoa Kỳ nói
chung, ai cũng biết đến tên Don Shula. Ông giữ chức ông bầu đội Miami Dolphins
từ năm 1970 và đã từng thắng ít nhất hai trận cầu ở giải Rose Bowl, Pasadena.
Hôm đó ông cùng với vợ và năm người con đang
nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ tại tiểu bang Maine. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đem cả
gia đình đi xem chiếu bóng tại rạp hát duy nhất trong thành phố. Lúc ấy, trong
rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông Shula vừa bước chân vào thì tất cả
đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông Shula vẫy tay chào và mỉm cười cùng
họ cách khoái trá. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ: “Mình ở xa đây cả ngàn cây
số, mà ai cũng biết đến và kính trọng, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp
hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô mình. Hẳn là họ đã thưởng thức những
trận cầu hiển hách của đội Dolphins trên màn ảnh tivi”.
Sau đó, một người tiến đến bắt tay chào ông
Shuha. Mặt mày hớn hở, ông Shuha nói: “Làm sao ông bạn có thể nhận diện được
tôi?” Người kia trả lời: “Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi thấy ông và gia
đình bẩy người bước váo rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài
phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay
sẽ không có xuất movie nào, trừ ra có thêm bốn khán giả nữa”.
Bấy giờ, ông Shula mới tỉnh ngộ. Ông nói:
“Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải
reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem
chiếu bóng”. Thật là chua chát thay! Ông Shula bây giờ mới cười nhạo mình. Ông
đã hạ mình xuống, đầy lòng khiêm nhường, viết ra bài chia sẻ với chúng ta về sự
thật buồn cười đã xảy ra cho ông.
Thánh Augustinô xưa
kia cũng đã dạy: “Kiêu ngạo biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Khiêm nhường
làm cho con người thành thiên thần”. Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của
nhân đức khiêm nhường trong đường tu đức như sau: “Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào
là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi
tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi
nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường”.
Chúa Giêsu “ đang
khi đến trong thế giới này” Ngài đã thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, này con
đây, con đến để thực thi ý Ngài”. Ngài hoàn toàn hy sinh mạng sống để thi hành
thánh ý của Đức Chúa Cha. Ngài đã mang lấy sứ mạng của Người Tôi Tớ hiền lành
và khiêm nhường để cứu chuộc nhân loại. Đây là con đường linh đạo cho tất cả
mọi người Kitô hữu.
Trong sứ điệp nhân
ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu lần thứ 40, 11/5/2003. Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã hướng về Đức Maria, Tôi Tớ Thiên Chúa, như một gương mẫu của các
bạn nam nữ sẵn sàng đáp lời mời gọi của Chúa để phục vụ cho Tin Mừng với lời
kinh nguyện:
“Lạy Mẹ Maria, nữ tì
khiêm hạ của Thiên Chúa Tối Cao, Người Con mà Mẹ hạ sinh đã biến Mẹ thành người
tôi tớ của nhân loại. Cuộc đời Mẹ là một sự phục vụ khiêm tốn và quảng đại. Mẹ
là người tôi tớ của Lời khi thiên thần loan báo cho Mẹ biết kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa. Mẹ là người tôi tớ của Chúa Con, khi ban cho Người sự sống và luôn
hướng về mầu nhiệm của Người. Mẹ là người tôi tớ của Đấng Cứu Chuộc, khi dũng
cảm đứng dưới chân thánh giá, kề bên Người Tôi Tớ Đau Khổ và Con Chiên, Đấng hy
sinh chính mình vì yêu thương chúng con. Mẹ là người tôi tớ của Hội Thánh vào
ngày lễ Hiện Xuống và với lời chuyển cầu Mẹ tiếp tục sinh ra Người trong mọi
tín hữu, cả trong thời đại khó khăn và nhiễu nhương này của chúng con.
Ước gì những người
trẻ của thiên niên kỷ thứ ba hướng nhìn lên Mẹ, người thiếu nữ của Irael, Đấng
biết đến sự xao động của một tâm hồn trẻ khi đối diện với kế hoạch của Thiên
Chúa hằng sống. Xin làm cho họ biết chấp nhận lời mời gọi của con Mẹ là trao
ban trọn vẹn đời sống mình vì vinh quang của Thiên Chúa. Xin làm cho họ hiểu
rằng phục vụ Thiên Chúa làm thoả mãn tâm hồn, và chỉ trong việc phục vụ Thiên
Chúa và Vương Quốc của Người mà chúng con hoàn thành cuộc đời chúng con theo kế
hoạch của Thiên Chúa, và đời sống nên một bài ca tụng vinh quang dâng lên
Người”. (Bản dịch của Lm Gioan Du Sinh).
19. Suy niệm của Mark Link
QUYỀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA SẼ BAO TRÙM TRÊN
BẠN
Chủ đề: “Sự
hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta dưới hình thức mới nhất- nơi con người
Đức Giêsu - làm cho tất cả mọi sự đều trở nên có thể thực hiện được”.
Thánh Inhaxiô Loyola
chào đời tại Tây Ban Nha một năm trước khi Kha Luân Bố tìm ra Mỹ Châu. Ngài
chưa đực 16 tuổi thì cha mẹ Ngài đã mất hết. Vì thế, cho tới khi trưởng thành,
Inhaxiô vẫn sống vô kỷ luật và ngông cuồng bướng bỉnh. Một ngày kia, Inhxiô cải
thiện đời sống và từ bỏ tội lỗi mình. Ngài thành tâm thống hối sâu xa và trở
lại với Chúa. Ngài viết nhật ký kể lại những kinh nghiệm của mình. Về sau Ngài
xuất bản cuốn nhật ký đó như một cẩm nang chỉ dẫn cho người khác con đường tìm
gặp Đức Giêsu của họ. Nhật ký đó gọi là tập “Linh Thao”.
Một trong những bài
“linh thao” ấy dạy về cách suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay. Cách đó gồm ba bước:
Bước đầu tiên là tưởng tượng xem thế giới thời trước Đức
Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan hờ hững đối với Thiên Chúa.
Sự xấu tràn lan như một ung thư khổng lồ. Thế giới rơi vào một tình thế vô
vọng.
Bước thứ hai là tưởng tượng Thiên sứ Gabriel từ trời
xuống báo tin cho Maria rằng nàng được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đức Giêsu. Chúng
ta hãy tưởng tượng rằng chính chúng ta cùng với Thiên sứ từ trời bay xuống.
Chúng ta nhìn xuống trái đất xa thật xa. Nó chỉ là một chấm sáng bé tí trong vũ
trụ đầy sao. Khi chúng ta bay tới gần hơn, chúng ta thấy một đốm trên mặt địa
cầu gọi là Đất Thánh. Khi tới gần hơn nữa, chúng ta thấy làng Nazarét. Cuối
cùng, chúng ta gặp Maria trong căn nhà. Nàng đang im lặng qùi gối cầu nguyện.
Bước thứ ba là lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và
Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới hai câu: câu thứ nhất là lời của Thiên sứ
nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên cô: vì thế Đấng
Thánh con của cô sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc.1, 35). Tiếng quan
trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do
Thái để hòm Giao Ước. Câu xh.40,34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm
thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Việc Luca chọn và
dùng từ “bao trùm lên” vốn ít được dùng tới trong Kinh Thánh ấy không phải là
ngẫu nhiên. Nó có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm
nơi đặt hòm giao ước của Thiên Chúa. Ông so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức
Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn
của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức
Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên
Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của ngài trong “lều
tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu
bằng xương bằng thịt.
Chúng ta nên nhớ
rằng Thiên Chúa có thể hiện diện nơi chúng ta bằng nhiều cách khác nhau, y như
người ta có thể hiện diện với nhau bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn một đứa
con đang trọ học ở trường vẫn có thể hiện diện đối vối mẹ nó qua bức ảnh chụp
của nó trên bàn của bà, hay một cách thân mật hơn qua lá thư nó viết mà bà cầm
trong tay. Khi đứa con về nhà, nó sẽ hiện diện một cách thân mật và hiện thực
nhất có thể đối với mẹ nó, một sự hiện diện bằng xương bằng thịt.
Cũng tương tự như
vậy, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Trước hết
Ngài hiện hiện với chúng ta qua vạn vật mà Ngài sáng tạo. Nơi vạn vật Thiên
Chúa có đặt một cái gì đó thuộc về bản thân Ngài cũng giống như nhạc sĩ đặt một
cái gì đó thuộc về bản thân ông trong dòng nhạc của bài ca ông sáng tác. Kế đó,
Thiên Chúa hiện diện đối với chúng ta qua lời của Thánh Kinh. Tư tưởng của
Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Thánh Kinh, y hệt như tư tưởng của
người nhạc sĩ hiện diện với chúng ta trong bài ca của ông. Sau cùng, Thiên Chúa
hiện diện với chúng ta trong Đức Giêsu. Thiên Chúa đã trở nên hiện diện với
chúng ta bằng xương bằng thịt, y như nhạc sĩ có thể hiện diện có thể hiện diện
đối với chúng ta bằng xương bằng thịt của ông. Điều này khiến chúng ta trở về
với câu đầu tiên mà chúng ta phải đặc biệt lưu ý trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó
là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria rằng quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao
trùm nên nàng. Khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì Thiên Chúa trở
thành hiện diện đối với chúng ta bằng cách thức thân thiện nhất có thể tưởng
tượng được. Ngài đã trở thành hiện diện đối với chúng ta qua sự hiện diện bằng
xương bằng thịt của Đức Giêsu.
Điều này dẫn chúng
ta trở về với câu thứ hai mà chúng ta phải lưu tâm tới trong bài Tin Mừng hôm
nay. Câu này được nói tiếp theo câu trước nói về quyền năng của Thiên Chúa bao
trùm lên Maria. Trong câu này, Thiên sứ nói: “xin báo cho cô biết rằng bà
Isave, chị họ của cô, đã thụ thai một cậu con trai trong tuổi gìa. Ai cũng nghĩ
bà sẽ không con, thế mà bây giờ bà đã có thai được sáu tháng, vì không có gì là
không thể làm được đối với Thiên Chúa”. Trong câu này, mệnh đề quan trọng là
“đối với Thiên Chúa thì không có gì không thể làm được”. Tin Mừng hôm nay làm
nổi bật môt cách tuyệt diệu biết bao ý tưởng “không có gì là không thể làm được
đối với Thiên Chúa”.
Trước khi quyền năng
của Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì thế giới đang sống trong tình trạng vô
vọng. Tội lỗi và bạo lực lan tràn khắp nơi. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao
trùm lên Maria, không có ai hy vọng nàng sẽ sinh con cả, vì nàng là một trinh
nữ. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Isave, bà không còn có thể hy
vọng sinh con được nữa, vì bà đã gìa không còn khả năng sinh sản. Và cuối cùng,
trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, nhân loại không có hy vọng
được cứu rỗi, vì nhân loại đang sống trong vòng nô lệ Satan.
Quyền năng Thiên
Chúa bao trùm lên Maria đã thay đổi tất cả.
Điều đó ý nghĩa gì đối với
chính chúng ta hôm nay?
Điều đó có ý nghĩa là:
Thế giới chúng ta có
thể đang hỗn độn. Gia đình chúng ta có thể đang xáo trộn. Cuộc sống chúng ta có
thể đang hỗn loạn. Nhưng vẫn còn có hy vọng, vì quyền năng của Thiên Chúa đã
nhập vào thế giới này qua con người Đức Giêsu.
Đó là những gì chúng
ta đang chuẩn bị cử hành đón mừng trong những ngày cuối cùng trước Giáng Sinh.
Đó là những gì đem lại cho chúng ta niềm vui ngoài sức tưởng tượng, niềm hy
vọng không dám ước mơ.
Để kết thúc, chúng
ta hãy cầu nguyện. Chúng ta hãy cầu nguyện bằng những lời mà Đức Maria đã dùng
để cầu nguyện khi Ngài đến thăm chị họ Isave của Ngài. Xin anh chị em cùng cầu
nguyện với tôi trong thinh lặng:
“Linh hồn tôi tán
dương Thiên Chúa. Lòng trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa cứu chuộc tôi… Ngài đã
giữ lời hứa với Tổ phụ chúng ta … Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abraham. Và với
tất cả dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc.1, 46 -47. 54 -55)
20. Chú giải của Hugues Cousin
LOAN BÁO CHO ĐỨC MARIA
Lời loan báo này
song song với lời loan báo trước. Tuy nhiên, không phải từ Kinh Thánh mà Luca
vay mượn một trình tự như thế, nhưng từ văn chương Hy Lạp. Khi ấy, tư tưởng Hy
Lạp Platarque đã xuất bản “Những cuộc đời sóng đôi” gồm hai mươi ba cặp tiểu
sử; trong mỗi cặp, ông so sánh giữa một người Hy Lạp với một người Rôma để
chứng minh rằng: dù người Rôma có cao cả bao nhiêu thì người Hy Lạp vẫn có cái
gì vượt cao hơn. Thể loại văn chương mà Luca chọn ở đây là để cho ta tìm không
phải những điều giống mà những điểm khác nhau, có mục đích để bày tỏ trong hai
cậu bé ai vượt hơn ai. Sơ đồ những bài loan tin (xem phần sau) cho thấy khoảng
cách giữa Chúa Giêsu và Gioan.
Hẳn nhiên là câu
chuyện không diễn ra trong khung cảnh huy hoàng của đền thờ, nhưng khiêm tốn
trong một thành xứ Galilê tại một tư gia. Tuy nhiên, lần này thì chính vị sứ
giả từ trời phải ra đi, vào nhà Maria (c.28) và từ đó mà đi ra (c.38). Sự kiện
mặc khải được trao cho bà mẹ tương lai chứ không cho người cha nữa, đánh dấu
một khác biệt, tự nó không mang nhiều ý nghĩa lắm. Những mô hình của Cựu Ước
thực ra cũng để cho phụ nữ xuất hiện. Có cái ý nghĩa hơn nhiều chính là sự đồng
trinh của Đức Maria. Nhờ ơn Chúa, bà Êlisabét vừa thụ thai một con trai do bởi
chồng bà; còn Maria mới chỉ đính hôn, cô chưa thể sống chung với Giuse và sắp
thụ thai mà không có kết hợp phái tính. Việc Gioan sinh ra đã là kỳ diệu và đối
với Chúa Giêsu điều đó còn kỳ diệu hơn.
Sự đồng trinh của
Maria cũng lưu ý về một sự khác biệt lớn trong sơ đồ báo tin. Người thiếu nữ
trẻ nêu vấn nạn trước sứ điệp từ trời cao, khi đặt một câu hỏi tương tự với câu
hỏi của vị tư tế. “Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào bởi vì tôi không có liên hệ
tính dục”. Thế mà lần này, sứ thần lại không hề xem đó như một dấu hiệu thiếu
niềm tin; Ngài đáp lại câu hỏi mà không phê bình, và cho Đức Maria một dấu chỉ,
ngược hẳn với điều mà Giacaria đã nhận được, dấu chỉ ấy không phải là một hình
phạt: người bà con của cô đã có thai. Chính là vì Đức Maria đang đứng trước một
tình huống hoàn toàn mới mẻ từ căn tính trong Kinh Thánh, trong đó, không thấy
nói đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái tính, vị hôn phu của bà
Êlisabét biết rõ lịch sử của Abraham giống trường hợp của ông. Như thế, hai
việc loan báo song song khác biệt nhau ở đây, và cái thinh lặng bắt buộc của vị
tư tế trái ngược với sự chấp nhận thanh thản của nữ tì Chúa, người đã suy phục Lời; và chỉ sau đó Lời đã được thực
hiện. Đức Maria sẽ lại được nói tới bằng danh xưng nữ tì ở Lc 1,48, một từ ngữ mà Luca sẽ dùng ở chỗ khác để chỉ những
thành viên của Hội Thánh (Cv 2,18; 4,29; 15,17)
Lời sứ thần chào Đức
Maria (c.28) là một cái gì “hơn nữa” không có lời nào tương ứng khi báo tin cho
ông Giacaria. “Kính chào cô! Người được ưu ái [của Thiên Chúa]. Chúa ở cùng
cô!”. Thiên Chúa ưu ái cô thiếu nữ khi chọn cô làm mẹ Đấng Cứu Thế – nhưng cô
chưa biết điều đó. Công thức “Thiên Chúa ở cùng cô”, đã được sứ thần của Chúa
nói khi hiện ra với Ghêđêon (Tl 6,12); Thiên Chúa bảo đảm Ngài sẽ bảo vệ người
mà Ngài giao một nhiệm vụ. Từ đó, ở câu sau, Đức Maria thắc mắc về ý nghĩa của
lời chào. Và chỉ lúc sứ giả nói về việc Con Thiên Chúa (c.35) sẽ sinh ra, Đức
Maria mới biết mình là Mẹ của Chúa (xem 1,43); như vậy công thức chào lại càng
có giá trị phản hồi đặc biệt đối với độc giả.
Tên của sứ thần đã
cho độc giả biết ngay từ lúc đầu: Gabriel như trong cảnh trước. Việc sai sứ
thần đến nhà vị hôn thê của một người thuộc dòng tộc nhà Đavít nhắc ta nhớ tới
việc hoàn tất lời hứa về Đấng Mêsia; nhưng Đức Maria không biết gì về gốc gác
của sứ giả – điều này lại càng nhấn mạnh đến đức tin của Ngài vào lời sứ giả.
Sứ điệp từ trời liên
quan tới em bé sắp sinh ra bị chia ra làm hai phần bởi câu hỏi của Đức Maria.
Phần thứ nhất (c. 30-33) diễn tả chức vụ tương lai của Chúa Giêsu (Ngài sẽ nên
cao cả và sẽ trị vì) bằng cách sử dụng những gì mà Cựu Ước nói về Đấng Mêsia
thuộc dòng dõi Đavít. Cuộc đản sinh hoàn tất hai lời tiên tri quan trọng đối
với Giáo Hội của Luca cũng như của Matthêu. Lời thứ nhất là của Is 7,14 (c.31)
như trong bản Do Thái của câu này, chính người mẹ sẽ đặt tên cho con: Giêsu
“Thiên Chúa cứu”, Luca không phiên dịch tên ấy cho độc giả biết nhưng lại gán
cho tên ấy tước hiệu Đấng Cứu Thế ở 2,11. Lời hứa thứ hai là sấm ngôn của
Nathan trong đó Thiên Chúa tuyên bố với Đavít: “Người sẽ con của Ta… ngai vàng
của Người sẽ vững bền mãi mãi (2Sm 7,14.16): vì vậy con trẻ sắp sinh ra sẽ vừa
là con vua Đavít vừa là con của Đấng Tối Cao (c.32)”. Tuy nhiên, việc thụ thai
đồng trinh mang đến một sự điều chỉnh: không phải bởi Giuse, chính ông thuộc
nhà Đavít (c.27), mà Chúa Giêsu là con của Đavít và vì thế được nắm vương
quyền, nhưng hoàn toàn do ơn ban của Thiên Chúa.
Lúc ấy, Đức Maria
thắc mắc về tình trạng hiện tại của mình, khi được báo tin và đặt câu hỏi về
cách thức mà lời loan báo sẽ được thực hiện. Phần thứ hai của sứ điệp (c.
35-37) soi sáng trước tiên cho việc thụ thai đồng trinh, và cung cấp một lời
đáp có tính cách Kitô học sâu xa hơn (c.35). Chúa Giêsu sẽ không chỉ là con của
Đấng Tối Cao, Đấng ban cho Ngài vương quyền của Đavít, mà Ngài sẽ được gọi là
Con Thiên Chúa, bởi vì được sinh ra do quyền năng của Thiên Chúa qua tác động
của Chúa Thánh Thần. Ngài là Con Thiên Chúa bởi vì như Chúa Thánh Thần Ngài sẽ
là Thánh, được dành riêng cho Chúa. Phần Kitô học này thiết lập một khác biệt
chính yếu giữa hai cậu bé được thụ thai một cách kỳ diệu: Gioan sẽ là vị tiền
hô và Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh thuộc dòng dõi Đavít. Còn hơn nữa: trong khi
Chúa Thánh Thần tác động trên Gioan ngay từ trong lòng mẹ, làm cho ông trở
thành vị ngôn sứ duy nhất vô tiền khoáng hậu (x. 7,26), thì cũng chính Thánh
Thần ấy làm cho Đức Giêsu trở thành một Đấng hoàn toàn mới lạ do mối dây liên
hệ chặt chẽ với Thiên Chúa.
Sau đó, sứ điệp từ
trời nêu ra (cc. 36-37) một dấu chỉ về quyền năng Thiên Chúa: bà Êlisabét thụ
thai Gioan giống như điều Kinh Thánh nói về bà Sara thụ thai Isaac (St 8,14).
Và việc sứ thần nhắc đến tháng thứ sáu (cc. 26.36) cho phép nối liến chu kỳ của
Gioan và của Đức Giêsu: Êlisabét là một người bà con với Đức Maria. Thông tin
này là một mặc khải từ trời cho Đức Maria bởi vì Êlisabét vẫn còn ẩn mình
(1,24)
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TRUYỀN TIN CHO MARIA
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bà đã đắc sủng nơi Thiên
Chúa": Kiểu nói này
là một đặc ngữ sêmita; x. St 6,8: "Nhưng Noê đã được nghĩa trước mắt
Giavê".
"Này bà sẽ thụ thai và sẽ
sinh một con trai...":
Câu này song song với St 16,11: thiên thần của Giavê phán (với Agar): Này,
ngươi có thai và ngươi sẽ sinh con ngươi sẽ gọi lên nó là Ismael, vì Giavê đã
nghe thấu nỗi khốn cùng của ngươi". x. Tl 13,3-5
"Bởi thế hài nhi sẽ là
thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”: Trong Hy ngữ, cấu trúc của câu này khá tối tăm; B.J đã cố gắng làm
sáng tỏ bằng cách thêm vào chữ "hài nhi" không có trong nguyên bản.
Theo mặt chữ thì bản văn như thế này: "bởi thế thụ thai thánh"
(I’engendré saint) sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Tuy vậy. tĩnh từ
"thánh" khó có thể làm hình dung từ (épithète) cho tiếng "thụ
sinh" vì nó không có quán từ (article), như văn phạm Hy lạp đòi hỏi (le
saint engendré viết theo văn phạm Hy lạp thì phải là I’engendré le saint: hai
quán từ). Nên có lẽ phải coi "thánh" như một thuộc từ (attribut) và
bấy giờ câu nói trở thành: "thụ sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên
Chúa". Nhưng vẫn còn khó khăn là “Con Thiên Chúa" chẳng phải là sự
nới rộng của ý tưởng thánh"! thật là lưỡng nan!
"Với Thiên Chúa, nào có gì
lại là không có thể":
Trong St 18,14, câu này giải thích việc cưu mang lạ lùng Isaac. "Tôi là
tôi tá Chúa": x. R 3,9; làm 25,41. Ở đây nói đến đức tin (c.45) và tình
yêu mến hơn là lòng khiêm nhượng, vì theo Thánh Kinh, được làm tôi tớ Chúa là
một vinh dự lớn lao vô cùng.
KẾT LUẬN
Trong khi sự tiền
hữu đời đời của Chúa Giêsu được Phaolô và Gioan long trọng giảng dạy, thì tử hệ
thần linh từ lúc mới sinh của Người lại là giáo huấn đặc biệt của Luca, rõ ràng
là trong bản văn hôm nay. Khi tập trung ngay từ đầu đời Chúa Kitô những đề tài
liên quan tới các cuộc thần hiện sẽ đánh dấu từng chặng cuộc sống công khai và
việc khải hoàn sau cùng của Người (so sánh c.35 với phép rửa Chúa Giêsu. Cuộc
biến hình và việc phục sinh), ông muốn dạy ta rằng tước hiệu Con Thiên Chúa
không phải Chúa Giêsu chiếm được sau này, nhưng đã đương phiên thuộc về Người
ngay từ khi người
đến trong thế gian.
Cùng với việc thụ thai đồng trinh là hệ luận, đó có lẽ là giáo huấn chính yếu
của trình thuật truyền tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Sứ mạng của Maria
nối dài và hoàn tất sứ mạng Israel.
Maria là "thiếu nữ Sion" mà từ cung lòng, Đấng Thiên sai sẽ xuất
hiện. Bà là nữ tỳ của Chúa", kẻ gồm tóm và làm cho đẹp hơn ơn gọi của dân
Israel, tôi tớ Thiên Chúa, lẫn ơn gọi của các đại tôi tớ Ngài trong Cựu tước
như Abraham. Giacóp, Môisen, Đavít, Salomon, Isaia và người Tôi tớ bí ẩn của
Gioan trong Is 40-45.
2) Thiên Chúa đã có
thể đặt Maria trước một sự việc đã rồi và sai thiên sứ báo tin rằng bà đã thụ
thai bởi Thánh Thần. Nhưng Ngài đã muốn cần đến sự tự do đồng ý của Maria trong
công trình cứu chuộc: không những vì lòng tôn trọng nhân vị của Maria, mà còn
để làm cho bà trở nên kẻ hợp tác với Ngài hầu cứu lỗi nhân loại qua sự chấp
thuận ý thức và tình nguyện.
3) Dacaria, khi được
loan báo Gioan Tẩy giả sẽ sinh ra, đã xin một dấu chỉ để có thể tin vào tính
cách xác thực của sứ điệp. Còn Maria tin ngay sứ điệp, chẳng xin dấu chỉ gì.
Vấn nạn của bà không phải là một nghi ngờ nhưng là một lời xin soi sáng để tin
hơn. Ta cũng thế, đức tin của ta phải hoàn toàn và tức khắc, nhưng cũng phải
tìm cách soi tỏ ngần nào có thể bằng sự khiêm tốn cầu xin ánh sáng, bằng việc
học hỏi hay ít nhất bằng đối thoại với linh mục. Ở dưới đất này, đức tin luôn
có một phần tăm tối, đức tin của Maria cũng như đức tin của ta, nhưng càng vùng
chãi và càng có tính cách nhân loại chừng nào thì nó càng sáng tỏ chứng ấy.
4) Thiên sứ cho
Maria một lời giải thích. Nhưng rồi mầu nhiệm vẫn còn, "vì đường lối của
thiên Chúa không phải là đường lối của ta". Tuy nhiên lời giải thích của
thiên sứ sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của Maria, vì bà "ghi nhớ những
điều ấy trong lòng để suy niệm" (2,19). Ta cũng vậy, những giáo huấn của
Hội thánh qua bài giảng Chúa nhật và các lớp giáo lý không miễn cho ta hành vi
đức tin. Song chúng sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của ta.
5) Vì lòng thương,
Thiên Chúa vẫn cho Maria một dấu chỉ (việc bà Êlidabét son sẻ mà thụ thai) để
xác nhận lời của thiên sứ và giúp lòng tin của bà dễ dàng hơn. Maria không cần
dấu chỉ này vì bà đã tin lời thiên sứ, nhưng đây là một ân huệ thêm vào. Ta
cũng vậy đôi khi Thiên Chúa gởi cho ta một dấu chỉ rất rõ về sự hiện diện hoặc
ý muốn của Ngài (thí dụ ơn được an ủi thiêng liêng, hoàn cảnh quan phòng biến
đổi cả hướng đi cuộc đời...). Những dấu chỉ đó chẳng phải là tối cần cho đức
tin, ta không nên chờ đợi chúng trước khi tín thác vào Chúa hoàn toàn. Nếu Ngài
cho dấu chỉ chỉ vì lòng thương, ta hãy cảm tạ và khiêm tốn như Maria.
6) Khi lần hạt, ta
lặp lại những lời thiên sứ đã ngỏ với Maria.
7) Maria hoàn toàn
sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa, như một nữ tỳ đúng nghĩa. Bà không biết ý
muốn ấy sẽ dẫn đưa bà đến đâu. Nhưng bà đã thưa vâng trong tin tưởng, yêu mến.
Ta cũng vậy, phải sẵn sàng mền mỏng, phó thác cho đường lối Chúa Quan phòng. Ta
không rõ ý muốn ấy sẽ mượn ngõ quanh co nào, nhưng ta biết chắc rằng đích điểm
sẽ là sự thân mật với Thiên Chúa ngan bây giờ và chiếm hữu Ngài hoàn toàn trong
vĩnh cứu. Ta phải phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa với thái độ sẵn sàng, tin
tưởng của Maria! Chừng đó ta sẽ có niềm vui thấy Thiên Chúa làm "những
điều lớn lao" qua các tôi tớ hèn hạ của Ngài.
8) Thiên Chúa có thể
làm cho cung lòng một trinh nữ sinh con, cũng như có sức hoán cải một tội nhân
nên thánh: chẳng có gì mà Ngài không làm được.
22. Chú giải và suy niệm của Fiches Dominicales
ĐỨC MARIA ĐÃ ĐÓN NHẬN QUYỀN NĂNG THÁNH THẦN
Và nhờ lời xin vâng
của Mẹ, lời hứa với David xưa kia nay đã mặc lấy xác phàm, một biến cố vượt xa
mọi trông đợi thường tình (Lc 1,26-38).
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Trong gian nhà khiêm tốn ở
Nagiarét.
So sánh giữa việc
truyền tin cho Dacaria và cho Đức Maria, ta thấy rõ địa vị của Đức Giêsu cao
trọng hơn Gioan Tẩy giả rất nhiều.
Phải, sự việc không
diễn ra trong sự huy hoàng của Đền thờ Giêrusalem, nơi sứ thần Gabriel hiện ra
với Dacaria, nhưng một cách khiêm tốn "trong một thành xứ Galilê”, trong
một gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét, “khung cảnh tuyệt vời, trong đó mầu nhiệm
cao siêu nhất lại sát cánh với sự nghèo khó trần trụi nhất" (J.Potin:
"Đức Giêsu, chuyện có thật", Centurion, tr. 92). Sứ thần Thiên Chúa
Gabriel dời gót đến gặp Đức Maria và "vào trong nhà Mẹ”.
Trái với tôn ti thứ
bậc thời đó, Đức Maria được nêu tên đầu tiên như người nhận sứ điệp của Thiên
Chúa. Thánh sử đã hai lần nhấn mạnh người thiếu nữ này là một trinh nữ? Còn
Giuse, người đã đính hôn với Maria, được nói đến tên vì Đức Maria và được đề
cập đến vì là "một người thuộc dòng tộc Đavid”. Chính nhờ ngài, Đức Giêsu
mới thuộc dòng tộc Đavid một cách hợp pháp.
Cuộc đối thoại giữa
sứ thần và Maria bắt đầu với lời mời gọi hãy vui lên, một tên mới và một lời
chào.
Lời mời gọi hãy vui
lên: "Hãy vui lên, chứ không phải “ Kính chào bà" theo cách dịch
trước đây. Ngày xưa, các ngôn sứ đã hô vang lời kêu gọi đó ở Giêrusalem
(Soph.3,14; Joel 2,21; Zach. 9,9), mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đến hay vì
Người hiện diện: "Hãy vui lên, hỡi con gái Sion vì Chúa ở vòi ngươi!”.
Tương lai loan báo
cho Giêrusalem trở nên hiện tại cho Maria: Chúa ở "cùng bà" để ở cùng
dân bà.
- Một tên mới: trong
Kinh Thánh, những người lãnh nhận một sứ vụ thường được Chúa ban cho một tên
mới. Danh hiệu này là: “Đấng đầy ơn sủng", "Đấng đẹp lòng Thiên
Chúa”, tất cả có nghĩa là Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu đối với Đức Maria.
- Một lời chào:
“Chúa ở cùng bà” Trong Kinh Thánh, lời chào này không chỉ được thốt lên ở đây,
nhưng sứ điệp đi liền theo sẽ đem đến cho lời chào của sứ thần một ý nghĩa độc
đáo. Đức Maria rất “bối rối" trước lời chào này, và Mẹ tự hỏi lời đó có
nghĩa gì. Vì thế sứ thần tiếp tục nói rõ hơn điều ẩn ý trong câu đầu tiên.
2) Đấng "Thiên Chúa ở cùng
chúng ta" hoàn tất lời đã hứa.
Tiếp sau đó là sứ
điệp về con trẻ sắp sinh gồm hai phần tách biệt nhau bởi câu hỏi của Đức Maria.
Phần một lấy trong
Cựu ước nói về Đấng Mêsia nhà Đavid, phần này mạc khải chức năng của Đấng
Mêsia: "Ngài sẽ nên cao trọng... Ngài sẽ cai trị...”. Việc Ngài sinh ra
làm trọn hai lời tiên tri quan trọng:
Lời thứ nhất của
Isaia 7,14 "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và ngài sẽ đặt
tên cho con trẻ là Emmanuel”. H. Cousin lưu ý: “ Câu này trong văn bản bằng
tiếng Do thái hàm ý chính người mẹ đã đặt tên cho con trẻ là: "Giêsu
" (" Tin Mừng Luca", Centurion tr. 28).
Lời thứ hai là sấm
ngôn của Nathan (bài đọc I), Thiên Chúa tuyên bố cùng Đavid: "Đối với Ta,
nó sẽ là Con... ngai vàng nó sẽ bền vững mãi mãi". Sứ thần báo cho Đức
Maria biết con trẻ sắp sinh ra vừa là con vua Đavid ("Thiên Chúa sẽ ban
cho Ngài ngai báu David tổ phụ ngài), vừa là con Đấng Tối cao”.
Câu hỏi của Đức
Maria: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”:
Câu hỏi này sẽ đưa đến câu trả lời tâm điểm của sứ điệp.
- Phần hai làm rõ
việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh, chứng tỏ một nền Kitô học sâu xa hơn là
nhũng gì đã diễn giải cho đến bây giờ. Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà ":
một cách nói thường được dùng trong Cựu ước, để chỉ ý nghĩa sự khởi xướng của
Thiên Chúa, và Luca lập lại trong Công Vụ Tông đồ để loan báo lễ "Ngũ
Tuần" (Cv 1,8: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi người ngự
xuống trên anh em").
"Quyền năng
Đấng Tối cao sẽ bao trùm bà": Lời này chỉ về Thánh Thần, Đấng sáng tạo bay
là trên mặt nước để ban sự sống lúc khởi đầu của vũ trụ (Gn 1,2).
Những gì Thánh Linh,
Hơi Thở sáng tạo làm từ lúc khởi đầu vũ trụ, Ngài sẽ lại làm trong lòng Đức
Maria: đó là sự thụ thai mà vẫn còn đồng trinh.
“Ngài sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa”. H.Cousin diễn
giải: Đức Giêsu không chỉ là Con Đấng tối cao, Đấng ban cho người vương triều
Đavid, người được tuyên bố là Con Thiên Chúa, vì Người được tạo dựng bởi quyền
năng vô cùng của Thiên Chúa trong hành động của Thánh Thần. Ngài là thánh, được
Thiên Chúa chọn riêng. Nền Kitô học này thiên lập một sự khác biệt căn bản giữa
hai người con được thụ thai lạ lùng: Gioan, vị tiền hô và Đức Giêsu. Đấng
Messia thuộc dòng Đavid. Hơn nữa, khi Thánh Thần ngự xuống trên Gioan biến ông
thành ngôn sứ ngay từ lòng mẹ, một ngôn sứ đặc biệt nhất trong các ngôn sứ,
cũng chính Thánh Thần ấy đã làm cho Đức Giêsu trở thành một hữu thể hoàn toàn
mới nhờ dây liên kết giữa người và Thiên Chúa" (Sđd).
Cuộc đối thoại kết
thúc bằng lời "xin vâng" của Đức Maria, Đấng luôn sẵn sàng vâng lời
sứ thần dạy. Cha Benoit kết luận: Chính Đức Maria là người đầu tiên đã hiểu lời
tiên tri xưa, nay được thể hiện cách cụ thể và lạ lùng trong lòng ngài. Từ Đức
Mẹ mà cộng đoàn trên khởi, tức Hội Thánh đã nhận được mầu nhiệm này, rồi Hội
Thánh đã truyền lại cho các tín hữu... ".
Bài đọc thứ nhất của
Chúa nhật này (2 Sam 7,1-16) cho thấy Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà
Đavid đã muốn xây dựng cho ngài, nhưng trái lại đã hứa cho ông một ngôi nhà
thiên thu là dòng dõi Đavid. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng
trở nên "hòm bia Thiên Chúa”, "đền vàng”, tại đây Con Thiên Chúa đến
ở với loài người. Phải chăng đó là mạc khải của mầu nhiệm "được giữ kín từ
muôn thuở nhưng nay được bày tỏ ra" mà bài đọc 2 hôm nay đã đề cập đến (Rm
16, 25-27)? (Xem "Assemblée du Seigneur", số 8, trang 49-50).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Đức Giêsu là ân huệ nhưng
không đặc biệt của Thiên Chúa".
(L.Monloubou trong:
Tin Mừng Luca, Salvator trang 57-58).
Người ta không được
nhìn bài Tin Mừng này như một bài mẫu Đức Giêsu tuy cao sang, nhưng là phụ
thuộc. Thực ra trang Tin Mừng này nói về chuyện khác. Nó dẫn ta đến chiêm
ngường Mầu nhiệm Thiên Chúa: Thiên Chúa hiện diện như là người bạn đồng hành:
Người “ở với" Maria như một người đối thoại thân tình. Người sai sứ giả
người... Người nói". Đức Maria ngạc nhiên: "Làm sao chuyện ấy... Sứ
giả trả lời... khi ấy Đức Maria nói... Lời người.. ". Người là Thiên Chúa
bình an: "đùng sợ". Thiên Chúa của ân huệ nhưng không: " Ngài
đẹp lòng... ơn cứu rỗi... đầy ơn sủng”.
Đây là một mạc khải
cao trọng về mầu nhiệm Thiên Chúa mà sứ thần có sứ mạng loan báo. Bởi vậy,
trang Tin Mừng này quảng diễn những suy tư của thánh sử về Thiên Chúa qua việc
tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Chính thánh sử nói lên đức tin của ngài
qua việc tuyên xưng này: tin vào Thiên Chúa là Chúa, Chúa Trời, Đấng quyền
năng...; tin vào Người Con là Đức Giêsu, Đấng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao, Con vua
Đavid, Con Thiên Chúa...; tin vào Thánh Linh: Chúa Thánh Linh, Quyền năng của
Đấng Tối cao...
Trọng tâm chính là
Đấng đóng vai trò then chốt trong tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại. Bởi
vì Người là "Con vua David, do mẹ Người "đã đính hôn với một người
thuộc nhà David" nên “Người được Đức Maria đặt tên là Giêsu, nhưng cũng
chính Người còn được gọi là "Con Đấng Tối cao", thậm chí là "Con
Thiên Chúa”. Hai cách xưng hô sau làm mọi người kinh ngạc, nhất là khi so sánh
với những cách xưng hô trước. Những xưng hô ấy có ý nghĩa gì?
Chúng nói lên sự
hiện diện: Thiên Chúa đang ở đây, Thần Khí Ngài "đến”, phù hợp
"bóng" trên Maria, "bóng" nhắc lại bóng mây trong Cựu ước
chỉ sự hiện diện đầy uy quyền của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 40,34-38, 1 R
8,10).
Chúng cũng nói lên
một hồng ân cao cả vượt hơn hẳn những hồng ân xưa nay Thiên Chúa vẫn ban (...).
Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại cách nhưng không.
Hồng ân mà họ không hề mơ tới, đừng nói chi là ao ước.
2. "Ngày nay trình bày đức
tin là đón nhận Đấng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta"
(Mgr. Cl. Dagens
trong: "Trình bày đức tin trong xã hội hiện tại", Kỳ họp HĐGM Pháp tại
Lộ Đức 1994, Cerf, tr. 45-46).
Trước hết, tin vào
Đức Giêsu Kitô không phải là sự hiểu biết cao siêu dành riêng cho tầng lớp ưu
tú những người đã được khai tâm. Niềm tin này được trình bày cho tất cả mọi
người, cách riêng những người nghèo hèn, nhỏ bé thực sự, những người nghèo hèn,
nhỏ bé, những người đau ốm hoặc những người bị loại trừ là những người có thể
sống như Đức Kitô một cách sâu xa bằng lời cầu nguyện và bằng của lễ là chính
bản thân họ.
Đàng khác, kinh
nghiệm đức tin này không nhằm vươn tới Thiên Chúa để chiếm hữu hay điều khiển
Ngài. Hành vi đầu tiên của đức tin là đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa và Ngôi Lời
của Thiên Chúa đã mặc xác phàm và ở giữa chúng ta.
Thái độ cởi mở chính
yếu này đối với Mạc khải và ân sủng Chúa đánh dấu hành trình thiêng liêng thâm
sâu của Kitô hữu.
Là giáo dân hay tu
sĩ cũng vậy, các tín hữu đều muốn nói lên điều này, đó là làm thế nào đức tin
đã giúp họ có thái độ cởi mở với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện hay lắng nghe Lời
Chúa. Và ngày nay, những anh chị em nào đã trải qua thử thách về sự cô độc và
cuộc sống bất định cũng thích nói đến tự do của con cái Thiên Chúa, tự do chúng
ta luôn có thể đạt được một khi đã vượt qua sa mạc.
Hình ảnh của kinh
nghiệm thiêng liêng trong đức tin Kitô giáo là: tiến vào giao ước, vào cuộc đối
thoại, và vào mọi tương quan mà chính Thiên Chúa là người khởi xướng.
23. Chú giải của Noel Quesson
Một trong những cách
chuẩn bị tốt nhất để mừng lễ Noel, đó là suy niệm trình thuật về biến cố Truyền
tin. Hiển nhiên là Thánh Luca đã ti.ếp xúc các môi trường Do Thái Palestin, nơi
mà truyền thống và dòng họ Đức Giêsu vẫn được bảo tồn. Cũng có thể ông đã gặp
riêng Đức Maria, Đấng hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong
lòng" (Lc 2,19). Luca cho mình là sử gia, nên ông đã lo lắng tập tục là
người đã được chứng kiến ngay từ đầu để tra cứu vấn đề đầu đuôi mọi sự trước
khi viết ra" (Lc 1,2-3). Vả lại Luca là một nghệ sĩ tế nhị là người tường
thuật tinh tế nhất trong bốn Thánh sử. Hơn chúng ta ngày nay, gần cận với những
biến cố mầu nhiệm đã xảy ra, hẳn là Luca đã cảm thấy vấn đề khi sử dụng ngôn
ngữ: phải dùng từ nào để diễn ta kinh nghiệm huyền bí đang sống động nơi một
thiếu nữ đã thực sự thụ thai mang xác thịt Ngôi Lời Thiên Chúa, được Chúa Cha
dự kiến từ thuở đời đời. Rất may Luca sử dụng truyền thống văn chương và thần
học lâu đời của Kinh thánh. Vì vậy, ông viết "báo cáo" của mình rất
trôi chảy theo khuôn khổ ngôn ngữ đã được Thánh Thần chuẩn bị rất tinh vi trong
dân Israel.
Bức vải vẽ cảnh Truyền tin được dệt bằng những “sợi chỉ" Kinh thánh. Khi
nhận ra những sơi chỉ đó ta sẽ càng nhận thức được rằng, mạc khởi là một về
huyền diệu của những kiểu nói, những hình ảnh, những dụ ngôn, nhằm diễn ta mầu
nhiệm về Thiên Chúa khó hiểu thấu bằng ngôn ngữ loài người.
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel
đến một thành miền Galilê, gọi là Nagiarét, đế gặp một thiếu nữ…
Luca chủ ý đặt một
đối nghịch giữa việc loan báo sự sinh ra đời của Gioan Tẩy Giả với cảnh Truyền
tin sinh hạ của Đức Giêsu.
Trường hợp trên: Đó
là Giêrusalem... trong đền thờ…với một tư tế... ông này - không tin điều đó.
Trường hợp sau: Đó
là Nagiarét... trong một ngôi nhà riêng... với một thiếu nữ... cô này hoàn toàn
ưng thuận. Đúng vậy, Nagiarét là một làng nhỏ tầm thường. Theo các nhà khảo cổ,
nó chỉ bao gồm khoảng 20 căn nhà, với 150 dân. cự.. Galilê cũng là một xứ bị
người ta coi thường. Từ Nagiarét, thì có cái gì hay được?" (Ga l,46). Vẻ
đơn sơ của căn nhà Maria ở, tương phản với vẻ trang trọng trong cuộc báo tin
cho Giacaria, giữa khung cảnh hùng vĩ và thánh thiện của Đền Thờ, tại Giêrusalem,
thủ đô (Lc l.,5-25).
Tôi dùng tưởng tượng
chiêm ngắm Đức Maria trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn không ai biết đến, để suy
niẹm sự khiêm hạ của Thiên Chúa nhập thể. Một ngày kia, thánh Phaolô sẽ nói:
"Ngài đã làm cho mình hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,7).
Một thiếu nữ đã kết hôn với một
người tên là Giuse, con cháu nhà Đavít. Thiếu nữ ấy tên là Maria.
Trong một đoạn văn
không có gì là song đối với bản văn trên, Mát-thêu quả quyết cả hai chân lý
lịch sử một trật: Quan hệ dòng dõi nhà ‘Đavít của bé thơ và tình trạng tinh
khiết của mẹ em (Mt 1,18-25). Tên Yosephel có nghĩa là: "Xin Chúa thêm
cho". Còn tên "Miryam" có nghĩa là: "Bà sang trọng".
Tôi hình dung ra cảnh, những cô bạn, những thiếu nữ hàng xóm đang gọi tên
"Miryam" tại giếng làng mà họ tới kín nước. Đó là một thiếu nữ hoàn
toàn giản đơn, không có gì đặc sắc phân biệt cô với các bạn hữu khác. Tôi cũng
hình dung ra cảnh hai người đã đính hôn đang âu yếm gọi tên nhau:
"Miryam"... "Yosephel"?
Sứ thần vào nhà cô và nói:
"Kính chào bà, bà đầy ân sủng!".
Có lẽ chúng ta đã
chờ đợi một lời chào như: "Kính mừng Maria!". Thế mà, thay vì Maria,
sứ thần lại dùng "Đầy ân sủng" như một tên gọi. Cũng như trong nhiều
trình thuật về ơn gọi, Thiên Chúa thường đổi tên cho con người. Maria trở thành
"Đầy ân sủng" mà ta còn có thể là “Được Thiên Chúa sủng ái". Từ
nay, trong tiếng Do Thái, gợi đến "kẻ yêu dấu”, "người được sủng
ái" trong cuốn Diễm ca.
Kiểu nói Hy Lạp được
sử dụng để chào nhau là "Kairé", thực sự mang ý nghĩa "Hãy vui
lên". Đó là một sự ghi nhớ lại Cựu ước (Xp 3,14; Dcr 2,14 - 9,9; Is 54,1).
Các ngôn sứ yêu cầu "thiếu nữ Sion" hãy reo vui lên khi ngắm nhìn
Đấng cứu độ mình đang tiến đến gần: "Reo vui lên! Nữ tử Sion, hãy vui
lên". Và chúng ta biết, niềm vui đã là đề tài luôn được bàn đến trong Tin
Mừng Luca. Vì thế, đây là lời đầu tiên Thiên Chúa gửi cho trần gian: "Hãy
vui lên!".
Thiên Chúa ở cùng bà.
Đó là kiểu nói Thiên
Chúa quen dùng khi Người muốn trấn an nhưng kẻ Người mới gọi đảm nhận những
trách nhiệm nặng nề (St 15,1; Xh 4,12; Tl 6,12-17). "Đừng sợ? Ta sẽ ở cùng
ngươi! ". Trong phục vụ, vị chủ tế cũng thường lặp lại với ta lời cầu chúc
này: "Chúa ở cùng anh chị em!". Chúng ta có tin tưởng vào lời chào
chúc đó không? Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Nghe những lời ấy, cô hoảng sợ,
và tự hỏi không biết lời chào như vậy có nghĩa gì.
Ở đây nếu chỉ nhận
thấy một phản ứng tâm lý, thì ta mới dừng lại ở khung dạng bên ngoài. Trong Cựu
ước, bất cứ cuộc đưa tin nào cũng đều gây “sợ hãi" cả. Một lần nữa, đây là
kiểu nói Kinh thánh, có nghĩa là: Hãy chú ý ở đây đang bàn đến mầu nhiệm? Những
lời này chứa một ý nghĩa kín ẩn, cần phải khám phá? Thiên Chúa vẫn có đó! Đây
là điều quan trọng! Thiên Chúa luôn là Đấng gây bối rối, xuất hiện bất ngờ và ở
trong tình trạng kín mật... Thế nên, được mời gọi đến gần Chúa, con người dễ
phát sinh cảm tình muốn lùi lại, run sợ trước vẻ thiêng thánh...
Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì
bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai... và đặt tên
là Giêsu.
Luca sử dụng một
kiểu nói có sẵn, rất nhiều lần được dùng trong Kinh thánh (St 16,11-17-19; Tl
13,5-7; Is 7,14). Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người
ta sẽ đặt tên con trẻ là Emmamuel". Lời sấm của Isaia từ lâu vẫn được hiểu
theo nghĩa, việc hạ sinh Đấng cứu thế mà vẫn còn trinh khiết, như bản dịch Hy
Lạp của 70 học giả xác nhận. Trong đó, ta thấy từ Hy Lạp "parthénos"
(trinh nữ) chính xác hơn từ Do Thái "almah" (người nữ không lấy
chồng).
Người sẽ nên cao cả, và thiên
hạ sẽ gọi Người là Con Đấng tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người
ngai vàng Vua Đavít, tổ tiên của Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn
đời,và vương quyền của Người sẽ vô cùng tận.
Maria thuộc lòng
"lời tiên báo của Na than" (2 Sm 7,12-17) mà sứ thần gởi lại cho cô.
Đối với chúng ta, đó là một thứ ngôn ngữ hơi bí hiểm. Những mọi người Do Thái
đều hiểu lời đó theo ý nghĩa: Con trẻ này sẽ là Đấng cứu thế mà thiên hạ được
loan báo và chờ mong.
Làm sao có chuyện ấy được; vì
tôi không biết đến chuyện vợ chồng.
Ý định của Luca thật
là rõ ràng: ông không muốn để người ta phải nghi ngờ gì về sự trinh khiết của
Maria. Thời đó, theo tập tục Do Thái, lễ đính hôn cho phép các người nam kết
ước được hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm chồng, kể cả những tương quan giao
hợp... Luca loại bỏ giả thiết này. Maria đã cân nhắc suy nghĩ và chọn sống đồng
trinh. Vấn đề đố khiến ta cần đi sâu vào trong tư tưởng và tâm hồn Maria. Cô đã
tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, trong một tình yêu huyền bí, tuyệt đối,
chuyên nhất... như biết bao người khác vẫn làm từ lâu rồi? Điều đó không làm
giảm giá trị bậc sống hôn nhân gì hết! Nhưng nó làm nổi bật một lý tưởng khác,
là một số người có thể chọn lựa một cách hợp thức, như' sau này Đức Giêsu có đề
cập đến (Mt. 19,12). Đàng khác, qua cuộc khám tìm nếp sống của nhóm người
Essenien tại Qumraxl, giờ đây ta biết rằng, đó không phải là một lý tưởng xa lạ
gì với Israel:
vào lúc xảy ra các biến cố trên, lý tưởng sống độc thân tự nguyện tận hiến đã
bắt đầu phổ biến rộng rãi.
Thánh Thần sẽ ngự xuống trên
bà, và uy quyền Đấng tối cao sẽ che chở cho bà.
Chúng ta đừng tưởng
rằng, Maria đã thấu suốt mầu nhiệm Ngôi vị của người con mình qua những định
nghĩa tín lý trừu tượng. Không! Nhờ ý nghĩa của các hình ảnh và dụ ngôn Kinh
thánh diễn tả, mà cô hiểu sự việc cách cơ bản thôi. Ở đây, Maria đứng trước một
đề tài huyền diệu về "shekinah", hay "mây"; "bóng
mát", dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thần khí bay lượn trên nước lúc
khởi đầu để ban sự sống (St 1,2). Và đây là một cuộc tạo thành mới nới Đức
Mària "mây" phủ kín trướng tao phùng trong bóng mát (Xh 40,35). Và
giờ đây Maria trở nên nơi cư ngụ của sự hiện diện Tháp Chính dưới bóng của: mây
trời" mà Thiên Chúa đã phán dạy Môsê (Xh 16,10). Khi Salômon khánh thành
Đền thờ, năm 986, thì "mây xuống đầy nhà Chúa" (1 V 8,10). Đối với
một nữ Do Thái, những lời của sứ thần đã gợi lên tất cả những điều đó.
Vì thế, hài nhi sắp sinh ra sẽ
được gọi là Đấng thánh, là con Thiên Chúa.
"Thần
khí...", "Quyền năng...", "Đấng thánh...", "Đấng
tối cao...". Luca muốn diễn tả cho ta hiểu, ngay từ giây phút đầu tiên,
nhân tính của Đức Giêsu đã được thần khí
Thiên Chúa thấm
nhập. Ngôn ngữ đượm màu sắc Kinh Thánh. Ai không chấp nhận bắt đầu từ giới mức
đó – giới mức của Đức tin - thì mới chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài trình thuật. Lạy
Chúa, xin giúp con,biết dừng lại, sửng sốt mà thờ lạy, trước mầu nhiệm được
diễn tả qua ngôn ngữ gợi ý trên đây. Trứng thụ thai trong dạ một người nữ, đó
là một mầu nhiệm tuyệt vời,: vượt qua mọi định luật tự nhiên. Thánh Gioan sẽ
nói: "Ngôi lời đã nhập thể" (Ga l,14). Ngày đó, ngang qua những gì đã
biết nhờ vốn liếng Kinh thánh tại sao Maria lại không có thể hiểu, những gì sẽ
xảy ra? Dẫu sao, chắc chắn đó chưa phải là điều rõ ràng trong những định nghĩa
tín lý.
Này tôi là nữ tỳ của Chúa.
Thiên Chúa không thể
đưa dẫn Maria tới chức năng làm mẹ mà lại không thông tin và hỏi ý kiến trước.
Thiên Chúa không đặt chúng ta đứng trước một sự kiện đã rồi. Ngài tôn trọng
lãnh vực tự do và trách nhiệm của mỗi người. Qua ngôn ngữ Kinh thánh trên,
Maria đã hiểu rõ điều cốt yếu để dấn thân với ý thức đầy đủ về sự việc.
Nhưng ta cũng đoán
được đó là "trong đức tin". Lạy Chúa, xin cũng giúp chúng con biết
tin tưởng.