Hạt giống phải chết đi, phải
mục nát trước khi nảy mầm, đâm bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho
bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng ta, những người tin theo Chúa đều
biết rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian khổ của chúng ta rồi sẽ
sinh hoa kết trái, nhất là khi những cố gắng, những hy sinh và gian khổ
ấy được thi hành vì lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với
anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian
khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã
có được hoa trái của sự phục sinh vinh quang. Mùa Chay sắp kết thúc,
những cũng chưa quá muộn để chúng ta chôn vùi bản thân, từ bỏ chính mình
vì Đức Kitô và vì anh em...
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Gr
31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33
MỤC LỤC
1. Hạt giống nảy mầm
Vào một đêm giông bão,
có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vào một khách sạn nhỏ và hỏi viên
thư ký: - Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: - Thưa ông bà,
tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào
lúc 1 giờ sáng như thế này. Người chồng hỏi lại: - Anh nói gì? - Ông bà có thể
ngủ tại phòng tôi. - Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? - Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng
cho tôi.
Sáng hôm sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký: - Anh là
một người quản lý có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể
một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm sau, viên thứ
ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi New York và tấm danh
thiếp của người khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới một
đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và nói: - Đây là khách sạn tôi đã xây để
cho anh quản lý. Không nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng
cám ơn. Mạnh thường quân của anh là Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn
tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh là một khách sạn tiện nghi nhất thời
bấy giờ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào Lời Chúa phán với chúng
ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới sinh
nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình, bằng
cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ. Và sự hy
sinh ấy đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được quản lý một khách sạn sang
trọng và nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi, phải mục nát trước khi nẩy mầm, đâm
bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng
ta, những người tin theo Chúa đều biết rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian
khổ của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết trái, nhất là khi những cố gắng, những hy
sinh và gian khổ ấy được thi hành vì lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương
đối với anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian
khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã có được
hoa trái của sự phục sinh vinh quang.
Mùa Chay sắp kết thúc, những cũng chưa quá muộn để chúng ta
chôn vùi bản thân, từ bỏ chính mình vì Đức Kitô và vì anh em, bởi vì có cùng
chết với Đức Kitô, thì rồi chúng ta mới sẽ được sống lại trong vinh quang với
Ngài.
2. Giờ Chúa đến
Đọc lại Phúc âm, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào
cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết
sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ
phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí
trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và
cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet,
Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh
mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã
làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy
nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của
sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói
tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói
về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón
nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta
vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta
chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra
sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật
cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy
như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết
rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát
đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt
lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực
hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh
quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới.
Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa
Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm
cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về
cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ
kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến
mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương
và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu
biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những
người con cái Chúa.
3. Hạt lúa mục nát
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa xuân năm ấy, có
hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái
nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên
qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá
cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên
mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên
xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự
nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng
đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những
chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe
lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa,
một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an
toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng
đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô
chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với
đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa
giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết
hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng
chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi
gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục
nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối
với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải
chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức
khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cày bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt
vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt
mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những
từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó
được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người
thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng
đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi
trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong
đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi
dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau
đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và
xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp,
phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối
đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng
có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật
Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật,
những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những
nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những
con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi
một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những
“cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận
những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ
kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý
riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy
nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm
theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ
ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ
sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp
với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là
tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được
chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần
gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con
ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây
lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy
sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao
giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương
dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự
sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin
cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa
của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng
con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng
con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi
từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước
Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
Kiểm điểm đời sống
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ
để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc
sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu
điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu
điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều
này thế nào?
4. Hạt lúa trơ trọi
(Trích trong
‘Manna’)
Suy niệm
"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó
vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy
khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Chết để sinh
nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ?
Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình. Tôi cô đơn với tôi, để được
yên ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau, nên tôi tìm đủ cách để giữ
lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả,
vì mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của
mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra
rằng: chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến. Tôi bắt đầu được
khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ ngay lúc này,
ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, tôi chỉ
giàu có và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi
những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên
Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi: "Vì chính
khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản
thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ, đón lấy cái chết
như hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây?
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì giờ này mà con đã
đến." (c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại, đã có những cuộc
chiến Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ
thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Sau nhiều lần dám liều mất tất cả để
rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều, tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước
mắt như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài, kéo tôi lên
khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi ý chia sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để
chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc
sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại
được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến
những hại giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy
sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân
tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của
họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ
sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời
một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho
chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết
đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối
và tha nhân. Amen.
5. Tôi sẽ lôi kéo mọi người
(Yvon Daigneaut)
Mở đầu
Trong khi bài Tin Mừng được tuyên bố, chúng ta đã nghe Chúa
Giêsu nói một lời khó hiểu: “Khi tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo
mọi người đến với tôi”. Lời này ám chỉ hai điều: việc Ngài sắp bị đóng đinh
thập giá và tầm ảnh hưởng vô biên từ cái chết của Ngài trên thập giá. Vì không
có thói quen nhắc đến những nguyên nhân trừu tượng và những ý niệm tổng quát không
thể kiểm chứng được, Chúa Giêsu mời chúng ta lưu ý đến một biến cố sắp xảy ra
liên quan đến Ngài cách tuyệt đối –bởi Ngài là người độc nhất bị nâng lên khỏi
mặt đất- và sẽ liên quan đến chúng ta một cách cũng tuyệt đối như thế bởi vì
hết thảy mọi người sẽ được lôi cuốn bởi biến cố này và sẽ dấn thân vào đó.
Biến cố thập giá
Thập giá không phải là một biến cố anh hùng mà Chúa Kitô ao
ước đương đầu bằng tất cả bầu nhiệt huyết cách mạng. Đây là một biến cố khá nhỏ
nhen, bần tiện, với một hậu cảnh tôn giáo chính trị khó hiểu, mà Chúa Giêsu đã
tìm cách tránh trong một thời gian dài, nhưng vẫn không trốn thoát nó. Khi Ngài
thấy biến cố này đang đến và Ngài không thể hoãn lại lâu hơn nữa, Ngài đã đón
nhận nó bằng tác động vâng phục hoàn toàn tự do của một người con, sẵn sàng tự
hiến như Chúa Cha đã yêu cầu Ngài.
Vì trong cơ bản thập giá là cuộc tự hiến hoàn toàn mà Chúa
Con dâng lên Cha Ngài bằng hành vi vâng phục được thể hiện trong một vụ án bất
công, kèm theo sự ruồng bỏ của những kẻ thuộc về Ngài, trong một cái chết gây
ra bởi nỗi đau đớn tột cùng do việc bị đóng đinh thập giá. Qua hành vi vâng
phục này Chúa Giêsu hiến mình trong một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha
Đấng có thể cứu Người khỏi chết và khỏi quyền lực tối tăm đang tấn công Ngài.
Chúa Giêsu không chấp nhận thập giá vì Ngài, Ngài chấp nhận
nó vì chúng ta. Chính thập giá của thế giới mà Ngài đã mang, thập giá mà sự bất
tuân của chúng ta và việc chúng ta từ chối Chúa Cha đã áp đặt cho chúng ta, nó
là công trình tay chúng ta làm ra, hoa quả trổ sinh từ những bất chính của
chúng ta. Khi chấp nhận thập giá chung của loài người, khi mang nó như thể nó
thuộc về bản thân Ngài, Chúa Giêsu đã sống nó trong một tiếng kêu hy vọng và
tin tưởng mà Chúa Cha sẽ đón nhận. Sự hiến dâng và lời khẩn cầu của Ngài đã cứu
Ngài và cứu chúng ta nữa cùng với Ngài.
Thập giá là nguồn
mạch sự sống
Sự cứu độ của chúng ta, với tư cách là cộng đồng nhân loại
và với tư cách cá nhân, chỉ nằm trong việc trở về với Thiên Chúa, trong ý muốn
vâng phục của con cái, hoa quả của một Giao Ước Mới. Và chúng ta không thể thực
hiện được điều này bằng sức riêng mình, vì việc từ chối ban đầu chống lại tình
yêu Thiên Chúa tiếp tục đè nặng trên chúng ta và áp đặt cho chúng ta một gánh
nặng ngày càng khiến chúng ta tê liệt.
Trái lại, nếu Ai Đó có thể giao hòa chúng ta lại với Thiên
Chúa, vì Ngài và vì chúng ta hết thảy, bằng việc đón nhận trọn vẹn tình yêu của
Chúa Cha, dù là trong một biến cố đầy thử thách như biến cố thập giá, lúc đó ta
sẽ tìm lại được tình thân hữu với Thiên Chúa. Lòng chúng ta sẽ có khả năng
thương yêu và giao hòa, có khả năng vui vẻ đón nhận ơn sự sống. Sự sống sẽ tuôn
trào từ thập giá cách tràn trề đến nỗi làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Nhờ
chấp nhận thập giá của loài người, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta sự sống mà Chúa
Cha đổ tràn trên Ngài trong cuộc Phục Sinh: thông ban Thánh Thần; ân sủng; sự
hiệp thông đời đời với Thiên Chúa; qui tụ loài người thành một cộng đoàn mới;
hoàn tất việc tạo dựng trong công chính, bình an và tự do.
Kết luận
Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ lôi cuốn hết thảy mọi người!”. Ảnh
hưởng của thập giá luôn luôn lan rộng. Không nỗi đau khổ nào của loài người
được tách rời ra khỏi thập giá, không niềm hy vọng nào nảy sinh trong lòng lại
bị chối bỏ. Thập giá của Chúa Giêsu làm cho thế giới này được sống. Như từ một
nguồn suối, sự sống đang tuôn trào từ thập giá, đang thấm nhuần và biến đổi thế
giới này.
6. Chúng ta đang sống ở giờ nào?
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’, Achille Degeest)
Trong Phúc Âm của thánh Gioan, Chúa Giêsu thường hay nói đến
“giờ”
của Người. Giờ của Người đây, tức là lúc Người đạt tới đỉnh sự mệnh Cứu thế của
Người, nghĩa là cuộc Khổ nạn và sự Sống lại của Người. Không nên tách rời hai
việc đó. Cái chết là sự vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, như sự Phục
Sinh đem lại cho nó một ý nghĩa bằng cách đề cao và tăng thêm sự sống. Giờ của
Chúa Giêsu vừa là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là ngày Chúa Nhật Phục Sinh và
giờ đó, ngày nay vẫn tiếp trong mỗi người Kitô hữu là một kẻ cũng bị đóng đinh
và Phục Sinh. Ở đây, Chúa Giêsu dùng dịp mấy người ngoại giáo đến gặp Người để
nói về Giờ của Người. Những người ngoại giáo này là những người “Hy lạp” có cảm
tình với đạo Do Thái. Họ đến Giêrusalem để hành hương, mặc dầu họ chưa thuộc về
dân của Abraham. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nói đến Giờ của Người, tức là sự Cứu
chuộc, cũng dành cho người này. Tại sao vậy? Người nói đến sự Cứu chuộc bằng
cách đem so sánh với hạt lúa gieo xuống đất chết đi trổ lên thành bông khác.
Hạt giống chết đi, chính là Người, Đức Giêsu. Những hạt lúa được tăng gấp lên trong
bông lúa là tất cả các dân tộc, hết thảy mọi người, tất cả những người “ngoại
giáo” sẽ trở thành tín hữu.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta nêu lên ba đề tài suy
tư:
1) Hết thảy mọi Kitô
hữu được kêu gọi sống “Giờ của Chúa Giêsu”. Chúng ta phải lưu ý điểm này là
trong Phúc Âm của thánh Gioan, hai tiếng Vinh quang, và Chết rất gần nhau, hầu
như nhập làm một. Điều này gợi lên cho chúng ta hai ý: thứ nhất, người Kitô hữu
không được miễn trừ việc khai tử nơi mình, những gì chống lại sự sống thật. Phép
rửa tội đã dấn thân họ trong một mầu nhiệm của sự chết. Họ không hơn Thày họ.
Họ phải chết về thể xác, song họ cũng phải qua một cái chết tinh thần nào đó.
Cái chết tinh thần được mệnh danh là sự từ bỏ chính mình. Thứ hai, họ có được
phép vì thế, mà phải tỏ ra vẻ khắc khổ và buồn sầu không? Trái lại là khác, họ
cũng đồng thời phải sống mầu nhiệm Phục Sinh-Vinh quang và hoan lạc. Sự từ bỏ
của người Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự hiệp nhất với cái chết và sự Phục
Sinh của Chúa Giêsu, trong việc bắt chước Chúa Giêsu. Đức Giêsu Kitô đã liên
kết trong “Giờ”
của Người cái thực tại bất khả phân của sự đau khổ và sự tôn vinh của Người.
Người Kitô hữu, người của sự từ bỏ cũng vậy, họ cùng lúc phải là người của sự
hoan lạc tinh thần. Phải chăng “Giờ” của Chúa Giêsu là đánh dấu mỗi giờ
trong cuộc đời chúng ta?
2) Mỗi người Kitô hữu
đều được kêu gọi trở thành hạt giống gieo xuống đất. Điều này làm nên phần
riêng của tình trạng việc cứu rỗi thế giới. Dầu bên ngoài có được kêu gọi hay
không, mỗi người Kitô hữu do sự kết hiệp với Đức Kitô cũng có được mời gọi tham
gia vào việc cứu rỗi hết mọi người anh em mình. Nếu họ không thể hành động
được, người đó hãy nuôi dưỡng ý chí tán dương mà của lễ thầm kín của sự cầu
nguyện, đau khổ và cái chết của người đó kết hiệp cùng Chúa Giêsu dâng lên
Thiên Chúa, để cứu rỗi nhiều anh em mình. Nếu họ có sứ mệnh hoạt động thì họ
phải nhớ rằng sự hiệu nghiệm của các hoạt động mình tùy thuộc trước hết và trên
hết sự hiệp thông của mình với lời cầu nguyện và cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu.
3) Chúa Giêsu nói:
“Ai yêu sự sống mình thì mất nó, còn ai ghét sự sống mình đời này thì sẽ giữ nó
cho sự sống đời đời!” Điều quan trọng là phải hiểu Đức Kitô muốn nói gì.
Đây không phải là chuyện tương phản giữa yêu và ghét. Chúa Giêsu nói bằng ngôn
ngữ đó, sự tương phản nhiều khi chỉ là 1 cách so sánh. Chúa Giêsu nói: “Ai yêu
sự sống đời này hơn số phận vĩnh cửu của mình sẽ mất hết.
Vậy để được sống đời đời, phải biết từ bỏ ít nhiều thỏa mãn
thế tục. Như vậy người ta gặp lại ở đây đề tài: phải biết chết cho mình, để đạt
tới đời sống đích thật. Người Kitô hữu theo Chúa Giêsu trong sự đau khổ và
trong cái chết của Người, nghĩa là trong lễ tế của Người, và cũng theo sát
Người trong cuộc Phục Sinh và Vinh quang Người, trong lúc chờ đợi thực hiện cho
mình lời hứa của Thầy Chí Thánh: Ta ở đâu, môn đệ Ta cũng sẽ ở đấy (Gio 14,3).
7. Quy luật sự sống
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
Cái chết của ông Y.
Rabin, Thủ tướng Israel
ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết
ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước
vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của
Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát
hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và
dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục
sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người
da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết
bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể
xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là
lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như
chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm
cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine
có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu
xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái
chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù
đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết
như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài.
Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng
Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi
và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng
khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại
đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý
nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục
thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó
mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp
trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu
sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong
Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi
con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm
hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ
tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…”
Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối
hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô
cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã
lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi
chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho
Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên
Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương
của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài.
Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự
phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người
bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình
của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt
lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn
rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở
thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu
cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt
giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn
sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này,
nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp
nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.
Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con
người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột
xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn
thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn
là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt
lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng
đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn
được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hat lúa phải mục nát đi
trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt”. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của
Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài
phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả
đều được cứu chuộc.
Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng
đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ
mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc
sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài
phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã
có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó
là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải
phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống
của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị.
Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng
đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con
người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi
theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của
Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở
thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với
Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng
2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà
đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.
8. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu
(Suy niệm của Noel Quesson)
“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên
với Tôi”.
Năm
1941, một tù nhân
đã trốn khỏi nhà tù Auschwits của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi
tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ
có mười
người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10
người.
Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời
ơi, vợ
tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!”. Cha Maximiliano
Kolbe cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người
tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ
anh cho
đủ mười người. Cha Kolbe và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc
cuộc
sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như
phân bón.
Người tù thoát chết
tên là Francis Gap Wniczek kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết
của Cha Kolbe, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất
thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi
gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kolbe vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm
bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha
Kolbe, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng
ta là những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa
chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta như Người đã nói: Không
có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta,
cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại
ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con
khỏi giờ này”. Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì
giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.
Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa
phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng
tỏ được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh giá là xây dựng vinh
quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm
nay, biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.
9. Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt
(Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà)
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi
Đức Giêsu vào đền thánh Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, được dân chúng cầm nhành lá
thiên tuế tiếp đón và tung hô. Vì thế những người Pharisêu bảo nhau: "Các
ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy
hết!" (c.19). Bằng chứng là, theo câu đầu của Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm
nay, có một số người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin cho "được gặp ông
Giêsu".
Chúa Giêsu trả lời họ: "Đã đến giờ Con Người được tôn
vinh!" Giờ vinh quang của Con Người chính là giờ của thập giá, giờ Đức
Giêsu vâng lời Chúa Cha hoàn tất công cuộc cứu thế. Chúng ta tưởng như Đức
Giêsu không màng tới mấy người Hy Lạp muốn đến gặp Người, nhưng thực ra Người
muốn trả lời với họ một cách sâu xa rằng: qua sự tôn vinh của Người, nghĩa là
qua cuộc Thương Khó của Người, không những các người Hy Lạp, mà tất cả các dân
tộc trên thế giới "được gặp Đức Giêsu", được lãnh ơn cứu độ: "Đã
đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo
vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó
mới sinh được nhiều hạt khác." Đức Giêsu chính là hạt lúa gieo xuống đất:
nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người mà toàn thể nhân loại được cứu độ. Đức
Giêsu không những chiến thắng sự chết, nhưng quan trọng hơn nữa, chính qua sự
chết, Người ban sự sống: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ
kéo mọi người lên với tôi". Nếu trước đó tội lỗi và sự chết lôi kéo con
người xuống, thì giờ đây, thập giá của Đức Kitô sẽ lôi kéo mọi người lên và ban
ơn cứu độ cho toàn nhân loại.
Đức Kitô kêu mời mỗi người chúng ta theo gương Người, trở
thành như hạt lúa: cần phải được vùi xuống đất, chết đi để sinh nhiều bông hạt.
Không phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của
chúng ta: ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán... Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng
ta đã được dìm vào trong nước thanh tẩy, nghĩa là được dìm trong cái chết của
Đức Kitô và cùng sống lại với Người, sống một đời sống mới (Rm 6,3-5).
Trong đời sống mới này, chúng ta có thể nói như thánh
Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong
tôi" (Gl 2,20). Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cần phải theo sát gót
Người: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy
cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy". Theo
Thầy Chí Thánh vác thập giá mỗi ngày, hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, ngay
cả đến việc hy sinh mạng sống của mình vì Đức Kitô.
Ước gì, trong Mùa Chay thánh này, chúng ta sống như hạt lúa:
biết hoán cải lòng mình để sống thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, và sống bác ái
hơn với mọi người, để chuẩn bị tích cực mừng đại lễ Phục Sinh sắp tới.
10. Hạt lúa
Chuyện cổ Ấn Độ kể lại
như sau:
Một chàng thanh niên
nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của
một con người đẹp đẽ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:
- Con hãy đi theo Ta
một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm
thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:
- Ta khát, con hãy đi
tìm cho Ta một chút nước.
Chàng thanh niên hăm
hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng
sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ
làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho
Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ
cái.
Thế rồi một năm kia,
lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào
cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã
chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang
tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra
và nói với anh:
- Con có mang nước về
cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay,
qua đó Chúa nhắn nhủ chúng ta:
- Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó
chỉ trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi, thì mới sinh nhiều bông hạt.
Lời nói này trước hết được thực hiện nơi chính bản thân
Ngài. Thực vậy, như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, thì khi đi vào trần
gian mang lấy thân phận con người, Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, và
nhất là đã chấp nhận chết đi một cách nhục nhã trên thập giá, để rồi từ đó trổ
sinh hoa trái của sự phục sinh vinh hiển. Đúng như lời thánh Phao lô đã diễn
tả:
- Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá,
vì thế Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi
danh hiệu.
Còn chúng ta thì sao? Nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động
giống như chàng thanh niên, đó là chúng ta mặc dầu muốn theo Chúa, nhưng lại muốn
có một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại bắt
Chúa phải chiều theo ý riêng mình. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại dễ dàng
quên Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, để rồi sẽ bán Chúa như Giuđa, và
chối Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn nhớ tới lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo
Ta.
Hay như lời Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay:
- Hạt lúa phải chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt.
Thế nhưng, cho tới lúc này, liệu chúng ta đã thực sự chết đi
cho những tham vọng bất chính hay chưa. Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho
những ước muốn vẩn đục hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những
toan tính gian tham và độc ác, oán ghét và hận thù hay chưa? Liệu chúng ta đã
thực sự chết đi cho con người cũ với những khuyết điểm và tội lỗi hay chưa?
Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống và tự tìm lấy
câu trả lời cho riêng mình.
11. Chết đi
Trong cuộc sống của người Kitô hữu, người ta nhận thấy có
nhiều nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là chúng ta phải học biết chết đi
để sống cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói tai nhưng lại là một sự thật.
Ví dụ hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu chứng nhân đã hiến dâng mạng
sống mình như những vị tử đạo vì đức tin Công giáo, trong nhiều thế kỷ vừa qua.
Điều này được nổi bật lên qua câu nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh
các tín hữu”.
Tôi muốn phản tỉnh về cách dâng hiến của cuộc sống của chúng
ta. Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống xứng đáng là một chứng nhân Kitô giáo
là điều ngày càng trở nên cần thiết hơn. Điều này làm chứng cho khả năng của
Tin Mừng có thể trả lời cho những vấn đề của thế giới ngày hôm nay. Tôi đang
nói về giá trị làm chứng của cuộc sống hàng ngày của các thánh. Ở đây tôi không
có ý nói đến các vị được Giáo Hội phong thánh, nhưng đúng hơn là giá trị làm
chứng của cuộc sống của những ai dấn thân sống thực sự căn tính Kitô hữu của
mình một cách trọn vẹn.
Chúa Giêsu nói về một hạt giống phải chết đi để cây có thể
mọc lên và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương tự cũng xảy ra cho mỗi người
trong chúng ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của mình đem lại một vụ mùa bội thu
cho Nước Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải quyết định chết đi cho chính
mình, nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ không phù hợp với kế hoạch
mà Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta. Điều này không phải là một
việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì thích hy sinh. Tuy nhiên, việc
chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh chính mình là để cho Nước Thiên
Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta mà thôi nhưng còn trong
cuộc sống của những người khác nữa. Điều này thì đáng giá hơn cả việc chúng ta
tự hy sinh chính mình.
Chúng ta được mời gọi để trở nên những vị thánh của thiên niên
kỷ mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được lời mời gọi này, nếu chúng ta không chấp
nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy sinh với niềm vui để có thể đáp trả được
lời mời gọi này và dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu và Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại trong việc dâng hiến
cuộc sống để phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con đừng tính toán thiệt hơn
nhưng xin cho con cảm nghiệm được niềm vui sống trọn vẹn cho một mình Chúa mà
thôi.
12. Chết để sống
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho
chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo
giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta phải nhìn vào cái
chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không
phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi
vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên
thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu
sống.
Trước hết, bằng một lời mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy
thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để sinh ra những hạt lúa
khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái dạng hiện thời của nó
để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa.
Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài
phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp
dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung để áp dụng cho tất cả
những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất,
còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói
của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu – ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ
bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt
đối, thì giống như hạt lúa trơ trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng
tới tương lai. Mạng sống hiện tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận
đánh đổi thì mất là mất luôn, trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại,
nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc
sống vĩnh cửu. Như vậy, đánh đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại
về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn
vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã
từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu tiên của một con
người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất và bị đe dọa
nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, khiêm hạ trong
một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài
cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và suốt ba năm,
Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó:
bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi đến chiến
thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất của trần
gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những giây phút giằng co,
đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con người thường bị hạn
chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên… nhưng tự do của Chúa thì
trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết
nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là
Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai thiên thần đến diệt bọn lý
hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công, bạo tàn của tòa án…
nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến vào những giờ phút cuối
cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha:
“Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ
theo ý Cha mà thôi”. Tóm lại, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn
đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng
của một con người không còn một chút gì, đến nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần
trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn
mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta
trong khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân cần làm việc để tận hưởng
hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu tích công nghiệp cho đời sau.
Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua,
phải biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt giống để gieo vào đất ở trên
trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể và nếu
điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh,
thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt
lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ mình để lên cao, chết để sống
lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh
phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu
của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc mơ yêu thương của
Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa
muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến sợi khác, ngày này
qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt đẹp, nghĩa là
chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn những bổn phận
tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần trách nhiệm và
một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính mình mỗi ngày
một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm, và đề ra những
quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm
qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm
thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời
sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ
thánh”.
13. Hy sinh
Hy sinh và gian khổ là điều kiện cần thiết cho tình yêu cũng
như cho sự phát triển. Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa
ra một hình ảnh vừa sống sộng lại vừa gần gũi để nói lên sự thật trên.
Ngài nói:
- Một hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, cần phải mục nát đi
thì mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái, bằng không thì nó chỉ trơ trụi một mình,
làm mồi cho chuột bọ mà thôi. Chính sự mục nát ấy đã làm phát sinh ra sự sống
mới.
Trong lãnh vực con người cũng thế. Để chúng ta được khôn lớn
cho tới ngày hôm nay, thì cha mẹ chúng ta đã phải gánh chịu biết bao nhiêu gian
khổ. Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta từng
giờ, từng phút. Chính vì thế mà ca dao Việt Nam đã từng ca tụng:
- Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có lẽ chính bản thân chúng ta cũng đã cảm nhận được kinh
nghiệm ấy. Chẳng hạn như ngày hôm nay, các em nhỏ phải cắp sách tới trường.
Việc học hành đòi hỏi các em phải siêng năng, phải chăm chỉ, phải cố gắng. Tất
cả những kiến thức các em vất vả thu lượm được, sẽ là như một số vốn để các em
đầu tư cuộc đời của mình và mai ngày sẽ đem lại cho các em những thành công rực
rỡ.
Từ những thí dụ cụ thể trên chúng ta đi vào cuộc sống của
Chúa Giêsu, và thấy được những gì?
Nếu đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu bỏ trời xuống
đất, mặc lấy thân phận con người, đã sống một cuộc đời nghèo túng và nhất là đã
chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu nhằm tới những
gì qua những hy sinh gian khổ ấy?
Tôi xin thưa, với những hy sinh gian khổ ấy Chúa Giêsu cho
chúng ta thấy tình yêu của Ngài thật bao la. Khi suy gẫm về mầu nhiệm thập giá,
thánh Phaolô đã phải kêu lên:
- Chúa đã yêu thương tôi, và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Chúng ta thường ca tụng những người dám hy sinh mạng sống
mình vì kẻ khác.
Chẳng hạn cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho một bạn tù
được sống. Cha Đamiêng đã hy sinh đến sống với những người phong cùi ở Molokai. Chúa Giêsu cũng thế, Ngài đến sống với chúng ta
và chết vì chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đã chấp nhận những hy sinh gian khổ ấy
là để cho chúng ta được sống và được sống vĩnh cửu. Trong Phúc Am có lần Ngài
đã phán:
- Ta đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc
cho nhiều người.
Trong bữa tiệc ly Ngài cũng nói với các môn đệ:
- Này là Mình Ta sẽ nộp vì các con. Này là Máu Ta sẽ đổ ra
cho nhiều người được tha tội.
Với cái chết ô nhục trên thập giá, Ngài giao hòa chúng ta
với Thiên Chúa, tẩy xóa mọi dấu vết của tội lỗi, trả lại cho chúng ta địa vị
làm con cái Thiên Chúa, cũng như quyền được thừa hưởng phần gia nghiệp nước
trời.
Chính vì thế, chúng ta hãy suy nghĩ và cảm tạ tình thương
của Chúa, đồng thời chúng ta phải làm gì để đáp trả tình yêu thương bao la ấy.
14. Từ bỏ
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần Thánh. Vì thế, lời Chúa hôm
nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang
của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh:
hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống
đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu
ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này
sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định
hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi,
nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai
coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách
ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó,
thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang
các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ
tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết
đi nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa” để cứu chuộc chúng ta và ban cho
chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh
vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba
mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà
giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động
bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất
cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời
giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi
hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước
từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không thiêng”.
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng
lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai
cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa
đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ
chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải
chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông
Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu”, thì
máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong
lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu
treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên
Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá,
nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành
Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban
sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban
sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm
bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát
trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập
giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã
chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời
đời cho con người.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu
rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác… Khi biết từ bỏ sự sống tạm
bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là “sống”. Có người từ bỏ
được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được
ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà
không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được
những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại
không bỏ được lúc khác…
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử
luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế,
chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi
thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì
không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì
không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Kitô, không đúng với cung cách
một người con của Chúa.
15. Đức Giêsu loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
(Suy niệm của JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong việc buôn bán, muốn thu tiền vào, trước hết người
ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như
vậy? Đó là chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu
đau khổ trước không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không?
2. Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh
phúc và đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết
nào không?
3. Lời Đức Giêsu: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời» có mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này
không?
Suy tư gợi ý:
1. Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra,
muốn hạnh phúc phải chấp nhận đau khổ
Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều
hướng tiến hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, mà theo
kiểu hình «sin» hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến
nhiều lùi ít, để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục
tiến, nhiều khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để
tiến ba, v. v... Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn
phải nhấc búa lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập
xuống. Nâng búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết
và quan trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có
tác dụng hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng
hóa khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền
vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người
ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao
gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay
cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ
thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao
nhiêu. Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng
sướng được nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn
sàng chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng
càng nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ
hạnh phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.
2. Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với
nhau
Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời
sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức
Giêsu cho biết: «Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!» Và Ngài cho ta biết lý do
nào khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào
mới được tôn vinh: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác». Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: «Ai yêu quý mạng
sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ
lại được cho sự sống đời đời».
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của
từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt
lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho
mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết,
làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau?
Đời sống kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản,
lo ngừa thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau
khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà
không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng
thế, hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực
nhọc của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của những
chiến sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng
trên những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với
bài vở. Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính
mình hay người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật
vậy, dân chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu,
vợ con cảm thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh
thiếu niên làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học
ham vui.
Vì thế, Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự
sống đời đời». Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì
lại phải chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được
hạnh phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại
không chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì
phải tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh
phúc mà không muốn trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được
hạnh phúc mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những
người muốn giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả,
bèn dùng những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũng… thì thường đi đến
những hậu quả hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp...).
Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa
sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe
như: «Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về
miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương» (Tv 126,6). «Nếu ta cùng chết với
Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với
Ngài» (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
3. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng
chấp nhận đau khổ hoặc chết (vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh
thản, bình an và hạnh phúc
Về câu nói của Đức Giêsu: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự
sống đời đời», tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng
như mọi người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ
đến sự an toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy
hiểm xảy đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có
thể kéo dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng
cách đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự
an toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc
đẩy của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy
đến gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị
lương tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu
không nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng
lương tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất
an! Thế rồi những khó khăn xảy đến... trong nhiều ngày tháng… Như một phản ứng
tự vệ, tôi phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp
lo âu, tôi lẩm nhẩm hát trong trí: «Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không
còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì (...) Dầu tôi đi qua trong thung lũng
tối đen hiểm nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây
trượng và cây gậy Chúa khiến tôi an lòng» (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều
qua!
Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng
làm theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn
cho bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm
thấy an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp
nhận mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một
sự thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có
bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả
những nhu cầu cần thiết.
Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cũng
nghĩ trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo
lắng, mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu
như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng
chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và
hạnh phúc sẽ đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước
rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình
an trước đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ
Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua
kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không
còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận
chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết.
Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa
sống và chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp
nhận đau khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng
nếu con làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh
phúc. Xin cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.
16. Ánh sáng của Thập Giá
(Chú giải của Lm. Vũ Phan Long)
Đã đến “giờ”. “Giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được
Ngôi Lời làm người thực hiện.
1.- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời gian và thần học là
tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12;
13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ
biến thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức giải phóng tất cả mọi người.
Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu mang tính tiên tri. Hành vi
của Maria, chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng dầu thơm cam tùng quý giá,
đã loan báo việc mai táng Người (12,7). Quả thật, người ta không xức dầu lên
chân một người sống như thế, mà thường xức cho một thi hài vào lúc làm nghi
thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9), người phụ nữ chỉ đã xức dầu
lên đầu Đức Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức dầu tấn phong ai
làm vua và tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem (12,12-19), dân chúng
đã tung hô Người như là “vua Israel”. Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm
nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như là mức độ cuối cùng của sự sai lầm của
dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa những niềm hy vọng thiên sai lầm
lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy – chứ không ngay từ đầu như trong
các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn
sứ Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10), Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính
trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của Người, tức cuộc Thương Khó, cái Chết, cuộc
Phục Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu “vinh quang” Người đang theo đuổi. Chỉ sau
kinh nghiệm này các môn đệ mới nắm được bản chất đích thực của cuộc khải hoàn
của Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không hiểu (cc. 17-18). Nhưng những lời
hoan hô của họ khiến người Pharisêu phải phản đối và tranh luận với nhau: “Các
ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy
hết!” (c. 19b). Ở đây, tác giả TM IV vẫn vận dụng khả năng khôi hài quen thuộc
của ngài. Nỗi lo sợ của người Pharisêu là thật hơn họ tưởng: cả người ngoại
cũng đã xuất hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người Pharisêu (c. 19b) khiến ta nghĩ ngay đến
nhận định của thượng tế Caipha: “Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các
ông là: thà một người chết thay cho dân…” (11,50). Chính ông này cũng đã nói
tiên tri mà không biết: trong tư cách là thượng tế, ông đã nói tiên tri là Đức
Giêsu phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để
quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác (11,52).
Sự kiện mấy người ngoại đến xin gặp Đức Giêsu là một đỉnh
cao trong cấu trúc văn chương và thần học của các ch. 11–12 của TM IV: kế hoạch
cứu độ phổ quát, thậm chí ra ngoài biên giới dân tộc Do Thái, đang bắt đầu được
thực hiện, ít nhất ở dạng mầm mống. Tất cả những điều đó chứng tỏ rõ ràng là
giờ của cuộc Thương Khó đã được loan báo, giờ đưa tới vinh quang.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp (12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về Giờ và dạy về thân phận của Người và
của các môn đệ ([“Đã đến giờ”], 12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”,
12,31-33).
3.- Vài điểm chú giải
- mấy người Hy Lạp (20): Những lời mỉa mai ở c. 19 được ứng
nghiệm tức khắc. Đây không phải là những người Do Thái Hải ngoại (diaspora; x.
Ga 7,35), đã di cư ra khỏi Paléttina và bị phân tán trong các vùng dân ngoại,
nhưng là những người ngoại giáo không cắt bì, thuộc về hạng người “kính sợ
Thiên Chúa” (x. Cv 10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị Thiên Chúa duy nhất và
tuân giữ đức công bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải để du lịch mà là để
hành hương, vì bị thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
- Họ đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ ý muốn với Philípphê
bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê là hai tên Hy Lạp),
và cũng như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân cư là người ngoại.
- Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu (21): dịch sát là “muốn
được thấy”, có nghĩa là “nói với Đức Giêsu”, trò chuyện với Người, để biết
Người, khám phá ra chân tính của Người.
- Giờ (23): Đây là giờ Thương Khó, Chết và Phục Sinh, để Con
Người được tôn vinh. “Giờ” đây là đỉnh cao của sứ mạng của Người và cũng là lúc kết án
“thế gian” này với thủ lãnh của nó.
- tôn vinh (23): “Vinh quang” (doxa) là sự tỏa rạng sự hiện
diện của Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng sợ vừa thu hút, của Hữu thể
thần linh. Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập thể, nhưng tính khiêm hạ của
mầu nhiệm Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng của vinh quang này, cho dù các
lời nói và các công việc của Đức Giêsu lại là “dấu chỉ” đầu tiên của vinh quang này
(x. 2,11). Cuộc Thương Khó, thay vì che phủ vinh quang này, lại vén mở cho thấy
vinh quang này ở mức viên mãn: kể từ khi cái vỏ bọc nhân loại bị phá vỡ, sự
hiện diện thần linh, như được giải phóng, mới xâm nhập tất cả nhân tính của
Ngôi Lời để làm cho nhân tính này sống lại và lên trời.
- nếu hạt lúa gieo vào lòng đất (24): Câu này được vọng lại
trong 1 Cr 15,36. Rất có thể đây là một câu tục ngữ quen thuộc tác giả đã dùng
để áp dụng cho trường hợp Đức Giêsu: chỉ cái chết của Đức Giêsu mới có thể đưa
lại ơn cứu độ cho người khác.
- Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất (25): Câu này trở đi
trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt 16,25; Mt 10,39 so
sánh với Lc 17,33). Các TMNL áp dụng câu này cho những đau khổ và mất mát của
đời môn đệ. Hẳn là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới những đau khổ của cộng đoàn
của ngài (x. 15,18-21).
- Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó (26): Sự đồng nhất
giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong các diễn từ cáo biệt (x.
13,13.16; 15,20). Phần kết “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người
ấy” lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu trong các diễn từ cáo biệt (14,23;
16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc 12,8.
- Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27): Tác giả TM IV đang cảm
hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng đăt hoạt cảnh ấy trong
một bối cảnh khác. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô
run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (tetaraktai, c. 27a). “Tâm hồn” (psychê) đây
cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng
trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức
Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân
Người (so sánh với Lc 22,43-44).
- Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28): x. Lc 11,2. Câu này diễn
tả sự duy nhất trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn của Thiên Chúa. Đức
Giêsu sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được Chúa Cha tôn vinh
(x. 13,31-32; 17,4).
- có tiếng từ trời (28): Dân chúng không thể “nghe” được lời
Thiên Chúa đáp lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ đó là tiếng một thiên thần. Giống như
trong truyện Ladarô, việc Đức Giêsu cầu nguyện cũng là một tấm gương cho họ.
- Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa (28): Hành vi
“tôn vinh” đầu quy về những “dấu lạ” Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm
chứng về Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi Đức Giêsu. Hành vi “tôn vinh” thứ hai
quy về cái chết và cuộc tôn vinh Đức Giêsu.
- mà vì các người (30): Như thế, tác giả đã biến truyền thống
về “cơn hấp hối riêng tư” của Đức Giêsu thành một cuộc bày tỏ công khai công việc
phục vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
- Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này (31): Cuộc
phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh. Tiếng sấm trong lời
Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ đến uy hùng mà tống
“thủ lãnh của thế gian này” ra ngoài. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “thế gian”
không phải để chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng
như một biểu tượng cho tất cả những gì là không tin và thù nghịch với Thiên
Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan như là thủ lãnh của “thế gian” ở trong
thế đối lập với Thiên Chúa, là một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải
huyền Do Thái. Nhưng tác giả chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa
phản bội thôi (6,70; 13,2.27) và trong những câu nói loan báo chiến thắng của
Đức Giêsu (14,30; 16,11).
- Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất (32): Các truyền
thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh như là việc Người
được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho quyền chủ tể của
Người trên vũ trụ (x. Pl 2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ “được tôn vinh – được
giương cao” của tác giả được lấy từ Is 52,13, nơi mà Người Tôi Tớ của Đức Chúa
được “vươn cao”, và “được suy tôn”.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
Câu chuyện chúng ta đọc hôm nay xảy ra chỉ vài ngày trước
các biến cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu.
* Người Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài người Hy Lạp đã muốn gặp Đức Giêsu, không phải chỉ
để nhìn thấy Người, nhưng là để biết Người, khám phá ra “căn cước” của Người.
Câu 20 dường như cho hiểu rằng những người ngoại quốc kia đang thực hiện một
hành trình thiêng liêng dài, và bây giờ cần “gặp” Đức Giêsu. Hành trình vào dịp
lễ Vượt Qua đã đưa họ đến Giêrusalem không phải như du khách, mà là để cầu
nguyện, để gặp Thiên Chúa, để khám phá ra điều Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm
thấy là Thiên Chúa muốn họ đến nói chuyện với Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức
Giêsu trực tiếp, trước hết họ đến gặp các môn đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt
nhất để có thể gặp Đức Giêsu. Họ ngỏ lời với Philípphê, ông này lại nói với
Anrê, và cả hai đã đến thưa với Đức Giêsu. Những người kia đã ngỏ lời với
Philípphê vì ông (cũng như Anrê) có tên gọi Hy Lạp và phát xuất từ vùng giáp
ranh của Galilê với thế giới Hy Lạp. Philípphê và Anrê đã ở trong số những môn
đệ đầu tiên, vì muốn biết Đức Giêsu, đã đến với Người và đã là những người đầu
tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Người (1,35-46). Trong
truyện này, ta thấy được bổn phận họ phải chu toàn trong đời sống: làm trung
gian để cho nhân loại có thể gặp Đức Giêsu.
Chúng ta không biết là sau đó chuyện gì đã xảy ra, những
người Hy Lạp đã gặp Đức Giêsu, hay đã về nhà mà vẫn chưa được gặp Người. Bản
văn chỉ cho thấy Đức Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với họ. Nhưng bây giờ, chỉ
còn ít ngày nữa trước khi Người chịu chết và bởi vì những người này đã đến với
Người, Người xác định tầm quan trọng và hiệu năng của cái chết của Người trên
thập giá và gửi đến dân Do Thái lời kêu gọi cuối cùng.
Như vậy, ta hiểu việc người ngoại đi tìm một trung gian
dường như có một ý nghĩa biểu tượng. Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp
Đức Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Đức
Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Đức
Giêsu và việc “gặp” Đức Giêsu, tức đi vào Vương quốc nhờ lời rao giảng của các
tông đồ, còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Đức Giêsu, tức “giờ” của Người
(c. 23). Chỉ khi đó mọi hàng rào được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù bè
phái mới đổ hết. Cũng chỉ khi đó mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm
tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, vào Đức Kitô “Đức Chúa” (x. Ga
20,18.20.28.29; 21,7.12.17), là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục
Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh cầu của những người ngoại vô tình lại là một cử
chỉ đón tiếp khải hoàn. Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận, như trong cuộc đón tiếp
của người Do Thái khi Người vào Giêrusalem. Nhưng trước hết, Người phải điều
chỉnh ý tưởng lệch lạc đám đông Giêrusalem có về vinh quang và cuộc khải hoàn
của Người (x. 12,12-16). Việc người Hy Lạp đến như thế giống như một bài học
biểu tượng, bổ túc cho truyện đi vào Giêrusalem. Lời Đức Giêsu nói (cc. 23-26)
là một trả lời gián tiếp cho nguyện vọng được những người ngoại ấy diễn tả ra:
chính là nhờ cuộc Thương Khó của Người mà Đức Kitô, một khi đã bị sát tế, sẽ dễ
dàng cho họ gặp được.
* Đức Giêsu công bố về Giờ và về thân phận của Người và của các môn đệ
(“đã đến giờ”,
23-26)
Kể từ câu 23, tác giả TM IV chẳng còn nói gì đến những người
ngoại kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ có được thoả mãn hay không nữa. Ta
gặp kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ Nicôđêmô: đến một lúc nào đó, bài
tường thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ cho những lời nói của Đức Giêsu và
những suy tư của tác giả.
Sự xuất hiện của những người ngoại giáo và thỉnh nguyện của
họ khiến Đức Giêsu hiểu rằng giờ mà Người hằng mong đợi, mà TM IV cho thấy đang
đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã đến. Đây là giờ của “Con Người”, giờ
Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua thập giá, giờ Người được “tôn vinh” (x.
3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức Giêsu không phải chỉ là kết quả của sự tàn
bạo của loài người và cũng không phải là kết thúc ô nhục của Đức Giêsu. “Giờ” của Người
đã được Chúa Cha quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ được tôn vinh bằng chính cái chết
của Người. Cái chết này minh chứng một cách sáng ngời và thuyết phục rằng Con
Thiên Chúa được liên kết với Chúa Cha bằng một dây vâng phục dù phải trải qua
thử thách nào và rằng Người hiến mình cho chúng ta không dè giữ. Cái chết của
Người cho thấy tình yêu vô biên của Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa
Cha và hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công trình của Người tùy thuộc cái chết của
Người; và Người buộc các môn đệ Người hành động như chính Người đã hành động.
Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi ngày: thiên nhiên không sản sinh ra gì
cả nếu trước đó không có một cái chết nào đó. Chỉ khi một hạt lúa mì bị hủy đi,
nó mới trở thành một khối lượng lúa lớn. Chính là vì Người đã chịu cái chết và
đã tỏ chính mình ra trong cái chết, mà Đức Giêsu sẽ quy tụ lại quanh Người một
đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã chết rồi, Người không biến mất khỏi loài
người, nhưng lại trở thành trung tâm của một cộng đoàn mênh mông. Người không ra
sức bám lấy cuộc sống của Người. Cuộc sống trần thế đối với Người không phải là
một sự thiện tối cao phải cứu lấy bằng mọi giá. Chỉ những ai liên kết với Người
khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này. Chỉ kẻ nào đã theo Đức
Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt tới mục tiêu và mới có phần phúc khi được
Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới hoạt cảnh Vườn Ghếtsêmani trong các
TMNL (chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh
Vườn Ôliu. Tuy nhiên, ngài đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác, ngài giải
thích hoạt cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ
chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (27a). “Tâm hồn” đây
cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống, mạng sống mà người ta phải “ghét” và
chịu mất để cứu được; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp
tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi
đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc
22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả triển khai các điểm theo cách riêng.
Câu hỏi: “Thầy biết nói gì đây?” cho thấy là Đức Giêsu bị đăt vào thế lưỡng nan
là xin Cha Người: “Xin cứu con khỏi giờ này” hay là: “xin tôn vinh Danh Cha”.
Và Người chọn tức khắc cách cầu nguyện thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức
Giêsu luôn “năng động [tích cực]” trong cuộc Thương Khó của Người. Người làm
chủ tình hình (x. Ga 18,6), Người ý thức trọn vẹn về vai trò Người đảm nhận,
Người hoàn tất tuyệt vời sứ mạng Cha Người đã giao: hy sinh mạng sống để cứu độ
toàn thể thế giới. Ở tại ngưỡng cửa cuộc Khổ Nạn, ta không thể tưởng tượng ra
một lời cầu nguyện nào khác trên môi Đấng được Thiên Chúa sai đến, ngoài lời
này: “Xin tôn vinh Danh Cha” (x. Ga 17,4). Nếu Người trốn “giờ” này (hiểu
là “những gì sẽ xảy ra vào lúc ấy”)[1], giờ mà Người hết sức mong mỏi và cuối
cùng nay đã tới, hẳn sẽ là phá hủy tất cả tầm mức gồm tóm trong mầu nhiệm Nhập
Thể: khi đó Chúa Con đã nhận lấy nơi mình cuộc sống trần thế với tất cả chiều
sâu của nó và đặc tính bi thảm của nó, để sống trọn cuộc sống này cho tới chết,
không phải cho bản thân Người mà là cho những người khác. Khi Đức Giêsu chấp
nhận “giờ”
này, Người đã tôn vinh Chúa Cha, bởi vì như thế, dự phóng cứu độ toàn thế giới
cuối cùng được bày tỏ trọn vẹn, và dự định đó, cuộc Thương Khó, cái Chết và
cuộc Phục Sinh của Con Cha sẽ thực hiện.
Cũng như trong tất cả các Tin Mừng, ở đây cũng vậy, khi đứng
trước cái chết, Đức Giêsu quay ra cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mc 14,32-42).
Người ý thức về ý nghĩa của cái chết của Người, nhưng không vì thế mà Người đi
đến đó hoàn toàn vô cảm. Cũng như mọi con người, chính Người cũng sợ hãi tránh
né cái chết, cũng bị rúng động bởi định mệnh phải chết của mình. Vì Người có sự
nhạy cảm của loài người, hẳn là Người cầu xin Chúa Cha cất cho Người bước đường
này. Nhưng Người không chịu thua ước muốn của riêng mình, Người muốn tuân theo
sự hướng dẫn của Chúa Cha, nên đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”
(c. 28). Như thế Người đồng ý về ý nghĩa của định mệnh của Người, như Thiên
Chúa đã thiết định, nên Người lấy điều này làm mục tiêu của lời cầu nguyện.
Như thế, cái chết của Đức Giêsu cho thấy rõ những gì nằm ở
trong tên “Cha” và cho thấy Chúa Cha đã nghiêng quá mức thế nào về phía con người,
nên mới ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài (x. 3,16). Đức Giêsu không thua
Chúa Cha trong tình yêu, Người cầu xin để tình yêu của Chúa Cha có thể trở nên
hiển nhiên, cho dù Người biết rằng điều này đòi hỏi cái giá là mạng sống Người.
* Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 31-33).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá cũng là chiến thắng
vĩnh viễn của Người trên ma quỷ. Nó sẽ bị tống ra ngoài, và không còn có một vị
trí quyền lực nào nữa. Công việc ma quỷ làm là nhắm chia lìa con người khỏi
Thiên Chúa, làm mờ tối cái nhìn của họ khiến họ không thấy được Thiên Chúa. Cái
chết của Đức Giêsu lại là mạc khải cao độ nhất về tình yêu của Thiên Chúa đối
với loài người và về dây vâng phục nối kết bất khả phân ly Đức Giêsu với Thiên
Chúa. Như thế, ý đồ của ma quỷ hoàn toàn thất bại. Với cái chết của Người, Đức
Giêsu cũng khởi sự hoạt động phổ quát của Người, liên hệ tới toàn thể nhân
loại. Được giương cao trên thập giá như là biểu tượng của tình yêu của Thiên
Chúa (x. 3,14-17) và được nâng lên đến Chúa Cha trong quyền lực thiên đình của
Người, Đức Giêsu tới với cả nhân loại, đón nhận họ vào trong tình yêu huy hoàng
của Người. Như thế, Người cũng được giương cao cho người Hy Lạp nữa, là những
người muốn gặp Người.
+ Kết luận
Trong bản văn này, tác giả nêu bật điểm chú ý là “giờ” của Đức
Giêsu, cả trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Theo quan điểm Kitô học, “giờ” này đánh
dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện.
Sứ mạng này tiêu biểu cho trọn cuộc sống của Đức Kitô, vì cuộc sống của Người
hướng về đó. Khi đó sẽ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại. Khi đó sẽ xảy
ra giữa loài người một cuộc “tách biệt” (krima) do người ta tin hay không tin
vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và được tôn vinh. Sự chọn lựa này đảm bảo cho
một số người được cứu độ và được sống muôn đời, và lôi kéo án phạt và cái chết
đến cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như Philípphê và Anrê, chúng ta cũng có nhiệm vụ làm
trung gian giúp kẻ khác gặp được Đức Giêsu. Nhưng muốn thế, chính chúng ta đã
phải gặp Đức Giêsu và có kinh nghiệm về Người rồi. Chúng ta cũng ghi nhận những
tương quan giữa các môn đệ để giúp người ta gặp Đức Giêsu: người Hy Lạp đến gặp
Philípphê, có lẽ vì quen biết ông hơn. Nhưng Philípphê lại cần có Anrê để có
thể mạnh dạn đi gặp Đức Giêsu...
2. Những người Hy Lạp đây đại diện cho tất cả những người
ngoại ước muốn biết Đức Giêsu. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không
có một môn đệ của Đức Kitô nói cho biết về Người, và giới thiệu với Người về
họ.
3. Vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu, tuy vẫn là một ân
ban nhưng-không của Thiên Chúa, vẫn cần có sự cộng tác của chúng ta. Chỉ những
ai đã liên kết với Đức Giêsu khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau
này trong vinh quang thiên quốc. Có trung thành bước theo Người hôm nay, sau
này chúng ta mới mong được thông phần gia nghiệp với Người.
4. Đức Giêsu đã đến thế gian như là ánh sáng cho mọi người
(1,9). Khi Người đã được giương cao trên thập giá, từ nơi Người sẽ phát ra ánh
sáng chói chang huy hoàng nhất, cho thấy mọi sự trong tính chân thật nhất:
Thiên Chúa trong tình yêu vô biên của Ngài; Con Người trong việc hiến mình
không dè giữ và trong hoạt động bao trùm toàn nhân loại; ma quỷ bị thua trong
quyền lực của nó. Trong ánh sáng này, chúng ta phải chọn lựa cuộc sống chúng ta
như là con đường bước theo Đức Kitô.
5. Tất cả những ai muốn đưa lại ơn ích cho người khác, cũng
phải chấp nhận thân phận “hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi”. Mọi Kitô hữu
đều được kêu gọi sống Giờ của Đức Giêsu: trước tiên, người Kitô hữu không thể
tránh giết chết trong mình những gì chống lại sự sống đích thực (= sự từ bỏ
chính mình); đồng thời phải sống một mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh và hân hoan
(= niềm vui thiêng liêng).
----------------------
[1] Phép métonymie: gọi một điều bằng một từ khác.
17. Giờ của Chúa Giêsu (12,20-36)
(Chú giải mục vụ của Alain Marchabour)
Đoạn này kéo dài điều đã được nói về Chúa Giêsu từ chương
11. Giờ tôn vinh của Chúa Con được loan báo trong 11, 4 đang trở thành hiện
thực. Trong 11,51-52 Gioan tuyên bố rằng cái chết của Chúa Giêsu sẽ dẫn tới
việc mở rộng sứ vụ của Chúa đến với mọi người. Đó là ý nghĩa sự kiện mấy người
Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu.
Phần dẫn: Những Người
Hy Lạp (12, 20-22)
Những người Hy Lạp ở đây không phải là những người Do Thái
sinh sống ở Hy Lạp hay nói tiếng Hy Lạp. Từ ngữ này chỉ những người ngoại giáo
mới theo đạo (những người thiện cảm với đạo Do Thái nhưng không muốn chịu phép
rửa). Lần đầu tiên những người không phải Do Thái này tiếp cận Chúa Giêsu được
khéo léo sắp xếp như là dấu hiệu loan báo giờ đã đến. Những người xuất thân từ
đa thần giáo này trước hết đã chọn Thiên Chúa của Israel. Họ chuẩn bị cho một
bước chuyển tiếp mà theo thánh sử là đi từ Do Thái giáo đến Chúa Giêsu là đích
điểm. Họ muốn “gặp” Chúa Giêsu, chắc chắn theo nghĩa mạnh của việc “tin vào
Người” (12,45; 14,9). Ông Philipphê, một môn đệ thường được Gioan nhắc đến (12
lần), làm người trung gian (như trong 1,45; 6,5). Sự môi giới của ông có liên
quan gì đến tên Hy Lạp của ông không? Xuất thân từ một miền đất đa phần còn
ngoại giáo, ông có khả năng nói tiếng Hy Lạp. Việc ông đi nói với ông Anrê
(người cùng làng Betsaiđa với ông) càng tăng thêm tầm quan trọng của sự môi
giới để đến gặp Chúa Giêsu.
Theo thói quen của mình, Gioan tăng nhiều chi tiết kể chuyện
ở phần đầu bài trần thuật, như là để níu chân độc giả. Sau đó tất cả đều dừng
lại: còn kết quả việc mấy người Hy Lạp gặp Chúa Giêsu như thế nào, chúng ta
không biết gì hết. Từ nay thánh sử tập trung bài trần thuật của mình vào Chúa
Giêsu.
Giờ (12, 23-26)
Giờ, còn trì trệ cho đến lúc này, cuối cùng đã đến. Việc anh
Ladarô sống lại biểu hiện trước giờ này: việc mấy người Hy Lạp tìm đến tỏ rõ
giờ được thực hiện. Các người Hy Lạp không được Chúa Giêsu trả lời trực tiếp.
Người nói với các môn đệ và điều Người nói bao gồm trước hết các môn đệ được
gọi sau này nên truyền đạt cho người ngoại giáo hiểu rằng trong cái chết của
Chúa Giêsu, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người.
Sự mặc khải được long trọng nhấn mạnh bằng hai lần: “Thật,
Thầy bảo thật anh em”. Giờ, vừa là sự chết vừa là sự tôn vinh. Để diễn tả từ sự
phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Chúa Giêsu đi
từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát
đi để mang lại nhiều hoa trái. Sự tương phản mà Chúa Giêsu đưa ra, ở giữa chết
hoặc sống ít hơn là ở giữa chết hay mang lại nhiều hoa trái. Cũng như hạt
giống, Chúa Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa
trái cho mọi người.
Cái chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải
kinh qua để tiến đến vinh quang, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển
Giáo Hội. Cái chết của Chúa Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu,
bởi vì “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12,26). Quả vậy các câu 25-26
nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Chúa Giêsu. Ai yêu quý mạng
sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, thế gian này, sự
vinh quang riêng mình.
Ở đây nữa vẫn là vấn đề đức tin, dù nó không rõ ràng như
trong Nhất Lãm, ở đó nhấn mạnh mối tương quan với Chúa Giêsu: “Ai liều mất mạng
sống mình vì Tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Tương
quan với Chúa Giêsu được nêu rõ qua câu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”.
Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Chúa Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào
cái chết để dự phần vinh quang. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã nói: “Cha
Ta sẽ tôn vinh nó”.
* * *
GIỜ
Từ “giờ” được sử dụng 26 lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường
ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện.
Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, giờ này còn chưa đến. Thân mẫu của Chúa
Giêsu, khi muốn cậy nhờ đến con mình, được nghe trả lời rằng “Giờ của con chưa
đến” (2,4). Việc tìm bắt Chúa Giêsu không thực hiện được cũng vì lý do đó
(7,30; 8,20). Nhiều lần Chúa Giêsu tiên báo tình trạng sắp xảy ra vào một giờ
mà từ đó mọi sự sẽ trở nên rõ ràng hơn (16,25). Việc thờ phượng sẽ ở trong Thần
Khí (4,21-23), sự sống sẽ chiến thắng sự chết (5,25).
Sự hồi hộp được khéo léo khơi dậy khi, đối diện với những
người ngoại giáo muốn gặp Người. Chúa Giêsu loan báo rằng cuối cùng giờ đã đến
(12,23). Bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cuối cùng giờ tôn
vinh đã đến (13,1; 17,1). Dụng ngữ này cũng xuất hiện trong các Tin Mừng Nhất
Lãm (Mc 14,35.41). chỉ có mình Gioan đã gieo vãi xuyên suốt Tin Mừng của mình
những quy chiếu vào một biến cố của lịch sử. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thập
giá. Thời điểm này không thuộc vào niên đại kỷ. Một lần xảy ra, nó luôn luôn
hiện thực và kéo dài hiệu quả nhằm lợi ích của tất cả những ai gắn bó với Lời.
***
Tâm trạng xao xuyến,
tiếng từ trời và lời mặc khải (12, 27-36)
Giờ đang xảy đến cùng với sự chôn vùi trong cái chết, tất
phải có sự kinh qua đau thương mà nỗi xao xuyến và sầu não không thể không có.
Trong khi trình thuật cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, Gioan loại bỏ những gì
quá chú ý của Người, như cơn hấp hối. Thế nhưng ông lưu giữ lại một vài yếu tố
và phân tán chúng đây đó trong Tin Mừng của mình. Ở đây ông trích dẫn những từ
ngữ và những dụng ngữ như nhắc lại sự xao xuyến của Chúa Giêsu, hoặc lời Người
nói về Giờ: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”, cần xuất phát từ đó (ta có thể
so sánh đoạn này với Mc 14,33-36). Việc Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha được đặc
biệt nhấn mạnh và lời Người: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” vang dội như lời
tóm tắt “kinh Lạy Cha” (không có trong Gioan). Chúa Giêsu là người đầu tiên, từ
bỏ mình để lắng nghe Chúa Cha.
“Có tiếng từ trời vang xuống” (c. 28). Lần đầu tiên trong
Gioan (trái với hai lần trong Nhất Lãm, vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa và
biến hình, x. Lc 9,28-36), Chúa Cha lên tiếng nói cùng Chúa Con. Hơn nữa đoạn
của Gioan không có liên quan gì đến biến cố biến hình ở đó sự biểu lộ vinh
quang của Chúa Giêsu đi kèm với cuộc đối thoại về cuộc Xuất hành của Chúa Giêsu
(nghĩa là cái chết của Người). Luca cũng nghĩ đến sự tiếp gần cơn hấp hối khi
“một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43). Trong cả hai
trường hợp, có thể có những điểm giống nhau giữa hai truyền thống Tin Mừng. Thế
nhưng Gioan hành xử cách sáng tạo, tuyển chọn và tái tạo các dữ kiện của truyền
thống cho mục tiêu thần học của mình.
Do đặc tính duy nhất và vị trí ở vào cuối năm phần thứ nhất
của Tin Mừng, sự can thiệp này của Chúa Cha xuất hiện như sự long trọng chứng
thực của Chúa Cha về Chúa Giêsu như là Chúa Con và là Đấng Thiên Sai. Đó là
cách phê chuẩn đầy vinh quang, được ban cho một phần ngay từ lúc này đây còn
một phần nữa được hứa trong tương lai. Cuộc Thương Khó đối với Người quả là một
thử thách đầy vinh quang.
18. Chú giải của Noel Quesson
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan đề nghị chúng ta suy
niệm về thập giá.
Trong số những người
lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê,
người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa ông chúng tôi muốn được gặp
ông Giêsu” .
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản
văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến
vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công
trước quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với nhau. "Các ông
thấy không, các ông sẽ chẳng làm được gì hết . Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu
theo hắn cả rồi!". Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự
kiện những người "Hy Lạp”, xa lạ nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do
Thái, đến xin "gặp" Đức Giêsu. Như thế, đang khi những người quyết
định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm và bầu khí chống đối của nhóm
Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào đầu tuần lễ cuối cùng của
Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ cứu độ của Người đang
bành trướng rộng khắp.
Những người "Hy Lạp" này đang báo trước, các dân
ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua
ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ
mang lại sự phong phú phi thường như thế nào! "nó mang lại nhiều hoa
trái"; "Nó lôi cuốn mọi người". Chúng ta lưu ý thêm, những người
nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong này mang một tên gọi Hy Lạp ông
xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều người nước ngoài cư trú!). Ong
Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi.
Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu
không?
Đức Giêsu trả lời:
"Đã đến giờ Con Người được tôn vinh".
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó là giờ thập giá của Người: Và cũng
chính là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ
đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng,
chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang khác cho Thiên Chúa cũng như cho
chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta: "Này đây, giờ đã đến"
(Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa đến, nhưng Đức Giêsu thường nói
về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20). Giờ "ưu việt" đó chính
là giờ thập giá: Giờ "tôn vinh" Chúa Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ
"xét xử và cứu độ" thế gian (Ga 13, 1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu
sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ việc các người “Hy
Lạp" đến xin "gặp" Người. Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước
muốn của họ: "Đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh"; ‘giờ cho tôi
gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận ra Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên
Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ
của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa, xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn
chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả
những gì triết gia bàn đến, tất cả những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì
không đáng kể gì và chưa đủ: "Và đây xuất hiện thập giá". Vượt qua
những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm những hình ảnh đó, "hình
tướng" về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật
anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ "chết” của Người,
nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu
sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách vô hình Người đang được
bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con
người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết
và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn
đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng của Người. Người
không lý luận. Một cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương đầu trước cái
chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi
sâu trong lòng đất tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và
trở thành bông lúa trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong
phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng
sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ
lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết đi để có sự sống đích
thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một
kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một chân lý không tất nhiên rõ
ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái chết thật không phải là cái
chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự đóng kín nơi mình không mở
rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều
Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là “Tình yêu tuyệt đối”. Người
mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất
cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn
mà có khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời mình. Xin dạy chúng con biết hiến
mạng sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì
hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha
Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì
nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước
Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên
Chúa đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn
dưới lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu,
chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó
còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã
được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu “phục vụ” đến cùng,
thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở
nên số phận của chúng ta: Chết đi để mang lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha
Thầy sẽ ban cho họ vinh quang”.
Rồi Đức Giêsu thưa
cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy
Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ sự hy sinh của mình,
không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư
tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không
nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức
Giêsu bị “thử thách” muốn sử dụng thần tính của mình để khỏi phải chấp nhận
thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời công khai của Chúa. Tại hoang
địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32).
Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên quyết thoát khỏi để luôn
trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta có
thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì
giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại
thái hộ chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng ta, và gán cho nó một
ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao
ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng
thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết của Người có một ý nghĩa
sâu sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài
xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người,
vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua
nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân tới lúc
thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người
(Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và
Đức Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà
là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón nhận cái chết như một
sự vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý
nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ
trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ
một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa
qua, thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh Quang. Trên Thập Giá Người được “giương
cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa “được tôn dương”: Loài người làm việc
thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra
cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài
.
Đó là hai mặt của cùng một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ”.
Phần tôi, một khi
được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu
nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị
tống ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự
hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận
trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách
trả lời đích thực cho những người “Hy Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói
này là một trong những lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời
gian thử thách sứ vụ cách công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga
12,34). Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ
thấy” (Ga 12,36). Người không còn gì để nói nữa.
19. Cái chết của Đức Giêsu sinh nhiều hoa trái tốt đẹp
(Chú giải của Fiches Dominicales)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Dân ngoại tiến đến
Bài Phúc âm Chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản nối
hai chủ đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề "những dấu chỉ” (từ phép
lạ Cana cho đến phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề "Giờ của Chúa"
(tức là cuộc khổ nạn, chết và sống lại).
Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thành đô Giêrusalem để mừng
lễ Vượt Qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng
Cha Người.
Trong khuôn viền Đền thờ, "có mấy người Hy lạp"
muốn tìm gặp Chúa. Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy Lạp nhưng
là dân ngoại có cảm tình với Do Thái giáo. Họ lên Giêrusalem thờ phụng Thiên
Chúa dịp lễ Vượt Qua? Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu
chỉ báo trước sự lên đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với Đức Kitô
sau này, là dấu chỉ loan báo giờ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã
điểm.
Họ tìm "gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy
Người mà thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò
với Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy.
Họ "lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với
cái tên Hy Lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy Lạp có thể
giúp làm môi giới cho họ được.
"Ông Philipphê đi nói với ông Anrê" cùng sinh
trưởng như ở ông Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông.
”Và hai Ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như
ở 1, 35-51 (Phúc âm Chủ nhật 2 Thường niên) Gioan, một lần nữa, nêu bật tầm
quan trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
2) Dấu chỉ loan báo giờ của Chúa
Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: "Đã đến giờ
Con Người được tôn vinh? Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo
hiệu những người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống Lại của Đức
Giêsu sẽ mở ra cho mọi người ơn cứu độ.
Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú
đem lại muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật Thầy bảo
thật anh em" cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn
hạt lúa mì với hai ý đối chọi nhau "trơ trọi một mình" và "sinh
được nhiều hạt". Để có thể sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải
chết đi: đó là quy luật của sự sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của
Người là quá trình bắt buộc để Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội
Thánh được sinh ra, nhân lên gấp bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi:
"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai
phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
X. Léon-Dufour quảng giải thêm: "Cuộc sống có thể được
coi như là "của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự
tồn tại hay tàn lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ
bằng mọi giá ấy, cái tài sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như
giòng nước đang chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không
chế ngự được dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống
này, nếu tôi chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi
co cụm lại, thì này đây sự "chết" ấy không có gì khác là một sự “xuất
thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế sẽ giữ lại được như lời Chúa nói,
cho sự sống đời đời". Như ta biết theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự
hiệp thông với chính Thiên Chúa vậy" (Lecture de l'evangile selon
Jean", quyển II, Seuil, trang 464).
3) Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên.
Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với
giờ vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử
dụng theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong
Phúc âm nhất lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vướng Giếtsêmani, và
bên kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê.
Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức
Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang
đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ
choán hết. Thế nên lời "Thầy xao xuyến" cũng như lời nguyện cùng Cha
"Lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này" được tiếp theo ngay bằng tâm
tình hoàn toàn phó thác nơi Cha của Người: "Nhưng không, chính vì Giờ này
mà Con đã đến! Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A.
Marchadour nhận xét: vùng lên như một bản tóm lược "kinh Lạy Cha" vậy
(kinh này không có trong Tin Mừng Gioan). Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ
chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha" (O.C. trang 169) .
Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện ‘Chúa Hiển Dung’, nhưng ở
đây ngài nhắc đến "có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người
chứng kiến giải thích khác nhau: Người thì cho rằng "đó là tiếng sấm”,
người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó
tuyên bố cho mọi người biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến
mạng sống Người đã được Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái.
Tác giả kết luận: "Bởi tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm cuối phần
thứ nhất của sách Tin Mừng, nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu
được Cha Người long trọng xác nhận là Con và là đang được sai đi. Đó là một sự
phê chuẩn có tính tôn vinh một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai.
Cuộc khổ nạn đối với Đức Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy"
(idem).
Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ
Người rằng: "Giờ Con chưa đến", thế mà Người cũng "đã tỏ vinh
quang" Người cho các môn đệ. Giờ đây, "Giờ đã đến" lúc vinh
quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế giới. "Khi làm những dấu lạ đầu
tiên” ở Cana, các môn đệ "đã tin vào Người? Từ nay khi được “giương cao
lên khỏi đất”, một kiểu nói ám chỉ cùng một trật, Người sẽ phải chết cách nào
và được Chúa Cha đem lên vinh quang, Đức Giêsu sẽ "kéo mọi người lên theo
với Người" và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha.
X. Léon Dufour hỏi để kết luận Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng
mong đợi của những người Hy lạp muốn "gặp" Người không?
Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng
bài diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên
Đấng-bị-đóng-đinh-được-tôn-vinh. Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết
rằng, người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được
nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mỗi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người
chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc
đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với
Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn
tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống". Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh
thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta
hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi. (O.C. trang 478).
BÀI ĐỌC THÊM
1) "Người thời nay
mải mê với những vấn đề căn bản"
(Các Giám mục Pháp, trong trình bày đức tin trong xã hội
hiện nay. Thư gởi các tín hữu Pháp. Cerf, trang 40-41).
"Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không
đang đi tìm tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn
bản, như: Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa
của hiện hữu con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của
nhân vị con người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối
tượng là nhân vị con người.
Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta
không phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào
để trao đổi với người ta?
Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên
Chúa trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin
trong xã hội hiện nay.
Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà:
chỉ muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng.
Trong những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng
gia sản mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những "người đề nghị"
đức tin. Để đạt mục đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ
của ân huệ Thiên Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của
Chúa Thánh Thần. Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chửng
tỏ tính thời sự của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng
Tin Mủng bằng cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa
mình: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ
thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời" (Mt 5, 16).
2) Phục vụ đời sống
con người theo cách thế của Đức Giêsu, người Tôi Tớ (idem trang 95-96).
Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu
chỉ quan tâm đến hành vi phụng tự. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong
Đức Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một
mối tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con
người, không gì mong manh và bị de doạ hơn đời sống ấy. Ta không thế phục vụ và
yêu mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện
diện trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt
nhắc nhở ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa
và phục vụ con người.
Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với
những người nghèo và người bị loại trừ được coi như "bí tích của Đức
Kitô”. Sự quan tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân
cũng như cộng đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác
tín rằng họ đang chu toàn ơn gợi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách
phục vụ con người như thế.
Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi
những thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh
trách nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên
đới và sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong
trào, đặc biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các
thành viên của mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải
chăm lo cho đời sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng
tập thể trên nếp sống của con người.
- Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của
riêng mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công
giáo trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức
Cứu trợ Công giáo (secours Catholique) hoặc CCFD (tổ chức chống đói và giúp
phát triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào
giáo dục và từ thiện nữa.
3) Sức năng động của
lời Chúa
(Kỷ yếu của CCFD)
Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận
thấy LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người.
Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và
thế nào hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án-đèn pha làm
thí dụ).
Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường
mới (cứ nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không
phải không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia.
Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá
nghèo và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm.
Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát
triển kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế
gian này đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng
ban sự sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về
Mầu nhiệm Thập giá.
Hiệp cùng với các anh em dự tòng; những người đã nhận ra
Đấng đang lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài
vào đáy lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài,
chúng ta hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng
mở. Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người.
Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người
đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người,
ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số
3).
20. Chúa Giêsu loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Ai ghét sự sống mình nơi thế gian này": Có lẽ phải
dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói
sêmita, động từ đùng ở đây, khi đối lại với chữ yêu, thì thường có nghĩa là yêu
mến ít hơn, là không xem như một giá trị tuyệt đối (St 29,31-33; Đnl 21,15; Mt
6,24; Lc 16,13; 14,26).
"Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa": Chữ
“tôn vinh" thứ nhất ở đây quy về các "dấu chỉ" Chúa Giêsu đã
thực hiện để làm chứng cho Chúa Cha. Chữ "tôn vinh" thứ hai ám chỉ
đến cái chết và việc giương cao Chúa Giêsu (vì tôn vinh Ngài trong chính mình).
“Dân chúng bảo đó là một tiếng sấm": Khó mà hiểu được tại
sao một tiếng nói lại có thể phát ra vì lợi ích của những kẻ đã không hiểu nó
cũng như không biết ai đã nói ra nó ("tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà
vì các ngươi"). Có thể Gioan đã nghĩ đến một nhóm thứ ba (các môn đồ chẳng
hạn) là những người, trong thực tế, đã nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa của
tiếng nói trên.
"Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này": Giờ
của Chúa Giêsu đánh dấu một giai đoạn quan trọng và quyết định đối với toàn thể
nhân loại. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt, cuộc sáng tạo mới bắt đầu (Việc
đi từ cuộc sáng tạo cũ sang sáng tạo mới không phải và một hiện tượng vật lý
đơn thuần, nhưng là một sự tiến triển luân lý và thiêng liêng). Số phận mỗi
người tùy thuộc vào biến cố này và vào việc người ta có chấp nhận nó bằng đức
tin hay không. Giờ Chúa Giêsu là giờ phán xét (krisis), giờ phân chia: ai từ
chối Chúa Giêsu vào "giờ” này thì bị liệt vào phe của "đầu mục thế gian",
đối thủ lợi hại của Chúa Giêsu, và bị luận phạt như nó (x. 3,18).
"Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài":
Chúa Giêsu nói đến Satan như nói đến một bạo chúa thất trận, bị truất phế.
Nhiều bản văn mà một số có nguồn gốc Kitô giáo (Ep 2,2; 6,12) đồng ý gán cho
Satan tước hiệu "đầu mục thế gian này". Các giáo sĩ cũng gọi nó là
"sar ha olam”
Chính ma quỷ gán cho mình quyền thống trị trên mọi sự
"thế gian" (Mt 4,9). Khi nói như thế, nó chỉ khoe khoang hão, tuy
nhiên hãy biết rằng trong Tin Mừng, tội nhân bị gọi là tội và ngay cả con cái
của nó (Ga 8,34.44; Cv 8,10), rằng Thiên Chúa đã đặt nó thi hành các việc công
lý của Ngài (Mt 5,25-26; G 2,6; Dcr 5,5), rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy ma
quỷ rất khéo léo trong việc phỉnh gạt, làm khổ nhân loại. "Và Ta, một khi
Ta được giương cao khỏi đất": Hãy so sánh với lối chơi chữ của St 40,13 và
St 40,19 về chữ "nâng đầu lên": đầu của viên chánh chước tửu sẽ
"được nâng lên cao" và ông sẽ được ân xá; còn đầu của viên chánh ngự
thiện cũng "được nâng lên cao" nhưng ông ta sẽ bị treo cổ. Trong Is
52, 13 thì bảo người Tôi tớ Gioan "được nhắc cao" và "được tôn
dương". Có lẽ đây là nguồn gốc chữ "được tôn vinh" và “được
giương cao" trong Gioan.
KẾT LUẬN
Trong đoạn này, chính “giờ" của Chúa Giêsu là trọng tâm
xét trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Về phương diện Kitô học,
"giờ" này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mệnh mặc khải
và cứu chuộc thế gian. Nó đặc trưng tất cả cuộc đời Chúa Kitô, vốn luôn quy
hướng về nó. Vì chính lúc bấy giờ xảy ra cuộc "phán xét" (krisis)
nhân loại, xảy ra sự phân chia (krisml) những kẻ tin hay từ chối tin mầu nhiệm
Chúa Kitô tử nạn và được tôn vinh. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống, còn ai
từ chối tin thì bị luận phạt và phải chết muôn đời.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu thường nói đến
"giờ" của Người. Đó là lúc người đạt đến cao điểm sứ mệnh cứu chuộc,
tức là Chết và Phục sinh. Không nên tách rời hai yếu tố này. Cái chết là cuộc
vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, nhưng sự phục sinh sẽ ban cho nó một ý
nghĩa khi tôn dương và làm nẩy sinh sự sống. Giờ Chúa Giêsu vừa là thứ Sáu
thánh vừa là Chúa nhật phục sinh, và giờ này hôm nay cứu tiếp tục trong mỗi
Kitô hữu là con người vừa chịu đựng đinh vừa được sống lại.
2) Ở đây Chúa Giêsu lợi dụng dịp vài người ngoại giáo đến
gặp để nói đến giờ của Người. Lương dân “Hy lạp" này là những kẻ có cảm
tình với đạo Do thái. Họ hành hương đến Giêrusalem dù không phải là con dân
Abraham. Chúa Giêsu bảo Giờ của người, nghĩa là ơn cứu chuộc, cũng liên hệ tới
họ. Liên hệ như thế nào? Người giải thích bằng cách đưa ra hình ảnh hạt lúa mì
chết đi trong lòng đất và mọc lên sai hoa lắm quả. Hạt lúa mì mục nát chính là
Người. Các hạt sinh sôi là tất cả mọi dân tộc, tất cả loài người, tất cả
"lương dân" sẽ trở thành tín hữu.
3) Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống Giờ của Chúa Giêsu.
Cần lưu ý là trong bản văn thánh Gioan, các chữ "vinh quang" và
"sự chết" rất gần nhau và hầu như được liên kết với nhau. Điều này
cho thấy hai điểm. Trước hết Kitô hữu phải biết tiêu diệt trong mình những gì
chống lại với sự sống đích thực. Phép rửa của họ đưa họ vào mầu nhiệm chết. Họ
không thể ở trên Thầy của họ. Họ phải chết về phương diện thể lý, nhưng cũng
phải vượt qua bằng một cái chết thiêng liêng: cái chết này gọi là sự từ bỏ
chính mình. Nhưng phải chăng vì thế mà họ phải tỏ ra khắc khổ và buồn bực?
Không, vì họ còn phải sống mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh, một mầu nhiệm vui
tươi của sự từ bỏ của Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự kết hiệp với cái chết và
phục sinh của Chúa Kitô cùng bắt chước Người. Thế mà Chúa Kitô, trong giờ của
Người, đã sống thực sự đau khổ và hiển vinh cùng một lúc. Nên Kitô hữu, người
của từ bỏ, phải đồng thời là người của sự vui mừng thiêng liêng.
4) Cũng như Thầy mình, mỗi Kitô hữu đều được kêu lời trở nên
hạt lúa gieo vào lòng đất. Điều này liên hệ tới phần của họ trong việc cứu rỗi
thế giới. Dù có được kêu gọi hoạt động bên ngoài hay không, thì mỗi Kitô hữu,
qua việc kết hợp với Chúa Kitô đều có ơn gọi tham gia vào việc cứu rỗi anh chị
em mình. Nếu không thể hoạt động bên ngoài, thì họ hãy ấp ủ tư tưởng phấn khích
này là: việc âm thầm dâng lời cầu nguyện, đau khổ, cái chết, trong sự kết hiệp
với Chúa Giêsu cũng có khả năng cứu rỗi nhiều người. Nếu có sự hoạt động, họ
phải nhớ rằng hiệu năng hành động của họ trước tiên tùy thuộc việc họ hiệp
thông vào kinh nguyện và khổ giá Chúa Giêsu.
5) Chúa Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn
để trở nên bánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên
lương thực nuôi ta trong bí tích Thánh Thể nhiệm mầu. Chúng ta hãy mau mắn đến
bàn tiệc rước lấy Mình Thánh Chúa để được tăng thêm sự sống của Người, để Người
biến đổi ta nên thân xác Người, hầu một ngày nào đó ta có thể nói: "Không
phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi".